TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TRẦN THỊ THU HIỀN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÕNG NGỪA
PHẠM TỘI TRONG HỌC SINH TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG YÊN THỦY C,
HUYỆN YÊN THỦY, TỈNH HÕA BÌNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng - an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
Thƣợng tá - ThS. PHẠM VĂN DƢ
HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thượng tá - ThS. Phạm Văn Dư;
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm cho em trong
suốt thời gian qua để em hoàn thiện tốt khoá luận cuả mình
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong trường ĐHSP Hà Nội 2;
đặc biệt là các thầy cô trong Trung tâm Giáo dục quốc phòng - an ninh Hà
Nội 2 và gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thiện khoá luận này.
Em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo và các em học sinh của Trường
THPT Yên Thuỷ C đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện
khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời gian
và do sự hạn chế về kiến thức nên khoá luận của em không tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy, em rất mong đựơc sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy
cô giáo và các bạn để khoá luận này được hoàn thiện hơn
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày 20 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Thu Hiền
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những vấn để trình bày trong khoá luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân em, có tham khảo các tài liệu dưới sự hướng dẫn của
Thượng tá - ThS. Phạm Văn Dư.
Khoá luận không trùng với đề tài nghiên cứu của các tác giả khác. Nếu
sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Thu Hiền
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THPT
Trung học phổ thông
GDQP - AN
Giáo dục quốc phòng - an ninh
HS
Học sinh
NXB
Nhà xuất bản
PGS.TS
Phó giáo sư.Tiến sĩ
TS
Tiến sĩ
ATXH
An toàn xã hội
CSGT
Cảnh sát giao thông
TTATGT
Trật tự an toàn giao thông
UBND
Ủy ban nhân dân
CA
Công an
CAND
Công an nhân dân
TNCS
Thanh niên cộng sản
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
5. Cơ sở phương pháp nghiên cứu .................................................................... 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................... 4
7. Kết cấu của khoá luận ................................................................................... 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .......................................... 5
1.1. Một số hiểu biết về tội phạm ...................................................................... 5
1.2. Tác hại của việc phạm tội trong học sinh trung học phổ thông. ................ 9
1.3. Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội trong học sinh THPT hiện nay 12
1.4. Những biểu hiện ở học sinh có dấu hiệu phạm tội................................... 18
1.5. Một số vấn đề về tình hình phạm tội trong học sinh ở nước ta hiện nay. 18
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÕNG NGỪA PHẠM TỘI
TRONG HỌC SINH TRƢỜNG THPT YÊN THUỶ C. ........................... 25
2.1. Đặc điểm tình hình an ninh ở địa phương và trường trung học phổ thông
Yên Thuỷ C. .................................................................................................... 25
2.2. Công tác phòng ngừa phạm tội trong HS trường THPT Yên Thuỷ C ..... 33
Chƣơng 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÕNG NGỪA PHẠM TỘI TẠI
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG YÊN THỦY C. ......................... 38
3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ, Ban Giám hiệu nhà
trường vể nội dung phòng ngừa phạm tội. ...................................................... 38
3.2. Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho học sinh về con đường
dẫn đến phạm tội và cách phòng ngừa. ........................................................... 39
3.3. Tổ chức hướng dẫn HS tham gia các hoạt động phòng ngừa phạm tội ... 43
3.4. Xây dựng tốt mối quan hệ giữa nhà trường - gia đình - xã hội trong việc
quản lý, giáo dục học sinh. .............................................................................. 46
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 55
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề học sinh phạm tội và các biện pháp đấu tranh phòng ngừa phạm
tội trong lứa tuổi chưa thành niên hiện nay là một nội dung đòi hỏi các cấp,
các ngành, mỗi người dân và cả xã hội ta đặc biệt quan tâm. Trẻ em hôm nay
là tương lai của đất nước mai sau. Việc bồi dưỡng thế hệ trẻ là việc rất quan
trọng và cần thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già của dân tộc Việt Nam đã
dạy “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Xuất
phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo nguồn lực nhân tài cho đất nước,
Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng quan tâm, chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ
em, đặc biệt là lứa tuổi chưa thành niên. Chúng ta xác định thế hệ trẻ em là
lớp công dân đặc biệt mà Nhà nước và toàn xã hội phải chăm sóc, giáo dục,
bảo vệ tốt nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ được phát triển toàn
diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức. Việt Nam đã ký công ước quốc tế về quyền
trẻ em. Song hiện nay trong quá trình thực hiện ta chúng đang vấp phải một
thách thức lớn, kìm hãm sự phát triển của giáo dục và đào tạo, đó chính là
tình trạng học sinh có những hành vi vi phạm pháp luật trong các trường học
ngày càng phát triển và gia tăng.
Theo số liệu của Cục cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Bộ
Công an chỉ trong vòng 6 năm từ năm 2007 đến tháng 6 năm 2013, cả nước xảy
ra 63,590 vụ án với 94,309 người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự,
trong đó năm 2007 cả nước có 10361 vụ án do người chưa thành niên gây ra
gồm: 15.589 em, 6 tháng đầu năm 2008 đã xảy ra 5.746 vụ mới với 9000 em
(tăng 2% so với cùng kỳ năm 2007). Số vụ án do người chưa thành niên gây ra
chiếm 20% tổng số vụ vi phạm hình sự với những hành vi phạm tội hết sức
manh động như trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, giết người. Lứa tuổi
phạm tội cao nhất từ 16 đến 18 tuổi (lứa tổi học sinh THPT) chiếm khoảng 60%,
từ 14 đến 16 tuổi chiếm 32%. Mức tái phạm cũng rất cao 35% [9].
1
Những hành vi phạm tội nguy hiểm có ảnh hưởng không chỉ tới nền
giáo dục mà đó còn là hiểm họa của toàn xã hội, huỷ hoại sự phát triển của
lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không những thế, nó
còn tác động và đe doạ nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh
quốc gia.
Mặc dù công tác phòng ngừa phạm tội trong học sinh đã được các cấp,
các ngành đặc biệt quan tâm, xây dựng các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn
thực hiện công tác này. Các trường THPT cũng đã lồng ghép công tác tuyên
truyền, giáo dục thức chấp hành pháp luật cho học sinh vào các nội dung học
giáo dục công dân. Tuy nhiên trong thời gian qua tình hình học sinh cấp
THPT phạm tội vẫn chưa giảm mà ngày càng có chiều hướng gia tăng nghiệm
trọng hơn.
Do vậy tìm hiểu tình hình học sinh phạm tội trong trường THPT cũng
như đưa ra các biện pháp phòng ngừa để giải quyết vấn đề này đang là một
công việc bức thiết. Trong thời gian đi thực tế ở trường THPT Yên Thuỷ C cũng là mái trường của quê hương mà em đã từng học tập, với mong muốn
được tham gia đóng góp chút công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng
nhà trường vững mạnh toàn diện, em đã chọn và nghiện cứu đề tài “Một số
biện pháp phòng ngừa phạm tội trong học sinh trường trung học phổ thông
Yên Thuỷ C, huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình” nhằm tìm ra những nguyên
nhân, hạn chế kết quả phòng ngừa phạm tội trong học đường. Từ đó đưa ra
các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa phạm tội.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng công tác phòng ngừa phạm tội trong học sinh
trường THPT Yên Thuỷ C.
Đề xuất một số biện pháp phòng ngừa phạm tội trong Nhà trường.
2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về công tác phòng ngừa tội phạm.
Nghiên cứu thực trạng vấn đề phạm tội của học sinh trong học đường,
những nguyên nhân và con đường dẫn đến hành vi phạm tội trong học sinh
THPT hiện nay.
Đưa ra những biện pháp phòng ngừa phạm tội trong học sinh đạt hiệu
quả để áp dụng vào trường THPT
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa phạm tội trong học sinh THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Khóa luận tập trung đi sâu nghiên cứu công tác phòng ngừa phạm tội
trong học sinh các trường trung học phổ thông. Do thời gian và kiến thức có hạn
nên phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào trường THPT Yên Thuỷ C.
5. Cơ sở phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu tài liệu, giáo trình Giáo dục quốc phòng - an ninh và các
văn bản quy phạm pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác phòng ngừa
tội phạm, từ đó xác định được cơ sở lý luận để tìm hiểu và đánh giá thực trạng
công tác phòng ngừa tội phạm trong học sinh THPT.
5.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu được sử dụng nhằm tham
khảo các tài liệu khoa học, các văn bản quy phạm pháp luật của Đảng, Nhà
nước về công tác phòng ngừa tội phạm. Qua đó có sự vận dụng tích cực vào
việc đấu tranh và phòng ngừa phạm tội trong trường THPT. Sử dụng phương
pháp tổng hợp và phân tích tài liệu để làm rõ về tình hình phạm tội trong
thanh thiếu niên, đặc biệt là học sinh THPT, qua đó khẳng định ý nghĩa của
công tác phòng ngừa phạm tội trong các trường THPT hiện nay.
3
5.3. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến đóng góp của các thầy giáo là giảng viên Trung tâm GDQP
Hà Nội 2 về cách trình bày bố cục khoá luận.
Xin ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo là giáo viên chủ nhiệm
lớp và thầy giáo Bí thư Đoàn trường của trường THPT Yên Thuỷ C để hoàn
thiện đề tài nghiên cứu.
5.4. Phương pháp toán học thống kê
Tổng hợp, thu thập, xử lý số liệu thu thập được trong quá trình khảo
sát, điều tra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp phòng ngừa phạm tội trong học
sinh trường THPT Yên Thuỷ C, huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình” nhằm cung
cấp những thông tin về hành vi dẫn đến phạm tội của học sinh THPT, giúp
cho nhà trường có biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa hiệu quả.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu thành công giúp cho các nhà quản lý, đội ngũ giáo
viên có cách nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về nhiệm vụ quản lý học sinh và
là cơ sở vận dụng trong công tác phòng ngừa tội phạm ở các trường THPT.
Đề tài còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn sinh viên khóa sau quan
tâm tìm hiểu và nghiên cứu.
7. Kết cấu của khoá luận
Khóa luận gồm phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu
tham khảo, phần nội dung gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng công tác phòng ngừa phạm tội trong học sinh
trường THPT Yên Thuỷ C.
Chương 3: Một số biện pháp phòng ngừa phạm tội tại trường THPT
Yên Thuỷ C.
4
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số hiểu biết về tội phạm
1.1.1. Khái niệm về tội phạm
Khái niệm tội phạm được quy định tại điều 8 bộ luật hình sự Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 21 tháng 12
năm 1999 như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vệ lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế nền văn hóa, quốc phòng, an ninh,
xâm phạm tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền
lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
1.1.2. Công tác phòng ngừa tội phạm
* Khái niệm phòng ngừa tội phạm
“Phòng ngừa tội phạm là việc các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã
hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân và
điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng
bước, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” (Giáo trình Giáo dục
Quốc phòng - an ninh, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội). Khái niệm trên được
hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp: Phòng ngừa tội phạm chỉ tập trung vào việc ngăn cản
tội phạm xảy ra, khắc phục loại bỏ nguyên nhân, điều kiện của tình trạng
phạm tội.
5
Theo nghĩa rộng: Ngoài việc ngăn cản tội phạm xảy ra còn sử dụng các
biện pháp nghiệp vụ để phát hiện xử lý tội phạm kịp thời
* Nội dung của phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tội phạm có những nội dung sau:
Phòng ngừa xã hội là (thuyết phục, giáo dục) là loại trừ khắc phục
những nguyên nhân và điều kiện phạm tội thông qua việc cải thiện quan hệ xã
hội hoàn thiện hệ thống pháp luật để tình hình tội phạm không còn cơ sở để
phát sinh, phát triển. Đây là biện pháp nền tảng, cốt lõi, mang tính chủ động
nhưng để tiến hành triệt để thì đòi hỏi một thời gian lâu dài.
Phòng ngừa bằng sự cưỡng chế (mang tính nhà nước) là việc phát hiện
và xử lý tội phạm, trọng tâm là các hoạt động khởi tố điều tra, xét xử, thi hành
án hình sự.
* Ý nghĩa của phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tội phạm đem lại ý nghĩa nhân đạo và tiến bộ xã hội. Nhà
nước và xã hội có sự chia sẻ trách nhiệm với những người phạm tội.
- Về mặt kinh tế: Phòng ngừa tội phạm sẽ hạn chế đến mức thấp nhất
những thiệt hại về kinh tế mà tình hình tội phạm gây ra trong xã hội. Kể cả
những thiệt hại gián tiếp mà nhà nước, xã hội phải chi phí để khắc phục hậu
quả do tội phạm để lại.
Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm sẽ tiết kiệm ngân sách nhà nước,
sức lao động của nhân viên nhà nước, của công dân trong các hoạt động điều
tra, truy tố, xét sử và giáo dục và cải tạo người phạm tội, cũng như trong việc
giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm.
- Về mặt quản lý xã hội: Thông qua hoạt động phòng ngừa tội phạm
nhà nước có thể kiểm soát được mảng tối của đời sống xã hội là tình hình tội
phạm. Qua đó nâng cao tính hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, đồng
thời tăng hiệu quả trong việc hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
6
Phòng ngừa tội phạm mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt
công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của mọi
công dân.
* Các chủ thể phòng ngừa tội phạm
- Chủ thể phòng ngừa tội phạm gồm 5 nhóm sau:
+ Các tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
+ Các cơ quan quản lý nhà nước, chính phủ và UBND các cấp.
+ Các cơ quan tư pháp: Viện kiểm soát, Toà án, Công an.
+ Các tổ chức đoàn thể và mọi công dân.
1.1.3. Phân loại các biện pháp phòng ngừa tội phạm
Phân loại các biện pháp phòng ngừa tội phạm được xác định ở hai mức
độ khác nhau: Phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội), Phòng chống riêng
(chuyên môn).
Phòng ngừa chung là tổng hợp tất cả các biện pháp về chính trị, kinh tế,
văn hoá, pháp luật, giáo dục. Đây là quá trình toàn xã hội phải tham gia nhằm
khắc phục những sơ hở, thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát
triển của tội phạm.
Phòng chống riêng (phòng và chống của lĩnh vực chuyên môn) là việc
áp dụng các biện pháp chuyên môn của từng nghành, từng lực lượng trong đó
có hoạt động của các cơ quan công an với vai trò nòng cốt.
Khi nghiên cứu các biện pháp phòng chống tội phạm có thể phân loại
thành các hệ thống biện pháp phòng ngừa tội phạm như sau:
- Căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động có các biện pháp sau: Biện
pháp phòng ngừa chung, phòng ngừa theo nhóm, phòng ngừa theo nhóm tội
phạm cụ thể.
7
- Căn cứ vào nội dung tính chất các biện pháp phòng ngừa tội phạm có
các biện pháp sau: Biện pháp về chính trị tư tưởng, về văn hóa tâm lý, về
pháp luật và phát hiện xử lý tội phạm.
- Căn cứ vào đối tượng tác động của các biện pháp phòng ngừa có các
biện pháp sau: Biện pháp phòng ngừa áp dụng chung cho mọi đối tượng trong
xã hội tuyên truyền giúp đỡ; các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho đối tượng
là những người dân xấu dễ bị phạm tội và cho người đã phạm tội; các biện
pháp phòng ngừa áp dụng cho cán bộ công nhân viên chức nhà nước và
những người chưa thành niên phạm tội.
- Căn cứ vào địa bàn và lĩnh vực cần phòng ngừa tội phạm có những
biện pháp sau: Các biện pháp phòng ngừa áp dụng chung trên phạm vi toàn
lãnh thổ quốc gia; các biện pháp phòng ngừa áp dụng riêng cho từng địa
phương, vùng miền; cho từng ngành và từng lĩnh vực hoạt động.
1.1.4 Các nguyên tắc phòng ngừa tội phạm
Phòng ngừa tội phạm có những nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc pháp chế là mọi hoạt động phòng ngừa tội phạm của các
cơ quan nhà nước, tổ chức, các công dân phải hợp hiến, hợp pháp.
- Nguyên tắc dân chủ XHCN là với mọi cơ quan tổ chức công dân đều
có thể tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm và Nhà nước phải tạo mọi
điều kiện cho các chủ thể tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm và phát
huy được mọi nguồn lực trong xã hội vào việc phòng ngừa tội phạm.
- Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa là các biện pháp phòng ngừa
tội phạm không được hạ thấp danh dự nhân phẩm con người mà phải nhằm
khôi phục con người và tạo điều kiện để con người phát triển.
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong phòng ngừa tội phạm là các
biện pháp phòng ngừa phải được xây dựng trên cơ sở khoa học các thành tựu
khoa học nhất định, phải ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong
8
việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Phải đảm bảo cho mọi
người có cơ hội phát triển bình đẳng, không được phân biệt chủng tộc, tôn
giáo, giới tính, thái độ chính trị.
- Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa chủ thể trong công tác phòng ngừa
tội phạm. Là mỗi chủ thể khi tham gia phòng ngừa phạm tội trong phạm vi và
nhiệm vụ phòng ngừa ở từng địa phương, từng ngành mà mình quản lý đồng
thời có sự phối hợp chặt chẽ với các chủ thể khác để có thể thực hiện một
cách tốt nhất hoạt động phòng ngừa tội phạm.
- Nguyên tắc cụ thể hoá trong phòng ngừa tội phạm là biện pháp phòng
ngừa tội phạm luôn được nhận thức rõ ràng, chứa đựng những giải pháp khả
thi và phù hợp với điều kiện đặc thù về phòng chống tội phạm ở mỗi ngành,
mỗi địa phương, mỗi lĩnh vực.
1.2. Tác hại của việc phạm tội trong học sinh trung học phổ thông.
Tội phạm nói chung và tội phạm trong lứa tuổi học sinh nói riêng ngày
nay không phải là vấn đề riêng của từng quốc gia mà đã trở thành vấn đề toàn
cầu. Tội phạm trong lứa tuổi học sinh gây ra đã và đang phá hoại sự phát triển
bền vững của các gia đình, nhà trường và xã hội, làm sói mòn các giá trị văn
hóa gia đình, đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của quốc
gia và từng địa phương.
1.2.1 Tác hại đến bản thân và gia đình
* Tác hại đến bản thân:
Tình trạng phạm tội trong học sinh THPT, đặc biệt là sự đi xuống về tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên, học sinh gây ra
nhiều vụ án và tệ nạn xã hội rất nghiêm trọng.
Lối sống ăn chơi buông thả trong một bộ phận thanh thiếu niên, HS do
không tự kiềm chế được những nhu cầu không lành mạnh, làm mất dần tính
văn hóa và trí tuệ. Nhiều thanh thiếu niên, HS lơ là trong học tập, vì ham chơi
9
nên bỏ học, bỏ nhà theo đàn anh, đàn chị xấu, ngày càng nhấn xâu vào con
đường tội lỗi và gây nên những hành vi phạm tội nguy hiểm. Khi phạm tội,
tương lai của các em là một “con đường màu đen”, và sẽ không có một ánh
sáng nào có thể soi đường nếu như các em không biết quay đầu lại.
Theo PGS.TS Phạm Hồng Tung, một kết quả điều tra năm 2010 cho
thấy, sau 5 năm, tình trạng bi quan, chán nản trong thanh niên có chiều hướng
tăng lên một cách đáng lo ngại: Có 73,1% thanh niên từng có cảm giác buồn
chán; 27,6% từng "rất buồn", thấy mình vô tích sự đến nỗi làm cho bản thân
không muốn hoạt động như bình thường. Có tới 21,3% từng thất vọng hoàn
toàn về tương lai và 4,1% nảy sinh ý nghĩ tự tử [9].
Những hành vi phạm tội sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và
tinh thần của bản thân người phạm tội, đối với HS khi đã mắc phải lỗi lầm thì
rất khó sửa chữa, hành vi mà họ đã gây ra có ảnh hưởng không chỉ đến uy tín,
danh dự, kết quả học tập của cá nhân mà còn hủy hoại tương lai của bản thân.
Có nhiều học sinh, sinh viên luôn cảm thấy xấu hổ, tự ti với bạn bè, thầy cô
giáo, với người thân và hàng xóm xung quanh.
Người phạm tội cảm thấy không tự tin về bản thân và họ không tránh
khỏi sự lên án của dư luận xã hội. Có nhiều hành vi vì quá nguy hiểm và
nghiêm trọng nên không ít học sinh đã bị nhà trường đuổi học hoặc tự nghỉ
học.
* Tác hại đến gia đình:
Phạm tội có thể làm băng hoại đạo đức, lối sống, truyền thống, thuần
phong mỹ tục của một gia đình, một dòng họ. Hành vi phạm tội có thể làm
cho những quan hệ thân thương trong gia đình trở thành thù hận, gây tan
thương, chết chóc, có nhiều gia đình tan nát vì con em mình vướng vào ma
túy, mại dâm, cờ bạc, đánh nhau, cướp tài sản....Việc phạm tội còn gây tổn
hại về kinh tế, tình cảm, phá vỡ hạnh phúc gia đình và ảnh hưởng đến nhân
10
cách thành viên trong gia đình. Hậu quả của hành vi phạm tội vừa gây tốn
kém về tài chính, vừa làm ảnh hưởng tới sức khỏe của những người thân
trong gia đình. Khi một học sinh gây nên sự lo lắng, sợ hãi vì những hành vi
mà con em mình gây nên.
Học sinh là những hạt mầm của mỗi gia đình, những người đang được
cha mẹ kỳ vọng nhiều vào sự trưởng thành, sẽ lao động làm ra của cải vật chất
để phần nào giúp đỡ cho gia đình, vậy mà hiện nay không ít HS đã sa ngã vào
con đường phạm tội, vì vậy đây là khó khăn lớn đối với bậc cha mẹ.
1.2.2. Tác hại tới môi trường giáo dục trong nhà trường
Nhà trường là môi trường thứ hai trong quá trình hình thành nhân cách,
phẩm chất, năng lực của các em học sinh, đồng thời cũng là nơi các em lĩnh
hội tri thức, tiếp thu các giá trị chuẩn mực xã hội một cách chính thức và có
định hướng rõ ràng. Bởi vậy giữ vững an ninh trật tự an toàn xã hội ở nhà
trường hiện nay là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết.
Tình trạng phạm tội trong học sinh sẽ gây ảnh hưởng tới môi trường sư
phạm, làm mất đi tính trong sạch, lành mạnh trong nhà trường, làm ảnh hưởng
tới uy tín, danh dự của nhà trường, trước hết là Ban Giám hiệu, các thầy cô
giáo, đặc biệt là thầy cô giáo giữ vai trò chủ nhiệm lớp và ảnh hưởng đến tư
cách, phẩm chất của người đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Tình trạng học sinh phạm tội làm gây rối, mất trật tự trong trường học
và ngoài xã hội sẽ là khó khăn lớn cho nhà trường và thầy cô giáo chủ nhiệm
trong việc quản lý, giáo dục học sinh; chất lượng giáo dục sẽ không đạt hiệu
quả cao. Nếu không có biện pháp ngăn ngừa hợp lý và có hiệu quả thì những
em học sinh ngoan, ưu tú sẽ dễ bị rủ rê vào con đường phạm tội, nhà trường
sẽ rơi vào khó khăn khi đào tạo những học sinh giỏi.
1.2.3 Ảnh hưởng xấu tới công tác giữ gìn trật tự ATXH
Theo số liệu của Bộ giáo dục và đào tạo trong năm 2009 có khoảng 9
nghìn vụ tội phạm do thanh thiếu niên và học sinh gây ra, giảm 9,6% so với
năm 2008; nhưng tính chất phạm tội lại ngày càng nghiêm trọng [9].
11
Tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế cho xã hội cũng như cá
nhân người mắc phải. Làm cho nhà nước mất đi một nguồn nhân lực dồi dào,
đồng thời phải chi phí nhiều mặt cho công tác đấu tranh phòng chống, ngăn
ngừa ảnh hưởng rất lớn đến ngân sách của đất nước.
Tội phạm là một trong những yếu tố góp phần làm gia tăng sự phân hóa
giàu nghèo, ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách về phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội và phát triển nhân tố con người trong thời đại hiện nay.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội rất phức tạp có nguồn gốc sâu xa và
liên quan đến mọi mặt đời sống xã hội. Việc phạm tội sẽ làm ảnh hưởng, gây
mất trật tự công cộng; làm cho người dân xung quanh nơi xảy ra những hành
vi phạm tội hoang mang, lo sợ, đồng thời làm xói mòn đạo đức xã hội.
1.3. Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội trong học sinh THPT hiện nay
1.3.1 Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân từ chính bản thân học sinh:
Học sinh THPT là lứa tuổi chưa thành niên, nghĩa là ở độ tuổi chuyển
tiếp của hệ tăng trưởng phát triển độ tuổi “trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của
độ tuổi trưởng thành. Là giai đoạn thay đổi quan trọng nhất về thể chất, cảm
xúc và ý thức xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Sự tăng trưởng của các tuyến nội
tiết đã thúc đẩy phát triển các bộ phận cơ thể trưởng thành theo một trình tự
nhất định, đây là giai đoạn “quá độ” sự phát triển tâm lý rất phức tạp, mẫn
cảm, dễ thay đổi và khó lường trước được. Tâm lý học xác định quá trình hình
thành và phát triển của các em học sinh phụ thuộc mạnh mẽ về tâm sinh lý,
tuỳ thuộc vào độ tuổi nhưng ở mức độ không đồng đều với những dấu hiệu
tâm sinh lý rất khác nhau, khi bị tác động bởi môi trường, điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau. Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm lý
đó nên khi học sinh thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thường xuất phát từ
những yếu tố khác nhau.
12
Ở lứa tuổi học sinh thì họ luôn hướng tới sự ham thích mới lạ, hiếu
động, muốn thể hiện các tính anh hùng, hảo hán, do đó có trường hợp chỉ vì
cái nhìn thiếu thiện cảm hay chỉ vì xích mích nhỏ mà các em thực hiện những
hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như cố ý gây thương tích, đánh nhau
hoặc dễ bị kích động lôi kéo vào con đường phạm pháp.
Sự giao tiếp bạn bè cùng trang lứa và các mối quan hệ cá nhân ngày
càng gắn bó, mở rộng và chịu ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè rất mạnh, thậm
chí nghe theo lời bạn bè nhiều hơn nghe lời khuyên của cha mẹ, gia đình.
Tính cách của các em học sinh thường phát triển theo khuynh hướng thích
chứng tỏ đã là người lớn và mong muốn mọi người xung quanh thừa nhận
mình, do vậy thường gặp những sai lầm trong khi xử lý mọi vấn đề khó khăn
gặp phải nhằm chứng tỏ sự trưởng thành của bản thân mình.
Ở lứa tuổi học sinh rất dễ tự ái, giận dỗi, thậm chí trở nên hung dữ khi
bị coi là con nít hoặc người lớn gọi là “cô bé”, “cậu bé”. Sự tự trọng thái quá
trở thành tự tôn hay tự ti mặc cảm và bị xúc phạm dễ có tâm lý tiêu cực, mà
hệ quả thường là phản ứng bằng những hành vi sai trái hoặc hành vi vi phạm
pháp luật.
Một số học sinh cá biệt có tâm trạng xấu như khủng hoảng niềm tin,
luôn mặc cảm và có cảm giác cô đơn, lo sợ, tình cảm của các em đối với
người thân không thân thiết gần gũi. Do các em có tâm lý liều lĩnh, bồng bột,
bất cần, thù tức cá nhân đối với những người có tác động nghiêm, cứng nhắc
đến các em. Các em có xu hướng thiên về sự dịu dàng bao dung hơn là sự
trừng phạt cấm đoán. Nếu các em được khơi gợi yêu thương chăm sóc các em
dễ cảm kích tin tưởng nghe theo.
Những em bị mặc cảm do kết quả học tập sa sút và bị thầy cô, gia đình
khiển trách, bạn bè chế giễu cũng dễ bị lôi kéo vào những việc xấu, dễ bị dụ
dỗ, đe dọa từ đó dễ có những hành vi vi phạm pháp luật.
13
1.3.2. Nguyên nhân khách quan
1.3.2.1. Những nguyên nhân thuộc về gia đình:
Gia đình bao giờ cũng là môi trường ảnh hưởng đầu tiên và xuyên suốt
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của các em học sinh. Học sinh
luôn chịu tác động bởi không khí yêu thương hòa thuận, đùm bọc trong gia
đình. Học sinh cũng chịu sự ảnh hưởng cực lớn từ cách thức cư xử và mối quan
hệ của cha mẹ họ với nhau, với thành viên ruột thịt khác. Cha mẹ luôn là hình
ảnh mẫu mực về người lớn, người chịu trách nhiệm đối với gia đình và xã hội
nên học sinh có chiều hướng giống đức tính của cha mẹ mình nhiều hơn.
Nhưng bên cạnh đó có rất nhiều gia đình có cuộc sống không hạnh
phúc đã dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực: sự thiếu gương mẫu về đạo đức
lối sống, các hành vi đánh đập, chửi bới, gia đình không hoà thuận, không tôn
trọng lẫn nhau, một số thành viên trong gia đình sống buông thả, sa đọa, truỵ
lạc, rượu chè, cờ bạc, thậm chí phạm tội đã tác động trực tiếp đến nhận thức
và hành động của học sinh từ đó học sinh tỏ ra bi quan chán nản, mất phương
hướng trong cuộc sống dẫn đến việc bỏ nhà lang thang, dễ có những hành vi
phạm tội.
Một số gia đình chưa có phương pháp giáo dục đối với con cái. Phương
pháp đó có thể là quá chiều chuộng hoặc quá khắt khe cứng nhắc thô bạo làm
con cái sợ hãi, xa lánh cha mẹ, trốn nhà bỏ đi lang thang.
Một số gia đình thiếu quan tâm đến việc quản lý, chăm sóc giáo dục
con cái do nhiều nguyên nhân khác nhau như: bận rộn với công việc, đi công
tác xa, hay phải xoay sở kiếm tiền không thường xuyên kiểm tra, quán xuyến
hết công việc hàng ngày của con cái. Nhiều gia đình có quan điểm sai trái về
bổn phận chăm sóc giáo dục con cái, cho đó là trách nhiệm của nhà trường rồi
bỏ mặc con cái “tự thân vận động”. chính những điều này đã làm cho học sinh
dễ sa ngã, dễ bị bạn xấu rủ rê lôi kéo vào con đường phạm tội.
14
Một số gia đình có cấu trúc không hoàn hảo như: Mồ côi bố hoặc mẹ,
hay bố mẹ ly hôn không có người chăm sóc dạy dỗ con cái; thiếu tình cảm;
thiếu thốn về kinh tế nên dễ bị ảnh hưởng của những hiện tượng tiêu cực và
phạm pháp.
Những học sinh phạm tội thuộc các gia đình có cấu trúc như vậy chiếm
tỉ lệ đáng kể trong số các vụ án do học sinh gây ra.
Gia đình có kinh tế khó khăn nên con cái không có điều kiện để học tập
và sớm phải bươn trải xoay sở kiếm sống, tiếp xúc với các tệ nạn xã hội, có
thể làm bất cứ việc gì để kiếm sống, kể cả phạm tội.
Tóm lại gia đình là tổ ấm, đồng thời là trường học đầu tiên của học
sinh. Gia đình cũng là nơi học sinh cần có tiếp nhận vào mình những yếu tố
cơ bản hình thành nên nhân cách và thái độ sử sự đối với cộng đồng.
1.3.2.2. Những nguyên nhân thuộc về nhà trường.
Sau tổ ấm gia đình thì nhà trường là “gia đình thứ 2” của đa số học sinh
có điều kiện sống bình thường. Ngoài cha mẹ, thầy cô và bạn bè là những ảnh
hưởng mạnh đến quá trình hình thành tính cách của học sinh. Nhà trường là
nơi học sinh trải nghiệm nhận thức và thái độ giao tiếp với cộng đồng và cũng
là nơi đầu tiên học sinh được tự do vượt qua sự che chở và điều khiển của cha
mẹ, họ phải học cách tự đưa ra quyết định, suy nghĩ cho bản thân và có trách
nhiệm về các hành động của mình. Đây là giai đoạn mà theo nghiên cứu tâm
lý là “đầy rẫy những mơ hồ, hụt hẫng và mâu thuẫn” và khi vượt được các rối
loạn này học sinh mới có khả năng trưởng thành, độc lập, có khả năng cho,
nhận và liên kết với người khác.
Nhà trường là nơi thoả mãn ngày một tốt hơn những nhu cầu muôn
hình muôn vẻ của học sinh, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho các em. Vì
vậy nhà trường là môi trường rất quan trọng để giúp các em học sinh trách xa
những tệ nạn xã hội và những hành vi vi phạm pháp luật. Nhà trường là nơi
15
diễn ra các hoạt động nhóm bạn, có thể là nhóm bạn xấu và cũng có thể là
nhóm bạn tốt, nhiều em đã đua đòi theo nhóm bạn xấu và gây nên hành vi
phạm tội, đồng thời có nhiều yếu tố của môi trường xã hội xâm nhập vào nhà
trường làm ảnh hưởng xấu đến học sinh.
Trong khi đó hiện nay việc quản lý học sinh trong các nhà trường còn
nhiều thiếu sót, thường chỉ giao khoán cho thầy, cô giáo phụ trách, còn thiếu
cơ chế kiểm tra trách nhiệm thầy cô giáo, đặc biệt là để tồn tại học sinh cá
biệt, lưu ban, bỏ học. Đáng chú ý, vấn đề kỷ luật học đường hiện nay chưa
nghiêm. Ngoài ra, sự phối hợp trao đổi thông tin, liên lạc giữa gia đình và nhà
trường thiếu chặt chẽ nên nhiều HS tự ý bỏ học đi lang thang hoặc tìm niềm
vui qua các trò chơi điện tử, phim ảnh bạo lực, khiêu dâm mà nhà trường và
gia đình không hay biết...Chất lượng công tác quản lý giáo dục trong các
trường học còn bị giảm sút, chất lượng giáo dục chưa cao. Một số giáo viên bị
ảnh hưởng bởi chế độ cơ chế thị trường nên trong giảng dạy không quan tâm
đến chất lượng học tập của học sinh, mang nặng tính trách nhiệm, thiếu đi sự
nhiệt tình trong quá trình giảng dạy. Công tác giáo dục công dân trong nhà
trường phổ thông còn chưa được chú trọng đúng mức. Giáo viên còn nặng về
dạy chữ, học sinh chưa chú trọng học các môn đạo đức, chính sự thiếu giáo
dục về đạo đức cùng với lối sống buông lỏng, thiếu sự kiểm tra, uốn nắn kịp
thời của thầy cô giáo, đặc biết đối với những em có hoàn cảnh gia đình éo le,
gặp trắc trở trong cuộc sống, dẫn đến các em có tư tưởng chán học, bỏ giờ
lang thang gặp bạn bè xấu và bị rủ rê, lôi kéo dẫn đến phạm tội.
Nhà trường chưa chú trọng đến sự phối hợp liên lạc thường xuyên với
gia đình học sinh dẫn đến việc quản lý không tốt giờ giấc của các em. Do đó
các em làm nhiều việc mà nhà trường và gia đình không nắm bắt được, không
có sự điều chỉnh uốn nắn kịp thời.
Các biện pháp xử lý kỷ luật đối với học sinh vi phạm trong trường học
hiện nay còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng một số học sinh vi phạm pháp luật,
16
bị nhà trường xử lý buộc thôi học, bên cạnh đó gia đình và địa phương chưa
có biện pháp quản lý, giáo dục phù hợp để thả lỏng. Từ đây chúng bị thất học
lại không có việc làm bị bạn bè xấu rủ rê, đây cũng là nguyên nhân quan trọng
đẩy học sinh đến con đường phạm tội.
1.3.2.3. Những nguyên nhân thuộc về xã hội
Môi trường xã hội nơi các em sinh sống hiện đang tồn tại nhiều hiện
tượng tiêu cực như các loại hình dịch vụ và các điểm kinh doanh không lành
mạnh, là môi trường dễ nảy sinh tệ nạn xã hội và các hành vi phạm tội. Chính
những hiện tượng tiêu cực mà học sinh trực tiếp quan sát hoặc tiếp xúc đã
hình thành trong chúng những suy nghĩ tiêu cực và dễ bị sa ngã.
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật chưa được chú trọng đúng
mức. đồng thời việc thực thi kém hiệu quả các quy định của pháp luật đã được
ban hành, nhất là bộ luật hình sự và luật tố tụng hình sự, dẫn đến tình trạng
trật tự, kỷ cương xã hội chưa nghiêm.
Các đối tượng phạm tội hình sự hoạt động với nhiều thủ đoạn tinh vi
xảo quyệt, chúng tìm cách dụ dỗ, lôi kéo học sinh vào con đường ăn chơi hư
hỏng dẫn đến phạm tội. Đặc biệt chúng lôi kéo con em của những cán bộ có
chức có quyền làm “lá chắn” cho chúng.
Công tác quản lý xã hội nói chung, quản lý các loại hình dịch vụ nói
riêng chưa được hoàn thiện. Sự trôi nổi của sách báo, băng đĩa lậu có nội
dung đồi truỵ, khiêu dâm, kích động bạo lực có tác động đến nhận thức và
hoạt động của chính các em học sinh. Các em khi tiếp xúc với các nội dung
đó lại không nhận thức được hết tính nguy hiểm của chúng, bắt chước các
hoạt động trên phim ảnh từ đó dẫn đến phạm tội.
Có thể nói hầu hết vi phạm pháp luật của các em học sinh đều có căn
nguyên từ sự tác động của môi trường, gia đình, nhà trường và xã hội. Song
quá trình hình thành vi phạm pháp luật của học sinh không phải lúc nào cũng
17
được biểu hiện rõ ràng để có thể phân tích đơn giản và cũng không phải chỉ
cần mô tả chứng minh và giải quyết một lần là xong.
Vì vậy nghiên cứu toàn diện về môi trường gia đình, nhà trường và xã
hội là cơ sở và điều kiện cơ bản làm nảy sinh hành vi vi phạm pháp luật của
các em học sinh để có cơ sở khách quan đề ra biện pháp xử lý và phòng ngừa
vi phạm pháp luật của học sinh một cách phù hợp.
1.4. Những biểu hiện ở học sinh có dấu hiệu phạm tội.
1.4.1. Thường xuyên bỏ học: Hiện tượng học sinh bỏ học trên lớp do
thầy, cô giáo quản lý chưa chắc, công tác kiểm tra sĩ số vào đầu giờ học và
những giờ ra chơi chưa chặt chẽ; khi phát hiện học sinh bỏ học chưa có biện
pháp xử lý kịp thời. Các bậc cha mẹ thường tin tưởng vào sự trung thực của
con cái, ít khi kiểm tra bài vở ghi trên lớp nên không phát hiện ra con em
mình bỏ học, trốn học.
1.4.2. Thay đổi về tác phong sinh hoạt hàng ngày: Biểu hiện thường
tụ tập ở những nơi có nhiều tệ nạn như cờ bạc, ma tuý, đánh nhau, đua xe trái
phép. Đi chơi, kết bè phái cùng những người đã có hành vi vi phạm pháp luật
hoặc thường đi chơi cùng bạn bè xấu. Dấu hiệu này thường được nhận biết
qua phản ánh của hàng xóm và sự theo dõi của người thân trong gia đình.
Kiểm tra túi quần áo, trong cặp sách thường có dao, côn, thuốc lá, bật
lửa hoặc những vật dụng bất thường khác.
1.4.3. Lực học giảm sút: kết quả học tập có chiều hướng đi xuống,
hạnh kiểm thấp kém, thường xuyên bỏ những buổi học thêm để đi chơi hoặc
học sinh đi học sớm, về nhà muộn; thường xuyên xin tiền cha mẹ và đi chơi
về khuya hoặc không về …
1.5. Một số vấn đề về tình hình phạm tội trong học sinh ở nước ta hiện nay.
1.5.1.Tình hình phạm tội ở trẻ vị thành niên trên cả nước
Theo nội dung báo cáo của Ban chỉ đạo Đề án IV Bộ Công an về “Đấu
tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi chưa
thành niên”, trong vòng 6 năm (2007 - 2013), trên cả nước đã xảy ra 63.600
18
vụ án hình sự do trẻ vị thành niên gây ra, với 94.300 đối tượng là trẻ vị thành
niên phạm tội, tăng gần 4.300 vụ án so với 6 năm trước đó [9].
Như vậy, trong 6 năm qua, bình quân mỗi năm có trên 10.000 vụ án,
với hơn 15.000 đối tượng là trẻ vị thành niên phạm tội. Bình quân mỗi ngày
xảy ra trên 30 vụ án với gần 40 đối tượng. Con số này cũng tương đương với
số vụ tai nạn giao thông và số người chết vì tai nạn giao thông hàng năm và
hàng ngày. [9]
Theo số liệu tại Hội thảo “Chính sách hình sự và thực tiễn công tác thi
hành án hình sự, thi hành biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên
phạm tội” do Ủy ban tư pháp của Quốc hội tổ chức mới đây, trung bình hàng
năm xảy ra gần 10.000 vụ vi phạm pháp luật hình sự với gần 15.000 đối
tượng. Hầu hết các vụ phạm pháp hình sự liên quan tới người chưa thành niên
xảy ra ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Khánh Hòa, Đắc
Lắc, Hà Nội…
Các số liệu thống kê cho thấy, tội phạm do trẻ vị thành niên gây ra chủ
yếu là các tội: trộm tài sản, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng,
cướp tài sản, cướp giật tài sản, đánh bạc, hiếp dâm, cưỡng đoạt tài sản, giết
người… Với mỗi vụ án, hầu hết những tội phạm vị thành niên đều phạm cùng
một lúc nhiều tội danh. Trong đó có những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, với
những đối tượng vị thành niên phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, ví dụ như Lê
Văn Luyện phạm nhiều tội đặc biệt nghiêm trọng khi chưa đủ 18 tuổi.
Một vấn đề đáng lo ngại là càng ngày số tội phạm vị thành niên càng
trẻ hóa. Theo thống kê trong tổng số 94.300 tội phạm vị thành niên nói trên,
số trẻ dưới 14 tuổi phạm tội chiếm tới 13%, trẻ từ 14 đến 16 tuổi phạm tội
chiếm tới 34,7%. Thống kê trên cũng cho biết thêm, có đến trên 70% số đối
tượng trong tổng số 94.300 đối tượng vị thành niên phạm tội là ở các thành
phố, thị xã. Số đối tượng ở nông thôn chỉ chiếm 24% [9]. Điều cần quan tâm
19