Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Đề cương môn học Đói nghèo và bất bình đẳng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.87 KB, 7 trang )

Nhận xét và bình luận gì về xu hướng bất bình đẳng ở Việt Nam trong hai thập
kỷ qua. Đâu là nguyên nhân của sự gia tăng bất bình đẳng ở Việt Nam. Theo
Anh/chị, có thể xóa bỏ hoàn toàn bất bình đẳng?
Thứ nhất, theo phương pháp đo lường về bất bình đẳng nói chung (qua hệ
số Gini)
Theo cách nhìn này, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các nguồn số liệu
thống kê và tài liệu nghiên cứu đã công bố về Việt Nam đều cùng chung một nhận
định rằng, bất bình đẳng ở Việt Nam ở mức vừa phải (tức là tương đối công bằng)
khi so sánh với các nước có điều kiện tương tự trong khu vực và trên thế giới. Nếu
so sánh hệ số Gini về chi tiêu ở Việt Nam với một số nước trong khu vực vào thời
điểm xung quanh năm 1998, ta thấy rằng bất bình đẳng ở Việt Nam là ít hơn Thái
Lan, nó tương tự Pê-ru, Băng-la-đét, Ấn Độ và In-đô-nê-xi-a. Điều này là rất ấn
tượng đối với Việt Nam trong việc giảm bất bình đẳng đầy ý nghĩa, với sự cam kết
mạnh mẽ tiến tới công bằng xã hội.
Thứ hai, theo phương pháp đo lường về bất bình đẳng cơ hội (qua chỉ số
chênh lệch)
Nếu xem xét theo bất bình đẳng về cơ hội, thì sự bất bình đẳng ở khu vực đô
thị luôn cao hơn ở khu vực nông thôn trong các năm 1996-2004. Ở khu vực đô thị
là 0,37(1996); 0,423(2004) và ở khu vực nông thôn là 0,33(1996); 0,37(2004).
Nếu ta xem xét sự bất bình đẳng về tỉ lệ nghèo ở Việt Nam theo các
vùng/miền khác nhau (tức là bất bình đẳng về cơ hội), thì ta thấy tỉ lệ nghèo ở khu
vực đô thị đã giảm nhanh từ 25,1% (1993) xuống 9,2% (1998), 6,6% (2002) và
xuống còn 3,6% (2004). Trong khi đó, khu vực nông thôn cũng giảm (nhưng
không nhanh bằng đô thị) từ 66,4% (1993) xuống 45,5% (1998), 35,6% (2002) và
xuống còn 25,0% (2004). Điều này đã làm cho sự chênh lệch về tỉ lệ nghèo giữa
nông thôn và đô thị ngày càng doãng ra từ 2,65 lần (1993) lên 4,95 lần (1998), 5,4
lần (2002) và lên đến 6,94 lần (2004). Sự bất bình đẳng về cơ hội giữa nông thôn
và đô thị như thế này đã thể hiện thực trạng bất bình đẳng xã hội là rõ ràng hơn so
với sự bất bình đẳng trong tổng thể cả nước tính theo hệ số Gini đã tăng lên trong
những năm qua.



Thu nhập của hộ gia đình thành thị vẫn cao hơn nông thôn, nhưng chênh
lệch thu nhập bình quân người/tháng giữa đô thị và nông thôn đã có xu hướng thu
hẹp dần từ 2,3 lần (1999) → 2,26 lần (2002) → 2,16 lần (2004). Mặc dù vậy,
nhưng chỉ số bất bình đẳng về thu nhập bình quân người/tháng giữa nhóm hộ giàu
nhất và nhóm hộ nghèo nhất trong năm 2004 cao hơn so với các năm trước. Tức là,
so sánh 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 20% số hộ có mức thu nhập thấp
nhất, thì chỉ số bất bình đẳng đã tăng dần từ 7,6 lần (1999) → 8,1 lần (2002) → 8,3
lần (2004). Tổng cục Thống kê cũng đã có nhận xét chính thức là như vậy: “sự bất
bình đẳng về thu nhập ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng”
“Nói tóm lại, ở Việt Nam trong giai đoạn 1993-2004, bất bình đẳng tương
đối tăng ít trong khi mức chênh lệch giàu nghèo tuyệt đối tăng đáng kể… khoảng
cách nông thôn - thành thị đã và đang bị nới rộng cho dù được đo bằng chi tiêu
dùng hay các chỉ số xã hội.” ( Báo cáo cập nhật nghèo 2006 (Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam)
Như vậy, căn cứ vào các chỉ số về bất bình đẳng cơ hội (giữa nhóm giàu và
nhóm nghèo, giữa nông thôn và đô thị, giữa nam và nữ) trong những lĩnh vực (như
thu nhập, tỉ lệ đói nghèo, chi tiêu công cộng cho y tế, tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh)
đều cho thấy bất bình đẳng ở Việt Nam thuộc loại cao hơn trong sự so sánh với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, chúng ta không thể yên tâm và tạm
bằng lòng với thực trạng bất bình đẳng về mức sống ở Việt Nam hiện nay. Khi bất
bình đẳng tăng lên nó sẽ làm cho sự gắn kết xã hội yếu đi và chứa đựng những
“tiềm ẩn” của xung đột xã hội.
* Nguyên nhân của sự bất bình đẳng ở Việt Nam
1.
-

-

Sự khác nhau về sở hữu các yếu tố sản xuất cũng như khác nhau về cơ

hội vươn lên
Do sự sở hữu khacs nhau về lao động, vốn, đất đai
Do những người giàu có điều kiện tiếp cận cac nguồn lực kinh tế tốt hơn
(người giàu có nhiều thông tin, nhiều vốn, khả năng tiếp cận tới giáo dục tốt
hơn; người nghèo thiếu đào tạo cơ bản, gánh nặng nợ nần và không có khả
năng lựa chọn)
Sinh kế của cacs hộ nghèo chủ yếu dựa vào nông nghiệp, trong khi các hộ
giàu có khả năng tiếp cận các ngành nghề phi nông nghiệp tốt hơn
Khoảng cách chênh lệch về tri thức, kỹ năng chuyên môn ngày càng lớn


2.
3.
-



-

Người kinh được tiếp cận với y tế, giáo dục tốt hơn người DTTS (tỷ lệ trẻ
em được đến trường, khám, chữa bệnh, tiêm chủng)
Vốn FDI chủ yếu đầu tư vào những vùng có địa hình, vị trí thuận lợi (đồng
bằng, thành thị)
Các thể chế chính sách của nhà nước nhằm tái phân phối chưa thực sự
hiệu quả
Chi tiêu công cộng có xu hướng thiên lệch về những dịch vụ được người
giàu tiêu dùng nhiều hơn(xây dựng sân golf…)
Một số chính sách cho người nghèo (135, hỗ trợ người nghèo ăn tết…) vô
hình chung lại tạo thu nhập cho người giàu (tham nhũng)
Do lạm phát cao

Lạm phát làm giảm sức mua của người nghèo và làm tăng bất bình đẳng về
thu nhập (lạm phát tăng tác động đến tất cả các tầng lơp, nhưng người giàu
họ chỉ phải sử dụng một phần cho chi tiêu, người nghèo thì phải dùng hết
thu nhập cho chi tiêu hàng ngày -> người nghèo ngày càng eo hẹp hơn)
Trên cơ sở phân tich trên có thể nói rằng rất khó để có thể xóa bỏ bất
bình đẳng, nếu không muốn nói là không thể. Bởi vì, bất bình đẳng luôn
hiện diện bởi sự khác biệt nhân cách giữa những cá nhân. Nếu có một xã hội
mở và nếu con người khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó sẽ hàm ý
rằng bất bình đẳng là không thể tránh được. Đó là một thực tế của xã hội.
Bất bình đẳng về lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy người tài
nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất.
Khi nào còn tồn tại sở hữu tư nhân về của cải thì vẫn còn tồn tại bất bình
đẳng.
Xét về khía cạnh kinh tế, khả năng chiếm lĩnh thị trường của các cá nhân là
không giống nhau vì nó phụ thuộc vào sự hiểu biết, bản lĩnh và kỹ năng
nghề nghiệp.

* Nguyên nhân nào tạo được những thành công về xóa đói giảm nghèo.
Trước hết, đó là do việc thường xuyên nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa,
tầm quan trọng cũng như phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo đói cho
các cấp, các ngành và mọi người dân đặc biệt là người nghèo và xã nghèo. Xóa đói
giảm nghèo vươn lên khá giả và làm giàu không phải chỉ là trách nhiệm của Nhà
nước mà trước hết thuộc về từng cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng và trách


nhiệm của toàn xã hội, đây là vấn đề mấu chốt để thực hiện thành công chương
trình.
Bên cạnh đó, công tác xã hội hóa hoạt động xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là xã hội
hóa về nguồn lực, nhân lực và vật lực ngày càng được đẩy mạnh. Chính sự hợp lực
này đã tạo ra phong trào xóa đói giảm nghèo sôi động nhiều năm trong cả nước

góp phần vào thành công của chương trình. Cùng với sự chia sẻ trách nhiệm xã hội
của mọi người dân trong việc trợ giúp người nghèo, còn có sự đồng thuận của các
tổ chức quốc tế, các quốc gia trong việc tiếp cận và giải quyết vấn đề nghèo đói ở
Việt Nam.
Cơ chế phân bổ ngân sách công bằng, minh bạch và có tính khuyến khích cao đã
tạo điều kiện cho các địa phương chủ động trong việc huy động nguồn lực tại chỗ
cũng như lồng ghép với các nguồn khác, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chương trình. Trong quá trình thực hiện chương trình, sự tham gia giám sát của mặt
trận, các đoàn thể ở cơ sở, người dân, đặc biệt là người nghèo, phụ nữ và người
dân tộc thiểu số cũng là một trong những yếu tố tạo nên thành công của chương
trình.
* Giải pháp giảm nghèo bền vững
Để giảm nghèo một cách bền vững, đặc biệt là giảm bớt sự chênh lệch quá
lớn giữa “vùng nghèo” và “vùng giàu”, thì cần phải có những giải pháp căn cơ,
thiết thực hơn. Nên chăng cần tập trung vào ba giải pháp chính sau:
Một là, chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí. Ông cha ta
có câu: “Cho cái cần câu thay vì cho con cá”. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo, dạy
nghề, nâng cao dân trí ở các vùng, các huyện, các xã có nhiều hộ nghèo chính là
trao “cái cần câu” cho người dân. Một khi người dân có nhận thức, có kiến thức thì
họ sẽ biết làm gì trên “luống cày” của mình. Họ sẽ tự biết trồng cây gì, nuôi con gì
cho năng suất, có hiệu quả cao nhất.


Đầu tư cho giáo dục, đào tạo, dạy nghề nâng cao dân trí ở các vùng nghèo
được xem như “chiếc chìa khóa” để cho người dân tự mở khóa kho tàng kiến thức
cũng như những tiềm năng phát triển sản xuất kinh doanh trên mảnh đất của họ.
Hai là, tăng cường đầu tư xây dựng cho giao thông nông thôn. Giao thông là
huyết mạch quan trọng trong nền kinh tế quốc gia, giao thông nông thôn lại càng
có ý nghĩa cho sự phát triển đối với các vùng nghèo. Thiếu giao thông thì không
thể thông thương, càng không thể giao thương khi mà sản xuất hàng hóa ở các

vùng nghèo còn rất manh mún, nhỏ lẻ. Người dân ở vùng này khi sản xuất và chăn
nuôi đã vô cùng khó khăn do điều kiện tự nhiên và điều kiện địa lý không thuận lợi
nhưng lại càng khó khăn hơn khi sản phẩm làm ra không được tiêu thụ dễ dàng. Ở
địa bàn cấp huyện, nhiều xã còn mang tính tự cung, tự túc, sản phẩm làm ra khi
tiêu thụ cũng khó khăn để tiếp cận thị trường, dẫn đến bị tư thương ép giá. Không
có giao thông thì không có nền nông nghiệp hàng hóa, nông dân vốn đã nghèo
giao thông nông thôn cũng không thuận tiện khiến cuộc sống của họ càng nghèo
hơn.
Ba là, chính sách hỗ trợ vay vốn và đưa tiến bộ khoa học công nghệ. Muốn
thực thi chính sách này một cách có hiệu quả thì cần phải giải quyết hai vấn đề trên
một cách đồng bộ, căn cơ. Người nông dân mong muốn và có ước nguyện làm giàu
trên mảnh đất của mình, tuy nhiên họ cần được hỗ trợ về chính sách vay vốn. Với
một lãi suất ưu đãi, hợp lý, vốn được xem như một “cú hích” như sự “cứu cánh”
cho những ước mơ đích thực của người nông dân muốn tự mình vươn lên thoát
nghèo. Người xưa có câu “có bột mới gột nên hồ”, vốn chính là “bột” cho người
nông dân “gột” lên sản phẩm của mình. Khi đã có vốn lại được cập nhật những tiến
bộ khoa học công nghệ cùng với bàn tay, khối óc, sự khao khát vươn lên thoát
nghèo của người nông dân hy vọng rằng sẽ giải quyết được bài toán giảm nghèo
một cách bền vững.


II. Bài tập
Bài 1: Năm 2010, một xã A có tổng số là 2000 và số hộ nghèo là 200.
Chuẩn nghèo chi tiêu bình quân đầu người hàng tháng là 600.000 VNĐ.
Khoảng cách nghèo là 15%.
1/ Hãy tính tỷ lệ nghèo và cho biết tổng số tiền cần trợ cấp tối thiểu là bao
nhiêu hàng tháng để xã này không còn hộ nghèo (giả sử tiền trợ cấp đến đúng hộ
nghèo và các hộ dùng hết trợ cấp để chi tiêu)?
- Tỷ lệ nghèo =


Số hộ nghèo
Tổng số hộ

x 100 = (200: 2000)x100 = 10%

- Tổng số tiền trợ cấp tối thiểu để xã không còn hộ nghèo = Khoảng cách
nghèo x Chuẩn nghèo x Tổng số hộ = 15% x 600.000 x 2000 = 180.000.000
2/ Sang năm 2013, giả sử tổng số hộ không đổi và tổng số hộ nghèo là giảm
xuống còn 150 hộ và khoảng cách nghèo lúc này là 20%, hãy nhận xét về thực
trạng nghèo ở xã này.
- Sang năm 2013, khoảng cách nghèo cao hơn năm 2010 nên xã này năm
2013 nghèo hơn năm 2010.
bài 2: Cơ cấu thu nhập của 4 nhóm dân số ở một quốc gia cho thấy
nhóm 25% dân số nghèo nhất chiếm 8% tổng thu nhập; 25% dân số nghèo
thứ nhì chiếm 12% tổng thu nhập; 25% dân số khá giả chiếm 30% tổng thu
nhập; 25% dân số giàu nhất chiếm 50% thu nhập.
1/ Hãy lập biểu đồ đường cong Lorenz
2/ Hãy tính hệ số Gini về bất bình đẳng thu nhập. Giá trị của hệ số Gini này
cho thấy thu nhập ở quốc gia này có bất bình đẳng hay không.
1. – Công thức tính hệ số GINI:
G= 2.a(x1+x2+x3+x4+1/2) = 2.0,25. (0,08+0,12+0,3+1/2) = 0,5


- Giá trị của hệ số Gini là 0,5 cho thấy thu nhập ở quốc gia này có bất bình
đẳng lớn.



×