Nam lại có xu hướng lâm vào một chu kỳ khủng hoảng mói. Theo vết xe
đổ cũ.
LỜI NÓI ĐẦU
Vào các năm trước năm 1998 các Ngân hàng thương mại Quốc
tín dụng
chiếmnghiệp
vị trí quan
thế trong
nào trong
doanh Ai
đầucũng
tư 0biết
ạt vào
các doanh
ngoàitrọng
Quốcnhư
doanh
khi các
Ngân
thương
chẳngvịthế
màlàm
đã ăn
có không
biết baohiệu
đề tài
nghiên
doanhhàng
nghiệp
này mại
chưaViệt
xácNam
lập được
thế,
quả.
Dẩn
cứu
nângNgân
cao chất
lượng
chohoảng.
hệ thông
hàngthời
thương
đến nhằm
hàng loạt
hàng
lâm tín
vàodụng
khủng
ThìNgân
nay sau
gianmại
cơ
trong
thời
qua.hàng
Và dokhông
đó chất
lượng
Ngânnghiệp
hàng thương
cấu lại
cácgian
Ngân
dám
đầutíntưdụng
vào của
cáccác
doanh
ngoài
mại
nam mà
đã từng
bướcchừng
được cải
thiện
chỉ tiêu
annày
toànngày
vốn
Quốcviệt
doanh
chỉ cầm
theo
dõi đáng
trongkể.
khiCác
thành
phần
tối
thiều
dần đáng
được cải
thiện. nền kỉnh tế. Trong khi đó thành phần kinh
càng
có đã
vị thế
nế trong
Vậy
tại sao
tín dụng
làm cho
tâmNgân
đến
tế Quốc
doanh
thìvấn
ngàyđềcàng
tỏ rõvẫn
sự kém
hiệumọi
quả.ngưòi
Như quan
vậy các
như
Câu
lòi đó
là, cũ
thực
ra trong
quangược
chất lưọng
tín
hàngvậy?
có thế
lậptrả
lại vết
xe đố
nhưng
theo thòi
chiềugian
hưóng
lại. Ngân
dụng
có giảm
nhung
điều Hoá
đó không
nói lênphải
gì nhiều
cholệ.hệ thống Ngân
hàng Công
thương
Thanh
cũng không
là ngoại
hàng việt nam vì họ thực sự đang phải đối mặt vói các nguy CO' mói nguy
hiểm hon cho họ liên quan đến vấn đề tín dụng, mà trực tiếp là tín dụng
Thứ hai: Thực sự các nghiên cửu của các nhà nghiên cửu thưòng
trung dài hạn.
không thế thực hiện được trong thực tế. Do tầm vĩ mô của các đề tài
nghiên cứu khó có thế áp dụng cho hầu hết các Ngân hàng trong cả nưóc
nhất:kiện
trong
gian
các Và
Ngân
hàngnhà
đãnghiên
thực hiện
cấuchú
lại
vốn cóThứ
các điều
rấtthòi
khác
nhau.
do các
cứucơ
chưa
bằng
yếuđến
là giải
triệt
cácCác
khoản
tồn đưa
đọng.raHạn
chế
trọng cách
đúngchủ
mức
vấn quyết
đề thực
thiđếnó.
kiếnnợnghị
thường
cho
vaychung,
khách trìu
hàngtượng,
mới, mở
rộngtính
tín dụng.
Dành
thời
gian phục
chủ yếu
cơ
chung
mang
chiếu lệ.
Khó
thuyết
cácđếnhà
cấu
cơ cấu
lại. Tuy rằng chất lượng tín dụng tăng nhưng theo chỉều
quảnvàtrịtáiNgân
hàng.
hướng thu hẹp, lẽ ra trong khoảng thòi gian này các Ngân hàng có thế
tận dụng để phát triển về mọi mặt nhằm tăng quy mô, sức cạnh tranh thì
Thứ ba: Ngân hàng Công thương Thanh Hoá hiện nay là một trong
họ hầu như chỉ củng cố và phát triển một cách chậm chạp, thị phần của
những doanh nghiệp làm ăn có lãi. Nhưng điều này chưa đủ đế khắng
các Ngân hàng đã không tăng đáng kế mà lại còn giảm xuống nhường
định Ngân hàng không thế gặp rủi ro trong tưong lai do Ngân hàng có
chỗ cho các Ngân hàng liên doanh,các Ngân hàng mói thành lập. Như
quan hệ với rất nhiều khách hàng lớn, nhung không phải tất cá đều là
vậy khoảng thòi gian “ưu đãi” đã gần hết trong khi sức cạnh tranh của
khách hàng mạnh, mà hầu hết là cho vay các doanh nghiệp nhà nước,làm
các Ngân hàng vẫn nằm tại chỗ. Nói đúng hơn là. Mức tăng trưởng của
ăn bấp bênh, các doanh nghiệp có quan hệ lâu đòi. Các chu kỳ cho
các Ngân hàng so vói tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,và trong bối
vay,đảo nợ, dãn nợ, cho vay cứ diễn ra liên tiếp. Và cho vay theo chỉ định
- Trang2
Trang 1--
trong việc cho vay trung dài hạn, nó luôn rình rập các Ngân hàng mọi lúc
mọi noi, và vì thế việc lật lại cũng là góp phần làm cho Ngân hàng không
mất cảnh giác. Tăng cường các giải pháp hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.
Thứ tư: Các Ngân hàng thương mại Quốc doanh Việt Nam hiện có
thị phần chù yếu trên thị trường thì nguồn tín dụng trung dài hạn chù
yếu cùa họ được rót cho các doanh nghiệp nhà nước noi được đánh giá là
không hiệu quả và xu hướng này vẫn còn chiều hướng phát triến. Điều
này có thế thấy rằng trên thị trưòng tài chính Việt Nam nguồn vốn được
phân bố không hiệu quả tức là các Ngân hàng thương mại Việt Nam
đang đầu tư cho hiện tại chứ không phải cho tưong lai vì tưong lai của
Ngân hàng là sự phát triến của khách hàng mà trong tưong lai không
phải là khối các doanh nghiệp Quốc doanh, điều này thì ai cũng có thế
thấy. Vì thế các Ngân hàng cần phải điều tiết lại cách thức phân bố vốn
tín dụng sao cho đạt hiệu quả, vì tương lai cùa Ngân hàng.
Thứ năm: sau quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thưong
Thanh Hóa em nhận thấy rằng vấn đề chất lưọng tín dụng trung và dài
hạn của Ngân hàng còn có nhiều điều chưa họp lý, cần thiết phải có biện
pháp giải quyết, điều chỉnh theo phương hướng thiết thực, hiệu quả.
Và vì thế được sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú cán bộ tại Ngân
hàng Công thưong Thanh Hoá và Thầy giáo hướng dẫn: Nguyễn Thanh
Phương em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình vói đề tài.
“Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng
Công thương Thanh Hoá ”.
- Trang3 -
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của
Ngân hàng Công thương Thanh Hoá.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh chị cán bộ tại
CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRƯNG VÀ DÀI
HẠN
CỦA
NGÂN
HÀNG
THƯƠNG
MẠI
1.1/ KHÁI NIỆM VỀ TÍN DỤNG TRƯNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1/ Tín dụng trung và dài hạn - một hoạt động cơ bản của Ngân hàng
thương mại.
- Trang4 -
Trong xã hội, Ngân hàng có một vị trí quan trọng và tham gia vào hoạt
động của nhiều thành phần kinh tế và dân cu. Lịch sử hình thành Ngân hàng
bắt đầu từ rất lâu. Ban đầu nó được hình thành từ những thương nhân làm
dịch vụ giữ tiền hộ. Dựa trên tính vô danh của đồng tiền cho phép những
thương nhân này chuyển từ việc giữ tiền hộ sang việc giữ hộ tiền và thu lệ phí
và huy động vốn có trả lãi đế khuyến khích người có tiền nhàn rỗi trong xã
hội, rồi sử dụng số tiền đó đế kinh doanh trực tiếp cho vay lấy lãi. Ngày nay
Ngân hàng Thương Mại (NHTM) được định nghĩa như sau:
NHTM là một tố chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó đế cho vay đầu tư, thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán và các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ
sở đảm bảo khả năng thanh khoản.
NHTM giống các tố chức kinh doanh khác là hoạt động nhằm mục đích
thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là
tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yêú được thực hiện bằng
cách thu hút vốn trong xã hội đế cho vay nhằm mục tiêu lợi nhuận cao nhất và
rủi ro thấp nhất.
1.1.1.2/ Hoạt động của Ngân hàng Thương Mại trong nền kinh tế thị
trường.
Kinh tế thị trường là một kiếu tố chức kinh tế xã hội mà các mối quan
hệ kinh tế, phân phổi sản phấm, phân phối lợi ích do các quy luật của thị
trường điều tiết chi phối.
- Trang 5 -
Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường, từ đặc điểm kinh
doanh tiền tệ cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà các Ngân hàng
hiện nay hoạt động theo hướng đa năng tập trung vào ba hoạt động chính sau
đây:
- Hoạt động huy động vốn.
- Hoạt động cho vay đầu tư.
- Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác.
•
Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là một hoạt động quan trọng của các doanh
nghiệp nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ như Ngân hàng . Hoạt động này bao gồm huy động các nguồn
tiền gửi (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi giao dịch và phi giao dịch), các khoản đi
vay (vay từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế, từ các NHTM và các tổ chức tín
dụng khác), tiền nhận uỷ thác đầu tư, tiền góp vốn liên doanh.
Ngoài ra các NHTM còn huy động vốn từ việc vay của Ngân hàng nhà
nước, vay trên thị trường liên Ngân hàng hoặc vay từ các thị trường vốn lớn
trên thế giới.
Hoạt động huy động vốn có vai trò cung cấp đầy đủ và kịp thời các
nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động khác của Ngân hàng .
- Trang 6 -
Thông thường người ta chia các khoản vay theo thời hạn của chúng là tín
dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn
thường cao hon lãi suất cho vay ngắn hạn do các thời hạn vay dài hơn nên rủi
ro cao hơn.
Trong hoạt động đầu tư mà ở đây chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán,
mục đích của việc đầu tư vào chứng khoán là tìm kiếm lợi nhuận và đa dạng
hoá hoạt động kinh doanh Ngân hàng . Mặt khác nắm giữ chứng khoán cũng
là một cách bảo đảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng thông qua việc
đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao như: tín phiếu và trái
phiếu kho bạc Nhà nước.
Các NHTM Việt Nam hiện nay, lợi nhuận thu được từ hoạt động này
chiếm tù' 50% -70% tống lợi nhuận. Tuy nhiên đây là hoạt động chứa đựng rủi
ro cao nên các Ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng hoạt động này.
• Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác.
Các NHTM đóng vai trò trung gian thực hiện các hoạt động theo yêu
cầu của khách hàng như thanh toán, thu hộ, chi hộ, chuyến tiền, uỷ thác...
Bên cạnh đó các NHTM cũng cung các cấp loại hình dịch vụ có liên quan đến
tài chính như dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh... Các hoạt động này có độ rủi
ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn đem lại được nguồn
thu lớn.
1.1.1.3/Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.
- Trang 7 -
vậy, có thể hiếu tín dụng Ngân hàng là quá trình cho vay của Ngân hàng đối
với các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp có mối quan hệ với Ngân hàng
cùng những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả (gốc và lãi), lãi suất,
cách thức vay mượn và thu hồi.
Thông thường tín dụng được chia làm hai loại là tín dụng ngắn hạn là
tín dụng trung và dài hạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn hay còn gọi là tín
dụng thương mại thường được dùng đế đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của
doanh nghiệp. Còn các khoản tín dụng trung và dài hạn lại chủ yếu được dùng
để đáp ứng nhu cầu đầu tư vào các tài sản cố định của doanh nghiệp. Tín dụng
trung và dài hạn có đặc điểm là số lượng vốn vay lớn, thời gian vay dài(trên 1
năm), tiền vay lại được dùng đế đầu tư mua sắm, xây lắp tài sản cổ định, do
vậy các chủ đầu tư thường phải lập một dự án gửi đến Ngân hàng . Dự án đầu
tư được hiểu là một tập họp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục đích,
phương pháp và phương tiện cụ thế đế đạt được những kết quả và mục đích
nhất định sau một khoảng thời gian xác định.
Tín dụng trung dài hạn có thế được phân loại như sau:
- Căn cứ vào đồng tiền cho vay có tín dụng trung và dài hạn bằng
ngoại
tệ, tín dụng trung và dài hạn bằng bản tệ.
- Căn cứ vào tính chất có bảo đảm có thế chia thành tín dụng trung và
dài hạn có bảo đảm và tín dụng trung và dài hạn không có bảo đảm.
- Trang 8 -
- Thuê mua: Đây là hình thức cho vay trung và dài hạn nhung bằng
thiết bị thay bằng tiền, người đi thuê có quyền mua lại tài sản đó theo giá thoả
thuận trong hợp đồng.
- Bảo lãnh trung và dài hạn mua thiết bị trả chậm.
1.1.1.41 Các đặc trưng cơ bản của tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng trung dài hạn là một loại hình tín dụng và nó được phân biệt
với các loại hình tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau:
* Thòi hạn cho vay.
Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung dài hạn và tín dụng
ngắn hạn là thời hạn cho vay.
- Tín dụng ngắn hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu
kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không quá
12 tháng.
- Tín dụng trung, dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp
với
thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính
chất của nguồn vốn cho vay, trong đó:
+ Tín dụng trung hạn có thời gian từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60
tháng tuỳ theo quy định của từng Ngân hàng .
- Trang 9 -
Khách hàng muôn vay vôn của Ngân hàng phải đảm bảo được ba
nguyên tắc tín dụng cơ bản. Đó là:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong họp đồng tín
dụng. Khi vay trung dài hạn, người vay phải soạn thảo dự án, chương trình
sản xuất kinh doanh. Các dự án này phải được thể hiện một cách đầy đủ, rõ
ràng việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Mục tiêu này phải nằm trong
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế chung của vùng và cúa đất nước. Đe
cho dự án được thực hiện, cần có sự thông qua, cho phép của cơ quan có thẩm
quyền.
- Phải hoàn trả tiền vay và lãi theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng.
- Phải đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ, của Ngân
hàng Nhà nước.
Trên cơ sở các nguyên tắc trên, mỗi Ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện
ràng buộc, các quy định mang tính chất bắt buộc có thể thực hiện vốn vay của
Ngân hàng . Các quy định này về cơ bản là giống nhau nhưng các điều khoản
cụ thế thì khác nhau phụ thuộc vào mỗi Ngân hàng và thời điếm lịch sử.
Do các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn nên thời gian thu hồi vốn
là rất lâu, có khả năng gặp nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng nên việc cho
vay trung dài hạn phải tuân theo quyết định 367/QĐNH1 của thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam về thế lệ tín dụng trung dài hạn như sau:
- Trang10 -
bồi thường khi gặp rủi ro để trả nợ. Trường hợp không mua bảo hiếm do tổng
giám đốc Ngân hàng quy định.
- Đối với các công trình xây dựng mới phải có đầy đủ các điều kiện:
+ Phải có giấy phép xây dựng và giấy phép sử dụng đất do các cấp có
thẩm quyền cấp để đảm bảo được tính pháp lý cho công trình.
+ Phải có lệnh hoặc hợp đồng phân phối vật tu máy móc thiết bị và nếu
là nhập khẩu trực tiếp thì phải có giấy phép nhập khẩu hợp pháp.
- Đối với công trình dự án của các đơn vị kinh tế của các đơn vị kinh tế
đã và đang hoạt động kinh doanh ổn định, đang có lãi thực sự, có xu hướng
phát triển tốt phù họp với cơ chế kinh tế mới, phải có vốn tham gia tối thiểu
30% tổng dự toán công trình.
Hiện nay theo quy định mới của chính phủ, các đơn vị kinh doanh nếu
chứng minh được mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng vay vốn mà
không cần thế chấp.
1.1.2/ Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối vói phát triến kinh
tế ở Việt Nam.
1.1.2.1/ Tín dụng trung và dài hạn đảm bảo phát triến kinh tế theo chiểu
rộng.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triến phải biết nắm bắt và tìm
mọi cách thoả mãn nhu câù ngày càng cao của người tiêu dùng. Điều đó đồng
- Trang 11 -
điều kiện nước ta hiện nay, việc đầu tu trung dài hạn nhằm tạo nền tảng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho sự tăng cường thực sự vững bền, đó là đảm bảo phát
1.1.2.2 / Thúc đẩy mở rộng sản xuất phát triển.
Cho vay trung dài hạn đổi với các thành phần kinh tế thực sự là loại
hình đầu tư chiều sâu nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao năng
lực sản xuất, vì thế tín dụng trung và dài hạn thực sự là một cứu cánh khi
doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng phát triển mà không có vốn đầu tư. Khi
đã có vốn nghĩa là một dự án đầu tư đã đi vào hoạt động, là một cơ hội mở
rộng sản xuất, cơ sở trang thiết bị đầy đủ làm cho năng lực sản xuất kinh
doanh tăng lên, theo đó mà sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra không những
nhiều về số lượng, đa dạng về mẫu mã chủng loại, phong phú về chất lượng,
kích thích nhu cầu xã hội.
1.1.2.3/ Tạo thị trường sử dụng von ngắn hạn.
Tín dụng trung và dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bi và xây dựng cơ
bản do đó kích thích sản xuất phát triển. Khi đó, các doanh nghiệp cần nhiều
vốn lun động hơn đế đáp ứng sự phát triển sản xuất, điều này tạo ra thị trường
sử dụng vốn ngắn hạn. Tốc độ phát triển sản xuất càng cao thì nhu cầu vốn
lưu động càng lớn và tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng
ngắn hạn phát triến.
1.1.2.4/ Thúc đẩy chuyển dịch cơ cẩu theo hướng Công nghiệp hoá-hỉện
đại hoá.
Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, Ngân hàng có thế cho
- Trang12 -
mới cơ bản vê công nghệ tạo nên tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao
và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung giai đoạn đầu của tiến
trình Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là tập trung vốn đầu tư vào cơ sở
vật chất kỹ thuật,đối mới và nâng cao trình độ công nghệ, chuyến dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu... Để
thực hiện được điều đó, phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao trên 10% và cần
đến 40-50 tỷ USD cho đầu tư, trong đó nguồn vốn trong nước phải có từ 2025 tỷ. Trong điều kiện thị trường vốn nước ta chưa phát triển hoàn thiện thì
hiện tại và thời gian tới tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng vẫn đóng
vai trò quyết định và như vậy qua chính sách tín dụng đối với các ngành kinh
tế, Ngân hàng có thể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công
nghiệp hoá-hiện đại hoá.
1.1.2.5/ Thúc đấy mở rộng kim ngạch xuất nhập khciíí.
Nhờ có nguồn vốn đầu tư tín dụng trung, dài hạn mà các doanh nghiệp
có thế nhập khẩu máy móc trang thiết bị công nghệ. Đổi với những nước đang
phát triến như Việt Nam thì việc mở rộng kim ngạch xuất nhập khấu là con
đường ngắn nhất để chúng ta có thể đuổi kịp các nước về công nghệ. Ngoài
ra, nhờ việc nhập máy móc thiết bị, năng lực sản xuất của doanh nghiệp tăng
lên, sản phẩm sản xuất ra chất lượng cao, mẫu mã đẹp đáp ứng nhu cầu của
thị trường trong ngoài nước, tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
1.2/ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRƯNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1/ Khái niệm chất lưọng tín dụng trung và dài hạn của NHTM.
- Trang13 -
Chất lượng tín dụng được hiếu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng
phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của
Ngân hàng .
Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng, cần tính đến ba nhân tố là
NHTM, khách hàng, nền kinh tế và NHTM.
Thứ nhất: Chất lượng hoạt động tín dụng xét tù' giác độ NHTM.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng
và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn
trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu
lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn
đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,
trung và dài hạn trong nền kinh tế.
Thứ hai: Chất lượng hoạt động xét tù' giác độ khách hàng.
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ
làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của Ngân hàng , đảm bảo thoả
mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chất
lượng là yêu cầu hàng đầu, vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu
hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu
hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín
dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của Ngân hàng , góp phần làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp.
- Trang14 -
thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi
trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.
Từ những điều trên, ta có thể rút ra:
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tông hợp, nó phản ánh mức độ
thích nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thế hiện
sức mạnh một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh đế tồn tại.
- Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được
khách hàng tốt,thủ tục đon giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng,
chi phí tổng thể về sản xuất, chi phí nghiệp vụ.
- Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy
trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tố chức
với nhau vì một mục đích chung, do đó đế đạt được chất lượng tín dụng cần
có sự quản lý.
Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử
dụng nhằm đạt được chất lượng tốt.
Đế có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu
quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong
hoạt động. Nói cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ
tin cậy trong hoạt động. Hiếu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích
đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các
nguyên nhân của những tồn tại về chất lượng, sẽ giúp Ngân hàng tìm được
- Trang15 -
biện pháp nâng cao chất lượng đối với các khoản cho vay và cho thuê của
mình. Thực tế chất lượng hoạt động tín dụng là một khái niệm tương đối và
không có một chỉ tiêu tổng hợp nào đế phản ánh nó một cách chính xác.
Thông thường đế đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của một Ngân hàng
thương mại, người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau, nhưng về cơ
bản chất lượng tín dụng của một Ngân hàng thương mại được đánh giá qua
các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Chỉ tiêu tổng dư nợ.
Thứ hai: Chỉ tiêu về nợ quá hạn.
Thứ ba: Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng.
Thứ tư: Đóng góp của hoạt động tín dụng đến sự phát triển kinh tế xã
hội
1.2.2.1/ Chỉ tiêu tổng dư nợ.
Tổng dư nợ khi được đề cập đế đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm
cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay uỷ thác. Chỉ tiêu này được đo
bằng sổ tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của Ngân hàng trong một kỳ
(một năm) là bao nhiêu. Tống dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp
vì chỉ ra rằng Ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả
1.2.2.2/ Chỉ tiêu về nợ quả hạn.
Tỷ lệ nự quá hạn = Nợ quá hạn
- Trang16 -
Chỉ tiêu này có thể nói là một chỉ tiêu quan trọng nhất khi xem xét chất
lượng tín dụng của một Ngân hàng thương mại. Đen kỳ trả nợ, nếu người vay
không trả và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ nợ đến
hạn sang nợ quá hạn và đương nhiên người đi vay phải chịu lãi suất quá hạn
thường là cao gấp rưỡi lãi suất trong hạn, vì thế doanh nghiệp đã khó sẽ càng
trở nên khó khăn hơn trong việc trả nợ.
Tỷ lệ nợ quá hạn quá cao biểu hiện hiện tượng chất lượng tín dụng của
Ngân hàng là thấp, rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được
hoàn trả đúng hạn thì Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phân phối luồng
vốn vào ra,với việc không thu được nợ thì Ngân hàng sẽ phải đối mặt với
việc mất khả năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản. Khi xem xét các chỉ tiêu
nợ khó đòi, người ta thường xem xét cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối.
+ Số tuyệt đối ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập hàng năm của Ngân
hàng .
+ về số tương đối được xác định bởi tỷ lệ nợ khó đòi:
Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/Tống dư nợ
Hoặc:
Tỷ lệ nọ’ khó đòi = Nọ’ khó đòi/Nọ’ quá hạn
- Trang17 -
hồi để tránh tình trạng trong một lúc Ngân hàng phải thông báo con sô nợ
không có khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của Ngân hàng một
cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu như Ngân hàng thực hiện xóa nợ quá
nhanh thì hai tỷ lệ này ở mức thấp nhất nhung không có ý nghĩa thực tiễn.
Ngoài ra, người ta còn tính đến một chỉ tiêu gián tiếp là tỷ lệ mất vốn:
Các tố chức tín dụng đều có những khoản cho vay không có khả năng thu hồi,
nhưng một tổ chức tín dụng quản lý tốt là một tố chức có tỷ lệ này ở mức thấp
nhất.Rất nhiều tổ chức tín dụng vẫn phản đối việc xoá nợ bởi họ tin rằng
I..2.2.3/ Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng.
Ngân hàng hoạt động với mục đích quan trọng nhất là lợi nhuận. Chỉ
tiêu này sẽ chỉ ra trong tống thu nhập của Ngân hàng thì phần đóng góp là
bao nhiêu. Lợi nhuận thu từ hoạt động tín dụng lớn sẽ khẳng định chất lượng
của các khoản vay là tốt.
Tất nhiên khi xem xét chất lượng của một hoặc một số hoạt động tín
dụng đặc thù thì chúng ta sẽ dựa trên những chỉ tiêu chung này để vận dụng
cho phù họp, đồng thời những chỉ số cũng được xem xét trong cả một thời kỳ
dài đế thấy khuynh hướng biến động của nó phù họp với thực tiễn không,
nhằm giúp cho các đánh giá được chính xác hơn.
1.2.3/ Các nhân tố ảnh hưỏng tói chất ỉưọng tín dụng trung và dài hạn
của NHTM.
1.2.3.1/ Các nhân tố về phía khách hàng.
- Trang18 -
vốn, đảm bảo khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng . Khả năng đáp ứng các
điều kiện tín dụng thể hiện ở những mặt sau:
- Năng lực thị truờng của doanh nghiệp.
Biếu hiện ở khối lượng sản phấm tiêu thụ, chất lượng sản phấm có đáp
ứng được nhu cầu thị trường không? Vị trí của doanh nghiệp trên thị trường
ra sao? Hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, mối quan hệ
với các bạn hàng đối tác. Năng lực thị trường của doanh nghiệp còn được
lượng hoá qua tiêu thức cơ bản là sự gia tăng của doanh số tiêu thụ sản phẩm.
Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro thị trường
của doanh nghiệp càng nhỏ là một nhân tố nâng cao chất lượng tín dụng.
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biếu hiện giá trị của công cụ lao
động, chủ yếu là tài sản cố định: biểu hiện cụ thế là quá trình sản xuất sản
phẩm, công nghệ sản xuất, các đầu tư trước đây có kết quả như thế này
không? Cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm tốt
nhưng giá thành lớn hơn giá bán là không tốt. Việc nghiên cứu giá thành và
năng lực sản xuất cho thấy tính cấp thiết và quy mô phải đầu tư mới.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
- Trang19 -
Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các
điều kiện tín dụng càng lớn thì càng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng
nói chung và chất lượng tín dung trung dài hạn nói riêng.
- Năng lực quản lý của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ máy có năng lực quản lý phù họp.
Năng lực quản lý thế hiện ở tổ chức hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài
chính phù hợp với các quy định của pháp luật. Hệ thống tài chính kế toán
thống kê giúp cho các doanh nghiệp và Ngân hàng thông qua việc cung cấp
các thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (tất nhiên đế đảm
bảo tính trung thực khách quan phải có các cơ quan kiểm toán xác nhận).
- Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm.
Quan hệ tín dụng thường đưa ra đòi hỏi có tài sản bảo đảm bằng các
hình thức thế chấp, cầm cố hoặc được bảo lãnh của người thứ ba. Điều kiện
tối thiếu là khối lượng tín dụng chỉ bằng 70% giá trị tài sản bảo đảm.
- Sự đáp ứng của dự án đối với tiêu chuẩn tín dụng.
Dự án thuyết minh được tính chất cần thiết, mục đích, kết quả của dự
án.
Sự phù họp của quá trình đầu tư với quy hoạch và kế hoạch phát triển
- Trang20 -
Dự án xây dựng đúng quy trình, quy định của Nhà nước.
Các tính toán, các luận giải phù hợp lôgic có căn cứ khoa học, đồng bộ
giữa bốn yếu tố: máy móc thiết bị, thông tin, thiết kế và con nguời.
Trình độ, uy tín của các chuyên gia xây dựng dự án.
Các biện pháp tổ chức, quản lý, triển khai phuơng án xây dựng phù hợp
vói cơ cấu trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Các dự tính, các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong quá trình xây dựng
và thu hồi vốn.
1.2.3.2/ Các nhân to về phía Ngân hàng.
- Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng .
Trong nền kinh tế hiện đại, các doanh nghiệp nói chung và các Ngân
hàng thương mại nói riêng muốn tồn tại và kinh doanh có lãi phải xây dựng
được cho mình một chiến lược kinh doanh hiệu quả. Một chiến lược kinh
doanh có hiểu quả sẽ giúp Ngân hàng có một phương hướng phát triển nhất
quán, giúp cho Ngân hàng khai thác tốt nhất năng lực hiện có của đơn vị và
đồng thời nó cũng giúp cho Ngân hàng có thế thích ứng một cách nhanh nhất
với những biến đối trong môi trường kinh doanh của mình. Chính vì vậy công
tác lập chiến lược kinh doanh hiện được các Ngân hàng hết sức coi trọng và
nó ảnh hưởng lớn tới chất lượng của hoạt động tín dụng.
- Trang21 -
tính khả thi hơn và cũng giúp cho Ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín
dụng của mình.
Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán
phức tạp. Do công việc này là cơ sở đế quyết định có cấp tín dụng hay không
nên chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt
động tín dụng. Neu chất lượng của công tác thấm định không cao, tức là nhân
viên tín dụng không xác định được thực chất dự án có hiệu quả hay không thì
những khoản tín dụng mà Ngân hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc
thu hồi các món nợ của mình. Chính vì vậy, công tác thẩm định đòi hỏi những
nhân viên thẩm định có trình độ cao và sự kết hợp một cách có hiệu quả giữa
các phòng ban trong Ngân hàng .
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng .
Mỗi Ngân hàng trong từng thời kỳ sẽ có những chính sách tín dụng
riêng của mình đế nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. Chính sách tín dụng này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến quy mô, tính chất của các khoản tín dụng cũng như
phương thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng . Chính sách tín dụng không
những phụ thuộc vào mục tiêu của bản thân Ngân hàng mà còn phụ thuộc
vào các yếu tố khác như chính sách của chính phủ và của các cơ quan quản lý.
Như vậy việc đưa ra một chính sách tín dụng hợp lý sẽ giúp cho Ngân hàng
hoạt động hiệu quả hơn, nó giúp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của
Ngân hàng .
- Công tác tố chức hoạt động tín dụng của Ngân hàng .
- Trang22 -
chức năng của Ngân hàng xem xét và nếu thấy đó môi trường kinh tế cũng có
thế có những thay đối bất ngờ, ví dụ như những thay đổi về lãi suất, những
biến động về tỷ giá, biến động về thị trường... Như vậy chất lượng hoạt động
tín dụng của Ngân hàng thương mại sẽ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh
tế mà nó hoạt động, vấn đề đối với các Ngân hàng là phải làm tốt công tác dự
báo và khả năng thích ủ điều kiện thì sẽ quyết định cụ thể về phương thức giải
ngân và thu nợ sau này. Trong quá trình này nếu các khâu được thực hiện tốt
sẽ giúp cho Ngân hàng lựa chọn được những dự án tốt đế cấp tín dụng, cũng
như tạo uy tín tốt cho Ngân hàng trong lòng khách hàng, điều này giúp cho
Ngân hàng có thể nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của mình.
Như vậy, công tác tố chức thực hiện hoạt động tín dụng có thế hồ trợ
đắc lực cho nhân viên tín dụng thực hiện công việc của mình và nó có ảnh
hưởng quan trọng đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương
mại.
- Chất lượng đội ngũ nhân sự.
Yeu tố mang tính quyết định đến việc nâng cao hay suy giảm chất
lượng tín dụng lại chính là nguồn nhân lực của Ngân hàng vì suy cho cùng
các quyết định cung cấp tín dụng của Ngân hàng là những quyết định mang
tính chất chủ quan. Một Ngân hàng với một đội ngũ lãnh đạo tốt sẽ đưa ra
được những chính sách hợp lý và phương hướng phát triển phù hợp với
1.2.3.3/Những nhân tố khách quan.
Hoạt động của mỗi Ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn của
- Trang23 -
động kinh doanh của mình nhưng nếu môi trường kinh tế-xã hội không ổn
định thì cũng khó mà thành công. Chính vì vậy, việc nghiên cứu môi trường
kinh doanh là hoạt động thường xuyên của mồi Ngân hàng thương mại. Ta có
thế xem xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế-xã hội đến chất lượng hoạt
động tín dụng của Ngân hàng thương mại từ các yếu tố sau:
- Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế phát triển có thế tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tín dụng. Một môi trường kinh tế lành mạnh, các chủ thể tham gia nền
kinh tế đang hoạt động có hiệu quả sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô tín dụng,
chất lượng hoạt động tín dụng cũng sẽ được nâng lên. Bên cạnh ứng nhanh
khi có sự biến động nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động tín dụng.
- Môi trường pháp lý.
Ngân hàng thương mại khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy
định về luật pháp của Nhà nước, như vậy môi trường pháp lý có ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng . Một hệ thống
pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các Ngân hàng thương mại dễ
dàng hơn trong việc xây dựng kế hoặch kinh doanh của mình, góp phần vào
việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
- Môi trường chính trị-xã hội.
Môi trường chính trị-xã hội ốn định sẽ là một nhân tố quan trọng thúc
- Trang24 -
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG TÍN DỤNG TRƯNG DÀI HẠN TẠI NGÂN
HÀNG
CÔNG
THƯƠNG
THANH
HOÁ
2.1/GIÓI THIỆƯ CHƯNG VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH
HOÁ.
2.1.1/ Lịch sử hình thành phát triến và CO’ cấu tố chức.
A. Lịch sử hình thành phát triển.
Trước năm 1988, hệ thống Ngân hàng Việt Nam vẫn là hệ thống Ngân
hàng một cấp, Ngân hàng Nhà nước lại vừa là Ngân hàng thương mại. Nhận
thấy sự không hiệu quả trong hoạt động của mô hình này, Nhà nước ta đã ban
hành hai pháp lệnh Ngân hàng năm 1988 chuyến từ hệ thống Ngân hàng một
cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp. Theo tinh thần của pháp lệnh này thì
Ngân hàng Công thương Thanh Hoá (Chuyến thành tù’ Ngân hàng Nhà nước
Thị xã Thanh Hoá) được thành lập theo quyết định số: 65/NH-QĐ ngày
8/7/1988 của thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Là đơn vị thành viên
hạch toán phụ thuộc của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngân hàng
Công thương Thanh Hoá có hai đơn vị trực thuộc: Ngân hàng Thị xã Bỉm
Sơn, Ngân hàng Thị xã sầm Sơn .
Những đối mới hoạt động của hệ thống Ngân hàng giai đoạn 1988 1990 tuy được xem là bước đột phá quan trọng nhưng vẫn còn mang tính
chất vá víu, nửa vời, chưa thực sự đổi mới về mọi mặt, nó chưa thực sự thúc
đấy nền kinh tế phát triển. Nhận biết được điều này nên nhà nước ta đã tiến
hành cải tố toàn diện hệ thống Ngân hàng tiến dần đến một hệ thống Ngân
hàng hiện đại, thông dụng. Vì vậy, ngày 8/2/199, 69 chi nhánh Ngân hàng
Công thương trên cả nước được thành lập và thành lập lại trong đó có Ngân
hàng Công thương Thanh Hoá.
- Trang26 -