LỜI MỞ ĐẦU
Ngành dệt may Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời. Dệt may là ngành hàng mũi
nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Từ nhiều năm qua, sản
phẩm dệt may Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng, cơ cấu chủng loại và giá trị
kim ngạch, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Những thành công của sản phẩm may mặc thị trường nội địa và quốc tế
đã đánh dấu bước khởi đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt
Nam. Trong toàn ngành dệt may, may mặc là ngành có tiểm năng phát triển, có lợi thế
cạnh tranh lớn trên trường quốc tế.
Ngành may mặc giữ vai trò quan trọng cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội của nước
ta, góp phần quan trọng trong giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người cũng như
góp phần thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nội địa và quốc tế. Với tiềm
năng và vai trò to lớn của ngành, nên các chính sách liên quan trược tiếp đến sản xuất và
phát triển hàng may mặc ở nước ta có ý nghĩa và sức ảnh hưởng sâu rộng. Hàng may mặc
phục vụ nhu cầu nội địa và xuất khẩu nên nhiều chủ trương, chính sách của của Chính
phủ cùng các cơ quan chức năng trong ngành dệt may có thể gây ảnh hưởng gián tiếp
hoặc trực tiếp tới tình hình phát triển thương mại hàng may mặc. Các chính sách có thể
đem lại thành công, đồng thời cũng tạo ra hạn chế trong ngành dệt may nói chung và phát
triển thương mại hàng may mặc nói riêng. Do vậy việc tìm hiểu về “Chính sách phát
triển hàng thương mại may mặc trong giai đoạn hiện nay (2005-2014)” là cần thiết và
quan trọng.
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI HÀNG
MAY MẶC
1.1.
Lý thuyết chung
1.1.1. Lý thuyết về hàng may mặc và khái niệm về phát triển thương mại hàng may mặc
Ngành hàng dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng, liên quan đến sản xuất sợi, dệt, nhuộm, vải, thiết kế sản phẩm, hoàn tất
hàng may mặc và cuối cùng là phân phối hàng may mặc đến tay người tiêu dùng.
Hàng may mặc là những sản phẩm thuộc ngành dệt may, bao gồm các loại quần áo
nói chung và phụ kiện kèm theo.
Phát triển ngành dệt may nói chung bao gồm các nội dung: phát triển số lượng
doanh nghiệp may, phát triển các yếu tố đầu vào, phát triển sản phẩm và thị trường ngành
dệt may và nâng cao kết quả, hiệu quả sản xuất ngành dệt may.
Phát triển thương mại hàng may mặc là một trong những nội dung quan trọng
trong phát triển tổng thể ngành dệt may. Phát triển thương mại hàng may mặc chính là
phát triển khâu phân phối hàng may mặc đến tay người tiêu dùng, phát triển sản phẩm và
thị trường hàng may mặc. Vai trò của khâu phân phối hàng may mặc là đảm bảo đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng, đem lại thặng dư cho nền kinh tế, giải quyết việc làm và làm tăng
phúc lợi xã hội.
1.1.2. Đặc điểm về phát triển thương mại hàng may mặc tại Việt Nam.
Sản xuất và phát triển thương mại hàng may mặc là một khâu trong chuỗi giá trị
ngành dệt may. Việc phát triển ngành dệt may là một ngành mũi nhọn phục vụ phát triển
công nghiệp. Tại Việt Nam sản xuất và thương mại hàng may mặc có những đặc điểm cơ
bản sau đây trong khâu sản xuất và phát triển thương mại hàng may mặc:
-
-
-
Giá trị gia tăng hiện tại trong sản xuất hàng may mặc thấp. Tỷ lệ xuất khẩu các sản
phẩm may mặc mang lại giá trị gia tăng cao của ngành dệt may Việt Nam vẫn còn
thấp, phần lớn do nguyên nhân không chủ động được nguồn nguyên liệu, khả năng
quản lý, huy động vốn và chủ yếu thực hiện các hợp đồng gia công lại cho các nhà
sản xuất nước ngoài nên vẫn chưa khai thác hết các lợi thế để thu nguồn lợi tối đa
ở khâu này.
Doanh nghiệp may mặc gồm nơi sản xuất, gia công xuất khẩu chủ yếu sử dụng lao
động kết hợp với công nghệ giản đơn. Rất nhiều sản phẩm được sản xuất tại Việt
Nam xuất ra thị trường thế giới nhờ các thương hiệu nước ngoài và phân phối sản
phẩm do các công ty ở nước ngoài đảm nhận hoàn toàn.
Mức độ đa dạng hóa thị trường xuất khẩu thấp đối với sản phẩm may mặc. Bên
cạnh việc tiêu thụ trong thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu của hàng may mặc
Việt Nam trong những năm qua ít thay đổi, đối tác xuất khẩu lớn nhất vẫn là Hoa
Kỳ, sau đó là EU và Nhật Bản.
Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vẫn thiếu liên
kết với những người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng mà chỉ, thông tin người mua có
được về các doanh nghiệp trong ngành không nhiều do hệ thống thông tin về các
doanh nghiệp không chi tiết.
1.2.
Mục tiêu và vai trò phát triển thương mại ngành dệt may nói chung và phát
triển thương mại hàng may mặc nói riêng ở Việt Nam
1.2.1. Mục tiêu chung:
-
Theo quyết định số 55/2001/QĐ-TTg và của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt về
chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam, từ 2001 đến 2010 và từ 2010-2015, định
hướng đến 20120, mục tiêu tổng quát của ngành dệt may là:
Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng
điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo
nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu
vực và thế giới.
1.2.2.Mục tiêu cụ thể:
Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau:
Chỉ tiêu
Đơn
tính
vịThực hiện Mục tiêu toàn ngành đến
2006
2010
2015
2020
1. Doanh thu
triệu USD7.800
14.800
22.500
31.000
2. Xuất khẩu
triệu USD5.834
12.000
18.000
25.000
3. Sử dụng lao động
nghìn
người
2.150
2.500
2.750
3.000
4. Tỷ lệ nội địa hoá
%
32
50
60
70
5. Sản phẩm chính:
- Bông xơ
1000 tấn 8
20
40
60
- Xơ, Sợi tổng hợp
1000 tấn -
120
210
300
- Sợi các loại
1000 tấn 265
350
500
650
- Vải
triệu m2 575
1.000
1.500
2.000
- Sản phẩm may
triệu SP 1.212
1.800
2.850
4.000
Nguồn: Cổng thông tin điện tử chính phủ
Về sản phẩm:
Tập trung phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành may xuất khẩu để tận
dụng cơ hội thị trường, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và
xuất khẩu hàng may mặc.
Trong phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ:
Kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư xơ sợi tổng hợp, nguyên phụ liệu,
phụ tùng thay thế và các sản phẩm hỗ trợ.
Về phát triển thương mại hàng dệt may:
Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng
thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là
thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công
nghiệp phụ trợ chưa phát triển. Ngành dệt may phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế
chuyển dịch lao động nông nghiệp nông thôn.
1.2.3. Vai trò của phát triển thương mại ngành dệt may Việt Nam:
Ngành dệt may là ngành kinh tế mũi nhọn về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu
toàn ngành đạt 18,2 tỷ USD vào năm 2014, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó
xuất khẩu may mặc đạt 15,5 tỷ USD.
Ngành dệt may luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò quan trọng trong
chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế giới. Với tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu khá cao, ngành dệt may đã có những đóng góp không nhỏ vào tăng
trưởng xuất khẩu hàng hóa, cải thiện cán cân thương mại nói riêng và tăng trưởng kinh tế
nói chung ở Việt Nam.
Ngành dệt may là ngành đòi hỏi nhu cầu vốn không lớn, giải quyết được nhiều lao
động chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, sử ít ngày tài nguyên.
Ngành dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động và có ít tác
động tiêu cực hoặc ít nguy cơ tạo ra cú sốc cho nền kinh tế như bất động sản hay tài
chính...
Phát triển thương mại ngành dệt may tạo điều kiện hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, đẩy mạnh xuất khẩu do các rào cản thương mại như hạn ngạch dệt may vào Mỹ và
các nước đã được dỡ bỏ, bình đẳng về thuế quan giữa các nước thành viên, cơ hội tiếp
cận công nghệ, thông tin, các dịch vụ, cũng như kinh nghiệm quản lí được tốt hơn
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
HÀNG MAY MẶC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005-2014
2.1. Khái quát thực trạng thương mại hàng may mặc Việt Nam trong giai đoạn
2005-2014
2.1.1. Thị trường hàng may mặc Việt Nam
Thị trường nội địa
Theo nhận định của Bộ Công Thương, hàng hóa trong nước đã tạo được dấu ấn. Điều
tra mới nhất của công ty TV Plus sau 1 năm hưởng ứng cuộc vận động “ Người Việt Nam
ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thì đã có 58% người tiêu dùng Việt Nam quan tâm đến
hàng Việt.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều để chiếm lĩnh thị trường nội địa nhưng với sự cạnh tranh
khốc liệt thì hàng ngoại vẫn đang chiếm lĩnh thị trường. Hiện tại, các trung tâm thương
mại lớn ở Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là nơi tập trung đông đảo các thương hiệu
lớn của nước ngoài như: Valentino, Gucci, Calvin Klein……Không ít các sản phẩm của
những nhãn hiệu này có giá từ 1 triệu trở lên , và doanh thu của các cửa hàng vẫn tăng.
So sánh về giá cả thì giá hàng may mặc của các thương hiệu trong nước có giá rẻ hơn so
với hàng ngoại, nhưng nhiều người vẫn ưa chuộng việc tiêu dùng hàng hiệu nước ngoài.
Có thể nói hàng may mặc trong nước của nước ta gặp không ít trở ngại, nhưng qua
thời gian hoạt động nỗ lực của tập đoàn dệt may Việt Nam cũng thu được những thành
quả có giá trị.
Đồ thị 1: Kết quả kinh doanh dệt may Việt Nam niêm yết
Theo số liệu từ đồ thị, trong số các doanh nghiệp dệt may niêm yết, CTCP Dệt may
– Thương mại – Đầu tư Thành Công là doanh nghiệp có quy mô lớn nhất với doanh thu
năm 2013 đạt 2.554 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ. CTCP Sản xuất thương mại May
Sài Gòn là doanh nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng doanh thu lớn nhất năm 2013 với 16% do
các đơn hàng trong năm rất khả quan; đưa GMC trở thành công ty có quy mô lớn thứ 2
trong ngành dệt may với 1.229 tỷ đồng. CTCP Everpia Việt Nam GIL CTCP Sản xuất
Kinh doanh cũng đạt mức tăng trưởng ấn tượng về doanh thu năm 2013 với 10%; đạt 751
tỷ đồng. Doanh thu tăng chủ yếu từ tăng trưởng ngành hàng bông tấm do tình hình đơn
hàng trong năm khả quan. Doanh thu nhóm bông tấm đạt 227 tỷ đồng, tăng 51,3% so với
cùng kỳ.
Kết quả của cuộc điểu tra nghiên cứu thị trường(Nguồn: VITAS,VietinBankSc)tổng
hợp trong năm 2013 cho thấy, nhu cầu về hàng may mặc trong nước chịu tác động lớn từ
giá và có thể được phân chia thành 4 nhóm: giá mua từ 60,000 đến 100,000 đồng/bộ;
100,000 đến 300,000 đồng/bộ; 300,000 đến 1,000,000 đồng/bộ, và nhóm cuối cùng có
giá từ 1,000,000 đồng/bộ trở lên. Phần lớn các sản phẩm may mặc của Việt Nam có giá
khá cao, chỉ một số doanh nghiệp may trong nước đang cố tung ra dòng sản phẩm có giá
trung bình dưới 200,000 đồng/bộ. Vì thế nhìn chung thị trường may mặc ở Việt Nam rất
khó khăn trong cạnh tranh với hàng may mặc giá rẻ nhãn mác Trung Quốc, Hồng Kông,
Thái Lan.
Theo nghiên cứu mới đây của Niesel – công ty chuyên cung cấp thông tin về đo
lường các chỉ số truyền thông và thị trường cho thấy, có đến 90% ngưởi tiêu dùng được
hỏi ở TP Hồ Chí Minh và 83% ở Hà Nội cho biết họ có thể hoặc chắc chắn sẽ mua hàng
Việt Nam nhiều hơn. Có thể thấy xu hướng sử dụng hàng Việt Nam đang tăng lên. Lý do
khiến người tiêu dùng quay trở lại với các sản phẩm trong nước được đưa ra bao gồm: giá
cả hợp lý, tính đa dạng, dịch vụ khuyến mại, bảo hành tốt, và quan trọng hơn là giảm mối
quan ngại về vấn đề an toàn sức khỏe của sản phẩm may mặc tràn làn trên thị trường hiện
nay. Mức tăng trưởng tiêu thụ nội địa của ngành dệt may Việt Nam năm 2013 thấp hơn
các năm trước (18-20%), đạt 12% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh lạm phát
năm nay thấp hơn các năm trước nên nếu loại trừ yếu tố giá khoảng 6% thì sự tăng
trưởng về lượng vẫn nằm trong mức tăng trưởng hợp lý của tiêu dùng nội địa. Theo Quy
hoạch phát triển ngành dệt may vừa được Bộ Công Thương phê duyệt (4/2014), tăng
trưởng thị trường nội địa sẽ đạt khoảng 10%-12% từ nay cho đến năm 2020.
Thị trường xuất khẩu:
Bảng 2: 4 thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng dệt may của Việt Nam năm 2014.
ĐVT:USD
Giá trị NK
Thị trường
Năm 2014
Năm 2013
Năm 2014 so với năm
2013(%)
Hoa Kỳ
9.819.813.966
8.611.612.086
+14,03
Nhật Bản
2.623.669.574
2.382.583.772
+10,12
Hàn Quốc
2.092.300.622
1.640.697.940
+27,53
EU
764.402.808
652.296.671
+17,19
Nguồn: Bộ Công Thương
Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam khi đạt kim
ngạch 9,82 tỷ USD, tăng 14,03% so với năm 2013. Năm 2014, thị phần của dệt may Việt
Nam tại thị trường Hoa Kỳ chiếm 9,31%, tăng khá so với mức 8,28% năm 2013.
Xuất khẩu sang thị trường EU cũng tăng 17% so với năm 2013, đạt 3,4 tỷ USD. Áo
jacket, quần nam nữ, áo suit nam, nữ… là những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong cơ
cấu hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Năm 2014, xuất khẩu
hàng dệt may sang Nhật đạt 2,62 tỷ USD, tăng 10,12%. Xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng
27,53%, với 2,09 tỷ USD. Nhìn chung, trong năm 2014 xuất khẩu hàng dệt may sang đa
số các thị trường
Nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất hàng may mặc
Trong cơ cấu nhập khẩu, Việt Nam đã nhập nguyên vật liệu dệt may, máy móc thiết
bị từ Trung Quốc khoảng 42% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc. Tình hình nhập
khẩu sơ, sợi dệt, vải và các nguyên liệu dệt may, da giày năm 2014 đều có xu hướng tăng
so với năm 2013. Ngành Dệt may nói chung đã nhập khẩu 21% giá trị từ Trung Quốc, tức
100 đồng hàng hóa Dệt may chúng ta làm ra thì có 21 đồng hàm lượng Trung Quốc.
Tương tự, nếu tính tổng nhập khẩu của cả hai ngành Dệt may- Da giày thì cứ 100 đồng
chúng ta làm ra, có 36 đồng hàm lượng Trung Quốc (36%). Mức độ lệ thuộc như vậy là
khá lớn.
Giá trị nhập khẩu ngành dệt may liên tục tăng qua các năm trong giai đoạn 20092013 là 20,5%/năm. Năm 2013, giá trị nhập khẩu dệt may đạt 13.547 triệu USD; tăng
19,2% so với cùng kỳ; chiếm 10,25% tổng kim ngạch nhập khẩu Việt Nam năm 2013.
Giá trị nhập khẩu sử dụng cho xuất khẩu năm 2013 đạt 10.432 triệu USD; theo đó tỷ lệ
giá trị gia tăng đạt 48,1%. Trong cơ cấu nhập khẩu, vải chiếm tỷ trọng chủ yếu. Năm
2013, giá trị nhập khẩu vải đạt 8,397 triệu USD; chiếm 62% tổng kim ngạch nhập khẩu
dệt may Việt Nam.
2.1.2. Sản phẩm hàng may mặc Việt Nam
Theo cách phân loại của tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO), 7
nhóm hàng chính trong may mặc là: trang phục nữ, dệt kim, trang phục nam và trang
phục khác (quần áo trẻ sơ sinh, đồ bơi...). theo cách phân loại các mặt hàng dệt may của
Hiệp hội dệt may, có rất nhiều chủng loại sản phẩm may mặc cụ thể như sau:
Bảng 1: Chủng loại và kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam 9 tháng đầu
năm 2015.
Chủng loại
9
tháng
(USD)
2015
áo Jacket
3,732,749,303
5.53
áo thun
3,402,380,272
8.67
Quần
2,892,558,418
11.58
Quần áo trẻ em
1,009,794,048
15.49
áo sơ mi
943,301,757
10.15
Váy
942,152,874
3.07
Vải
679,175,593
24.64
Áo
636,457,688
30.6
Đồ lót
599,965,866
11.39
Quần Short
564,798,016
-1.41
Găng tay
178,717,213
8.73
Quần áo Vest
167,689,493
5.96
Quần áo BHLD
165,771,417
6.72
Khăn bông
137,726,539
-2.71
Quần áo ngủ
127,021,508
-7.05
áo len
126,288,589
37.77
Quần áo bơi
105,436,821
14.84
So 2014 (%)
Màn
86,537,214
-27.2
áo Ghilê
64,930,128
15.41
Quần Jean
50,949,551
9.31
áo Kimono
47,620,714
-26.22
áo y tế
37,826,721
31.15
Bít tất
35,423,093
5.15
áo đạo hồi
25,498,326
-23.43
PL may
19,398,464
-1.55
Quần áo mưa
17,852,432
-4.45
Tạp dề
13,815,109
89.4
áo lễ hội
11,579,627
63.11
áo nỉ
9,862,191
-14.18
Quần áo các loại
5,448,494
-60.29
Khăn
4,164,123
-54.47
áo HQ
3,671,332
-0.56
Caravat
3,487,212
-3.45
áo gió
1,763,243
-42.88
Khăn bàn
1,494,735
-19.97
Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
Tại Việt Nam sản phẩm may mặc được sản xuất để phục vụ xuất khẩu là rất lớn, 9
tháng đầu năm 2015, xuất khẩu hàng may mặc 17,09 tỷ USD đạt trong khi đó xuất khẩu
của toàn ngành dệt may đạt 19,913 triệu USD 9 (tức là chiếm khoảng 85.9% tổng giá trị
xuất khẩu ngành dệt may). Mặt khác, hơn 60% giá trị xuất khẩu của ngành may mặc,
tương ứng với 11.13 tỷ USD, là từ các mặt hàng: áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần, áo
jacket, quần áo trẻ em.
Sản phẩm may mặc phục vụ thị trường nội địa ngày càng được người tiêu dùng ưa
chuộng thông qua cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và
nhiều chương trình đầu tư khác để phát triển sản phẩm hàng may mặc trên thị trường nội
địa. Nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, năm 2014, ngành dệt may đã chú trọng
nhiều hơn đến khâu thiết kế thời trang tạo ra nhiều sản phẩm may mặc đa dạng về mẫu
mã, chủng loại phù hợp với thị hiếu người Việt Nam, nhiều thương hiệu mới ra đời phục
vụ nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. Đặc biệt có các doanh nghiệp đã phát triển
các thương hiệu thời trang cao cấp, đưa ra thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao
như thương hiệu Grusz của May 10, Mattana của tổng công ty may Nhà Bè, Merriman
của Hòa Thọ... điều nay tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng nội địa về sản phẩm
may mặc cấp trung đến cao cấp.
2.2. Chính sách phát triển thương mại hàng may mặc Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay:
2.2.1. Chính sách thuế:
Là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, Đảng và nhà nước
đã có những ưu đãi và những chính sách hỗ trợ trong việc xuất khẩu sản phẩm và nhập
khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất. Trong đó có thể kể đến nghị quyết số 13 của chính
phủ trong đó quy định giãn giảm thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp
dệt may. Theo đó, các doanh nghiệp dệt may được gia hạn 6 tháng nộp thuế giá trị gia
tăng nếu thực hiện nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.
Bên cạnh đó, đối với việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp định
đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), sau 5 năm có hiệu lực, ngành dệt may của Việt
Nam vẫn được hưởng ưu đãi về thuế dù sử dụng một số nguyên phụ liệu được sản xuất từ
các quốc gia ngoài TPP. Đây là một trong những nội dung của Toàn văn Hiệp định TPP
vừa được công bố chiều 5/11/2015. Dệt may được đánh giá là ngành được hưởng lợi
nhiều từ Hiệp định này khi mà các nước thành viên TPP đang chiếm tới 65% kim ngạch
xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên để hưởng ưu đãi thuế trong TPP, hàng dệt
may phải đáp ứng được quy tắc xuất xứ. Trong khi đó, hiện Việt Nam vẫn phụ thuộc vào
nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước ngoài, chủ yếu là từ các quốc gia ngoài TPP
như Trung Quốc. Do vậy, ngành dệt may sẽ có thêm 5 năm trước khi tuân thủ hoàn toàn
theo luật chơi mới của TPP. Đống thời với đó là việc thuế suất thuế nhập khẩu đối với
hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường Mỹ, Nhật … sé được giảm về mức 0%.
Điêu này là một trong những khuyến khích lớn đối với các doanh nghiệp dệt may trong
nước.
Ưu điểm
Chính sách thuế là một công cụ quản lý hữu hiệu của nhà nước mang lại nguồn thu
lớn cho ngân sách, tuy nhiên cũng tác động không nhỏ đến kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Việc áp dụng những chính sách ưu đãi về thuế đã tạo nhiều cơ
hội và thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu có điều kiện kinh doanh tốt hơn. Việc
giảm và giãn thời hạn nộp thuế sẽ tạo môi trường kinh doanh dễ thở hơn cho các doanh
nghiệp, cải thiện hiệu quả khả năng phân bổ và sử dụng vốn của mình
Doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc tiêu thụ nội địa là đối tượng chính được
hưởng lợi trực tiếp từ chính sách này. Hiện nay, ước tính có tới 85% sản lượng hàng may
mặc phục vụ xuất khẩu, chỉ có khoảng 15% sản lượng dành cho tiêu thụ nội địa. Chính
sách này đã có những tác động đáng kể đến việc kích thích tiêu dùng mà mở rộng thị
phần tiêu thụ trong nước.
Hạn chế:
Thực hiện việc giãn, giảm thuế chỉ giải quyết một phần khó khăn cho các doanh
dệt may. Về lâu dài, ngành này rất cần có những giải pháp tổng thể.
Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas), việc giãn thời hạn nộp thuế giá trị gia
tăng (VAT) không có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu.
Doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu được hoàn thuế VAT nên nhiều khi phần
được hoàn nhiều hơn phần phải nộp. Thêm vào đó, những doanh nghiệp chuyên xuất
khẩu dù được hoàn thuế nhưng thời gian chờ được hoàn thuế lại được thực hiện rất chậm.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động được giảm
30% thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012. Mặc dù vậy, nhiều doanh nghiệp từ năm
2011 đến năm nay đang lỗ, không có thu nhập để được miễn giảm thuế.
Giãn thuế VAT chỉ có tác dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ nội địa,
tuy nhiên tác động của việc hỗ trợ đối với các doanh nghiệp trong hiệp hội không nhiều.
Bởi trên thực tế, chỉ có khoảng 35-40% sản lượng sợi được tiêu thụ nội địa, còn tới 60%
xuất khẩu.
Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện ở mức 20% là quá cao so với lãi suất ngân hàng
(lãi suất huy động của các ngân hàng hiện là 9%, lãi suất cho vay của các ngân hàng
khoảng từ 15-17%).
2.2.2. Chính sách tỷ giá.
Trong những năm gần đây, tỷ giá VNĐ trên thị trường liên tục biến động. Từ những
năm 2007 trở về trước tỷ giá đồng nội tệ khá ổn định. Từ sau năm 2008, tỷ giá nội tệ trên
thị trường liên tục biến động do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Đến
thời điểm hiện tại tỷ giá vẫn chưa ổn định trở lại. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của tỷ giá
đến việc tăng khả năng xuất khẩu dệt may của Việt Nam còn có những hạn chế nhất
định. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thì dầu thô, hàng dệt may, thủy sản và
gạo chiếm tỷ trọng tương đối lớn (khoảng gần 40%), mà giá trị xuất khẩu của các mặt
hàng này chủ yếu dựa vào kết quả của hoạt động sản xuất và khả năng chiếm lĩnh thị
trường quốc tế hơn là tỷ giá hối đoái.
Cụ thể năm 2008, biên độ tỷ giá đồng Việt Nam/Đô la Mỹ đã được nới rộng hai lần,
2% kể từ cuối tháng 6-2008 và thêm 3% vào đầu tháng 11-2008. Mức này sau đó đã được
nâng lên ±5% vào ngày 23-3-2009. Đầu năm 2011, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều
chỉnh giảm giá Việt Nam Đồng là một biện pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và tạo thuận
lợi hơn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế việc giảm giá tiền đồng dường như cũng
chưa thấy tác động đối với xuất khẩu bởi trải qua các lần nới rộng biên độ tỷ giá, xuất
khẩu của Việt Nam ít được cải thiện. Trong khi đó, ngành may mặc Việt Nam chủ yếu chỉ
thực hiện khâu gia công vì vậy các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng dệt may xuất khẩu và
lại thực sự khó khăn khi tiền đồng giảm giá vì phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu đầu
vào.
Do vậy, việc giảm giá VND không chắc đã làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng
xuất khẩu bởi năng lực cạnh tranh chịu tác động bởi nhiều yếu tố đan xen nhau. Bên cạnh
đó, năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ở
Việt Nam đều còn hạn chế. Có thể thấy rõ điều này trong cơ cấu tỷ trọng hàng hóa xuất
nhập khẩu của Việt Nam thời gian gần đây.
Ưu điểm:
Từ đầu năm 2015, NHNN đã đưa ra cam kết về chính sách tỷ giá, theo đó sẽ điều
chỉnh tỷ giá không quá 2%. Với điều này, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định rất tích cực
nhằm định hướng kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam và giữ ổn
định VNĐ/USD.
Cầu của thế giới đối với những hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tương đối ổn
định và sẽ không tăng đột biến nếu giá của những hàng hóa này giảm, vì cầu của thị
trường thế giới đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam có độ co giãn thấp về giá.
Việc điều chỉnh tỷ giá giảm ở một mức nào đó đã góp phần cải thiện rất nhiều cán
cân thanh toán trong ngành xuất khẩu dệt may.
Nhược điểm
Năm 2009, việc Nhà nước để giá đồng nội tệ phá giá kỉ lục chưa thể mang lại kết
quả như mong đợi. Chính sách này chỉ có lợi cho các mặt hàng xuất khẩu mà hàm lượng
nhập khẩu thấp. Còn rất tiêu cực cho hoạt động nhập khẩu và nhập khẩu phục vụ nhóm
hàng xuất khẩu sau đó. Trong cấu thành các mặt hàng xuất khẩu dệt may, nguyên liệu
nhập khẩu chiếm tỷ trọng đến 70% giá trị hàng nhập khẩu, trong đó vải chủ yếu nhập
khẩu hoàn toàn từ Trung Quốc, xơ sợi cũng nhập khẩu hơn 40% từ nước ngoài, có thể
thấy nguồn nguyên liệu chủ yếu dựa vào bên ngoài, doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu
hàng may mặc thực sự gặp khó khăn vì VNĐ giảm giá. Do vậy, cán cân xuất nhập khẩu
hàng dệt may chưa chắc đã được cải thiện.
Chính sách tỷ giá đã cam kết từ đầu năm 2015 có khả năng vẫn chỉ là cam kết, khi
mà điều chỉnh tỷ giá không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của NHNN mà còn cả
những tác động khác từ các rủi ro hệ thống (rủi ro hệ thống là những nguy cơ xảy ra
những sự kiện không mong đợi làm giảm sút giá trị kinh tế hoặc niềm tin đối với hệ
thống tài chính có khả năng gây sụp đổ cả hệ thống tài chính và kèm theo sự gia tăng tác
động xấu vào khu vực kinh tế thương mại, đặc biệt là xuất khẩu.
Cụ thể, thời gian gần đây, tỷ giá Việt Nam chịu nhiều sức ép trước các biến động
như: đồng Nhân dân tệ phá giá liên tục ở mức kỷ lục, nhập siêu tái diễn, kim ngạch xuất
nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc, doanh nghiệp Việt thiếu tính cạnh tranh so
với doanh nghiệp các nước trong khu vực…
Đối mặt với thách thức trên, NHNN cũng nên xây dựng một chính sách tỷ giá mới
trong bối cảnh mới hiện nay. Theo đó, Việt Nam cần có kế hoạch dịch chuyển sang cơ
chế tỷ giá thả nổi có quản lý tương tự các nước trong khu vực và các quốc gia mới nổi
khác trên thế giới. Nghĩa là, NHNN không tuyên bố trước tỷ giá trung tâm và tỷ giá hằng
ngày được xác lập bởi cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Tuy nhiên, NHNN có thể dùng
nhiều biện pháp can thiệp như mua bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng, kiểm soát
BoP…
2.2.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Với đặc trưng của ngành may mặc là sử dụng nhiều lao động, may mặc Việt Nam
giải quyết được hơn 2,5 triệu lao động từ nguồn nhân lực trong nước. Từ đó có thể thấy
lao động đóng một vị trí quan trọng vào phát triển thương mại may mặc nói riêng cũng
như phát triển ngành nói chung. Đặc thù của lao động trong ngành may mặc nước ta là
đều được qua đào tạo, làm quen với nghề trước khi bước vào lao động chuyên nghiệp, tuy
nhiên trình độ đào tạo hầu hết đều ở mức thấp, chỉ qua khóa đào tạo ngắn, mà chưa được
đào tạo chuyên sâu.
Thấy được những khó khăn đó, Nhà nước đã có chính sách phát triển để nâng cao
cả về số lượng và chất lượng lao động trong ngành may mặc của nước ta. Để thực hiện
được chính sách này, nước ta đã có những hoạt động khuyến khích lao động tham gia vào
ngành, những quyết định hỗ trợ đối với đào tạo nhân lực trong ngành dệt may.
Trong bối cảnh của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngày
20/1/2009 bắt đầu thực hiện gói hỗ trợ khó khăn cho người lao động ngành dệt may, được
cấp cho doanh nghiệp dựa trên thành tích xuất khẩu.
Tiếp đến là các chương trình như Hội thi thợ giỏi ngành dệt may do Công đoàn dệt
may Việt Nam tổ chức. Hội thi đã tổ chức qua 5 lần mang lại nhiều những giải thưởng
nhằm thúc đẩy phong trào rèn luyện tay nghề, nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm của công nhân ngành sợi, dệt, may trong Tập đoàn dệt may. Có thể thấy, đây là một
hoạt động có ý nghĩa vì vừa khuyến khích lao động tự nâng cao tay nghề, vừa tạo thêm
động lực để lao động thêm yêu nghề hơn.
Về tổ chức đào tạo lao động trong ngành dệt may, Bộ Giáo dục phê duyệt chương
trình đào tạo hàng năm, trong đó có đào tạo về chuyên ngành may mặc do một số trường
đại học tổ chức giảng dạy. Có thể kể đến một số trường đại học đào tạo về may mặc như:
Trường Đại học công nghiệp Hà Nội với Khoa công nghệ may và thời trang, CĐ Công
nghiệp dệt may thời trang TP.HCM, một số trường đào tạo cắt may như ĐH Công nghiệp
TP.HCM, CĐ Kinh tế - kỹ thuật công nghiệp 2..v.v. Một điểm sáng trong đào tạo lao
động ngành may là quyết định số769/QĐ-TTg ngày 04/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
Quyết định này về việc nâng cấp trường Cao đẳng công nghiệp dệt may thời trang Hà
Nội lên thành Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội với các ngành đào tạo chuyên sâu
hơn về dệt may như công nghệ may và thiết kế thời trang. Đây là trường Đại học chuyên
ngành Dệt May đầu tiên của Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành
theo hướng nghề nghiệp ứng dụng.
Về hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực ngành dệt may cho Tập đoàn dệt may Việt Nam,
năm 2008, Chính phủ phê duyệt “Chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Dệt May
Việt Nam”, trong đó có các chương trình từ đào tạo cán bộ quản lý đến công nhân kỹ
thuật. Theo đó, đối với các lớp đào tạo ngắn hạn (dưới 12 tháng), ngân sách nhà nước hỗ
trợ tối đa 250.000 đồng/học viên/ tháng. Đối với các lớp dài hạn, ngân sách nhà nước hỗ
trợ tối đa 2,8 triệu đồng/học viên/năm. Đối với đào tạo nước ngoài, các doanh nghiệp và
người đi đào tạo có trách nhiệm đóng góp kinh phí đào tạo. Ngoài ra, ngân sách nhà nước
hỗ trợ một phần kinh phí để nâng cấp cơ sở vật chất các trường đào tạo chuyên nghiệp
của ngành Dệt May Việt Nam.Một quyết định hỗ trợ phát triển nhân lực ngành dệt may
nữa của Chí phủ đó là quyết định số 288/QĐ-TTg về việc hỗ trợ kinh phí đào tạo lao
động cho Tập đoàn tháng 2/2014. Theo quyết định này, Chính phủ quyết định hỗ trợ
65.569 triệu đồng cho Tập đoàn Dệt May Việt Nam từ nguồn chi sự nghiệp giáo dục và
đào tạo thuộc ngân sách trung ương năm 2014 để đào tạo nguồn nhân lực Dệt May năm
2014.
Ưu điểm:
Nhờ gói hỗ trợ khó khăn cho người lao động trong ngành dệt may năm 2009,
ngoài sự đảm bảo cho người lao động về công việc và mức lương, doanh nghiệp dệt may
cũng được hưởng lợi khi được trích 1% giá trị kim ngạch xuất khẩu để giải quyết khó
khăn tài chính trong các xí nghiệp dệt may có nguy cơ đóng cửa.
Chất lượng của sản phẩm và sự hài lòng của người lao động chính là các tiêu chí
quan trọng để đánh giá hiệu quả trong phát triển nguồn nhân lực ngành dệt may hiện nay.
Người tiêu dùng các nước Mỹ, EU, Nhật Bản được đánh giá là khá kén chọn
trong việc lựa chọn sản phẩm may mặc. Bởi những quốc gia này có thu nhập, mức sống
cao đòi hỏi nhu cầu cao trong ăn mặc. Việc đẩy mạnh đào tạo chất lượng đội ngũ lao
động đã và đang đáp ứng được nhu cầu về sản phẩm chất lượng cao, kĩ thuật phức tạp,
mức độ thâm dụng tri thức lớn như comple, veston, các sản phẩm theo xu hướng thời
trang. Các doanh nghiệp ngày càng chú trọng công tác thiết kế thời trang, tạo ra các sản
phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm dệt
may, đáp ứng nhu cầu hội nhập trong ngành dệt may
Gần 80% là lao động nữ, trình độ văn hoá của người lao động chủ yếu là đã tốt
nghiệp PTTH, PTCS. Lao động trực tiếp của ngành đa số tuổi đời còn rất trẻ, tỷ lệ chưa
có gia đình cao sẽ là lợi thế cho việc đào tạo và nâng cao năng suất lao động. Việc thực
hiện có hiệu quả các chương trình đào tạo đã ngày càng nâng cao tay nghề của công
nhân. Nhân viên cảm thấy thỏa mãn nhu cầu được học tập của mình và mong muốn được
gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, tạo sự ổn định trong nhân lực của công ty.
Theo báo cáo của Asia foundation, với các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong
thời gian qua, các tổ chức phi chính phủ và khách hàng lớn của dệt may Việt Nam đều
đánh giá Việt Nam là một hình mẫu của ngành công nghiệp dệt may lành mạnh, đi liền
với luật lao động rõ ràng và mức lương công bằng.
Nhược điểm:
Lao động trong ngành Dệt May hiện nay tăng nhanh và tập trung chủ yếu trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đó là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hai loại
hình doanh nghiệp này hiện nay đang thu hút 2/3 lao động của toàn ngành Dệt May. Tuy
nhiên các doanh nghiệp này hiện nay lại có khuynh hướng đầu tư cho việc thu hút lao
động, chứ không có khuynh hướng đầu tư mạnh cho hoạt động đào tạo. Vì vậy người lao
động trong hai khu vực này chưa có điều kiện để tiếp xúc nhiều với các chương trình đào
tạo về chất lượng tay nghề.
2.2.4. Chính sách phát triển thị trường nông thôn
Với số lượng dân số trên 90 triệu người, thị trường nội địa được đánh giá là một
thị trường tiềm năng cho phát triển thương mại nói chung cũng như may mặc nói riêng.
Tuy nhiên, tỷ lệ dân số sống ở nông thôn nước ta khá nhiều, điều kiện tiếp xúc với hàng
hóa còn hạn chế. Để khắc phục khó khăn này, chương trình đưa hàng hóa tiêu dùng, trong
đó có hàng may mặc về nông thôn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân, cũng như
khuyến khích phát triển thương mại nội địa.
Nằm trong cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được
phát động bởi Bộ Chính trị, chương trình “Đưa hàng về nông thôn” được tổ chức tại
nhiều địa phương trong cả nước với mục đích vừa là để người dân tiếp xúc với hàng
trong nước, vừa là để thúc đẩy phát triển thương mại nội địa. Nằm trong danh sách những
hàng hóa được đưa về nông thôn, hàng may mặc là một trong những mặt hàng chủ yếu
của cuộc vận động này. Để thực hiện đưa hàng về nông thôn, Sở Công thương các tỉnh
chỉ đạo thực hiện các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu về hàng hóa Việt, thực hiện
nhiều đợt đưa hàng về nông thôn như: Hội chợ; Phiên chợ Việt, đưa hàng Việt về các
huyện, thị xã; Bán hàng lưu động và bán hàng chính sách phục vụ các xã miền núi; Tổ
chức các trung tâm thương mại lưu động bán hàng bình ổn giá tại các quận, huyện.
Thực hiện chủ chương của Chính phủ, năm 2013, Sở Công thương Hà Nội đã chủ
trì phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức 38 chuyến bán hàng phiên chợ Việt và 526
chuyến bán hàng lưu động; tổ chức bán hàng tại 13 xã của 4 huyện: Thạch Thất, Mỹ Đức,
Quốc Oai và Ba Vì trong dịp Tết 2014. Trong 06 tháng đầu năm 2014, Sở đã tổ chức
được 05 phiên chợ Việt phục vụ công nhân tại các khu công nghiệp và chế xuất. Trong
năm 2014, Sở Công Thương Hà Nội tổ chức 34 phiên chợ Việt và khoảng 500 chuyến
bán hàng lưu động, thực hiện bán hàng tại 13 xã miền núi vào dịp Tết 2015. Hay như tại
TP. Hồ Chí Minh, ngoài mạng lưới bán hàng cố định, hàng hóa còn được phân phối đến
tận tay người tiêu dùng thông qua hàng nghìn chuyến bán hàng lưu động, cụ thể năm
2013 thực hiện 1.266 chuyến, năm 2014 thực hiện 1.250 chuyến. Các tỉnh cũng hỗ trợ cơ
sở, không gian cho các doanh nghiệp tham gia đưa hàng về nông thôn khi tham gia các
hoạt động trên như: hội trợ đưa hàng tiêu dùng về nông thôn Thanh Hóa với chi phí gian
hàng được miễn phí hay như tỉnh Quảng Nam hỗ trợ 100% chi phí gian hàng tham gia
hội chợ, triển lãm, xúc tiến thương mại ở trong tỉnh hoặc 50% chi phí gian hàng ở các
tỉnh, thành phố trong nước.
Ưu điểm:
Thông qua chương trình “Đưa hàng về nông thôn” mà các tỉnh đã thực hiện, trước
hết đối với người dân, việc tuyên truyền, quảng bá hàng Việt đến người dân giúp nhận
thức của người dân đối với hàng Việt Nam (nhất là địa bàn vùng nông thôn, các xã miền
núi) đã được nâng lên rõ rệt thể hiện bằng việc mua sắm, tiêu dùng hàng Việt chiếm tỷ lệ
cao.
Điều này thể hiện khá rõ là đối với các mặt hàng may mặc, khi người dân đã tin
tưởng sử dụng các thương hiệu trong nước. Các chương trình khuyến mãi, hội chợ, triển
lãm đã giúp cho người tiêu dùng được tiếp cận với thương hiệu doanh nghiệp Việt, có đủ
thông tin so sánh, đánh giá, tránh mua phải hàng giả, hàng nhái, hàng nhập lậu và tạo
điều kiện cho hàng Việt phát triển.
Đối với doanh nghiệp, thông qua phiên chợ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận
nhiều hơn tới người tiêu dùng, qua kênh phân phối hàng hóa của doanh nghiệp tại thị
trường nội địa đặc biệt là thị trường khu vực nông thôn và miền núi. Bên cạnh đó, từ
những hoạt động của chương trình, doanh nghiệp Việt Nam có kế hoạch xây dựng chiến
lược sản phẩm, về lâu dài hướng tới nâng cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của
hàng Việt Nam. Ngoài các hội chợ đơn lẻ, còn có hệ thống phân phối đến từng địa
phương, cụ thể như hệ thống phân phối Vinatex mart của Tập đoàn Dệt may Việt Nam
phát triển trên địa bàn cả nước. Chính hệ thống này đã góp phần giới thiệu các mặt hàng
dệt may của Việt Nam.
Hạn chế
Chương trình “Đưa hàng về nông thôn” đã có những tích cực đối với phát triển
thương mại may mặc, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những hạn
chế, đó là việc thực hiện chương trình mới chỉ dừng lại ở bề nổi mà còn thiếu đi chiều
sâu.
Tính đến năm 2014, đã có 63/63 tỉnh, thành đã thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận
động, nhưng có tới 39 tỉnh, thành (chiếm 62%) chưa có kế hoạch triển khai. Các bộ,
ngành thì chỉ có 4/26 bộ, ngành có kế hoạch triển khai, còn lại 22 bộ, ngành (chiếm 84%)
cũng chưa có kế hoạch triển khai hoặc có thì cũng chưa toàn diện, rộng khắp. Chính vì
nhiều địa bàn không có kế hoạch triển khai cụ thể, nên nhiều tỉnh mới chỉ dừng lại ở công
tác tuyên truyền vận động nhân dân mà chưa có giải pháp hữu hiệu cụ thể để đi sâu vào
thực tế. Điều này làm cho nhận thức của một số vùng có văn hóa chưa phát triển vẫn
chưa nhận thức được giá trị của hàng Việt.
Bên cạnh đó, các tỉnh có thực hiện thì tâm lý chung của các doanh nghiệp khi
tham gia chỉ mang tính hình thức, mùa vụ, làm cho hết trách nhiệm chứ không tham gia
một cách tích cực. Nguyên nhân là bởi doanh nghiệp không có nguồn lực, không có điều
kiện để phát triển kênh phân phối tại nơi vừa mới tham gia xúc tiến. Nhưng quan trọng
hơn thế, nguyên nhân còn đến từ những người đứng đầu các chương trình xúc tiến
thương mại cho doanh nghiệp không có tư duy liên kết, kết nối. Các cơ quan xúc tiến
thương mại chỉ hỗ trợ về mặt tinh thần cho doanh nghiệp bằng cách phối hợp với các địa
phương tạo cơ sở cho doanh nghiệp xúc tiến, chủ lực vẫn là doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự
tích hợp giữa địa phương và đơn vị hỗ trợ không đồng bộ, biểu hiện ở chỗ khi kết thúc
gian hàng người dân không biết tìm mua hàng ở đâu, kết nối với doanh nghiệp bằng cách
nào.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI HÀNG MAY MẶC VIỆT NAM
3.1. Giải pháp nhằm phát triển thương mại hàng may mặc Việt Nam.
Thứ nhất, nhanh chóng trong công tác hoàn thuế.
Hiện nay, những doanh nghiệp chuyên xuất khẩu dù được hoàn thuế nhưng thời
gian chờ được hoàn thuế lại được thực hiện rất chậmhay không có thu nhập để được miễn
giảm thuế. Vì vậy, cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian hoàn vốn,
giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình đầu tư tái sản xuất.
Phấn đấu đảm bảo tính nhất quán của các chính sách, đặc biệt là chính sách thuế
xuất nhập khẩu có định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong
tính toán hiệu quả kinh doanh.
Thứ hai, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong nước, giảm thiểu sự phụ thuộc
vào nguyên vật liệu nước ngoài, hạn chế tác động tiêu cực của tỷ giá thay đổi.
Khi VNĐ giảm giá, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc thực sự
gặp khó khăn vì đa phần nguyên, phụ liệu của ngành may mặc đều nhập khẩu mà nhập
khẩu với số lượng lớn. Vì vậy cần :
-
-
Chú trọng đầu tư phát triển ngành công nghiệp phụ trợ may mặc nhằm đáp ứng
nhu cầu về nguyên vật liệu cho hoạt động sản xuất hàng may mặc, hạn chế sự phụ
thuộc vào việc nhập khẩu từ các quốc gia khác.
Quy hoạch phát triển các vùng sản xuất nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho
công nghiệp may mặc như các vùng trồng bông, sợi.
Quy hoạch việc xây dựng các khu chế xuất gần với vùng nguyên liệu giúp giảm
chi phí vận chuyển, bảo quản.
Phát triển công nghệ. Điều quan trọng nhất không phải là chọn công nghệ mới
nhất mà là chọn công nghệ phù hợp nhất để sản xuất ra sản phẩm phù hợp đạt tiêu
chuẩn.Cần cải cách và vận dụng tối đa các thiết bị cộng nghệ đang sử dụng trong
nước, giảm việc nhập khẩu các thiết bị công nghệ từ nước ngoài. Đẩy mạnh liên
kết với các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, phòng đào tạo, trung tâm
thông tin tư vấn…để tổ chức ứng dụng các vật liệu hay công nghệ mới.Phát triển
các mặt hàng với sựu kết hợp giữa cơ sở nghiên cứu và thực tế sản xuất để đưa
nhanh nghiên cứu vào sản xuất.
Thứ ba, cải thiện chất lượng nguồn lao động trong ngành may mặc hiện nay
Lao động ngành dệt may nói chung và ngành hàng may mặc nói riêng không đòi
hỏi trình độ quá cao nên ngành dễ thu hút lao động, góp phần không nhỏ vào giải quyết
công ăn việc làm cho người dân. Tuy nhiên trình độ của họ còn rất hạn chế vì vậy các
doanh nghiệp nên mở lớp đào tạo chuyên môn cho người lao động nâng cao tay nghề để
hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao hơn. Đồng thời thường xuyên thi tay nghề
và có những chính sách đãi ngộ cao với những người có trình độ tay nghề cao.
Mặt khác, doanh nghiệp nên có chính sách đầu tư cử cán bộ ra nước ngoài học tập
công tác về thiết kế mẫu mã đào tạo thêm về điều hành quản lí nhằm từng bước nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cao cho doanh nghiệp. Trong quá trình phát huy và sử
dụng nguồn nhân lực, các doanh nghiệp dệt may cần xây dựng một hệ thống chính sách
đồng bộ và toàn diện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát huy những năng lực
sáng tạo, ý thức trách nhiệm cao của người lao động và của những người làm công tác
quản lý trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tổ chức tốt việc tuyển dụng, đảm bảo chất
lượng, ngoài chính sách tuyển dụng cần có chế độ đãi ngộ thù lao và đào tạo thích hợp
với từng đối tượng.
Thứ tư, tăng cường công tác tiếp cận với người tiêu dùng tại nông thôn
-
-
-
Đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động người tiêu dùng, nhất là những nơi có trình
độ văn hóa thấp để biết, hiểu và tiến tới đánh giá đúng chất lượng sản phẩm, cũng
như khuyến khích tiêu dùng hàng Việt Nam. Tổ chức đa dạng hóa các cuộc tuyên
truyền bằng các hình thức khác nhau với nội dung phù hợp tại các địa điểm công
cộng.
Nhà nước cần có những hỗ trợ hơn nữa đối với những doanh nghiệp tham gia vào
gian hàng, hội chợ đưa hàng về nông thôn bởi doanh nghiệp nước ta chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hệ thống phân phối về
các địa phương, để người dân tiếp xúc được liên tục với các doanh nghiệp, với
hàng Việt.
Xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài kết hợp trên cơ sở chương trình
Marketing, xúc tiến giới thiệu và phân phối sản phẩm đồng nhất nhằm xây dựng
mối quan hệ lâu dài với khách hàng và định hướng ổn định trong tâm trí khách
hang, đặc biệt là khách hàng nội địa.
3.2. Kiến nghị tới các bộ, ban, ngành nhằm phát triển thương mại hàng may mặc
Việt Nam.
Thứ nhất, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện giúp các doanh
nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, giúp các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục tình
trạng thua lỗ, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất.
Thứ hai, cần triển khai công tác đào tạo nguồn lao động chất lượng cao cho ngành
may mặc như các chính sách khuyến khích, hỗ trợ , thu hút các sinh viên có khả năng
theo học ngành dệt may, thiết kế, khắc phục tình trạng thiếu lao động có trình độ cao
trong ngành hàng may mặc.
Thứ ba, Bộ Công thương nghiên cứu và xây dựng những kế hoạch gắn với cuộc
vận động. Đề nghị những Ban chỉ đạo cuộc vận động chưa có kế hoạch cụ thể thì phải
nhanh chóng thực hiện những kế hoạch triển khai cụ thể cho chương trình “Đưa hàng về
nông thôn”, những nơi có kế hoạch thì phải xem xét lại cho phù hợp, kế hoạch phải có
tính toàn diện, rộng khắp, mang tính đồng bộ
Thứ tư, Cơ quan xúc tiến thương mại và các địa phương phải có sự tích hợp đồng
bộ kế hoạch để hạn chế khó khăn cho doanh nghiệp khi tham gia và hội chợ. Từ đó,
người dân có khả năng kết nối với các doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Các chính sách mà Nhà nước đã ban hành có ảnh hưởng ít nhiều đến việc phst
triển thương mại hàng may mặc, đồng thời có những chính sách tác động trực tiếp nhằm
thực hiện mục tiêu phát triển thương mại hàng may mặc của Việt Nam đã đạt được kết
quả nhất định. Chính sách tỷ giá đã góp phần tác động và cải thiện cấn cân thanh toán
trong xuất nhập khẩu hàng dệt may. Chính sách thuế tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp
sản xuất hàng may mặc xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Tác động trực tiếp đến nguồn lao
động trong ngành là các chính sách nguồn nhân lực, hiệu quả mang lại từ các chính sách
này cả người lao động và doanh nghiệp sử dung lao động đều được hưởng trong bối cảnh
kinh tế khó khăn, các chính sách hỗ trợ và quan tâm từ các cơ quan ban ngành danh cho
người lao động là rất quan trọng và cần thiết. Với chính sách đưa hàng về nông thôn tiêu
thụ, góp phần giới thiệu các sản phẩm may mặc tới người tiêu dùng nông thôn, thúc đẩy
tiêu thụ nội địamạnh hơn nữa.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, không ít các chính sách vẫn còn xuất hiện
những hạn chế nhất định. Chính sách thuế và tỷ giá tác động đến sản xuất của các doanh
nghiệp sản xuất hàng may mặc, khó khăn là khâu nhập khẩu nguyên phụ liệu vì các
doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung nước ngoài. Chính sách nhân lực chú
trọng đầu tư thu hút lao động về ngành mà chưa có nhiều chính sách đẩy mạnh đào tạo
nguồn nhân lực hiện tại của ngành. Việc thực hiện chính sách phát triển thương mại may
mặc ở thị trường nông thôn mới chỉ dừng lại ở bề nổi mà thiếu chiều sâu.
Trước những hạn chế trên cần có những giải pháp cùng kiến nghị với các bộ ban
ngành nhằm mục tiêu phát triển thương mại hàng may mặc như: cải thiện công tác thuế,
phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong nước, tăng cường công tác tiếp cận với người
tiêu dùng tại nông thôn, tăng cường công tác hỗ trợ doanh nghiệp may mặc về vấn đề
nhân lực chất lượng cao, thực hiện kế hoạch “đưa hàng về nông thôn” từ phía Nhà nước,
Bộ Công thương, cơ quan xúc tiến thương mại các địa phương.
Các chính sách phát triển thương mại hàng may mặc trong thời gian vừa qua đã
đạt được thành tựu song vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Bởi vậy, các chính sách
phát triền ngành dệt may nói chung và phát triển thương mại hàng may mặc nói riêng
trong tương lai cần có định hướng rõ ràng hơn, kết hợp phát huy nội lực và sử dụng ngoại
lực tạo ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may mặc của Việt Nam trong thị
trường nội địa và thế giới.