Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Pháp luật phong kiến Trung quốc có sự kết hợp của Đức trị và Pháp trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.13 KB, 7 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Khái quát về Nho giáo
1. Quá trình hình thành và phát triển
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
II. Pháp luật phong kiến trung quốc là pháp luật Nho giao
1. Luật pháp phong kiến Trung quốc kết hợp giữa Lễ và Hình
2. Pháp luật phong kiến Trung quốc có sự kết hợp của Đức trị và
Pháp trị
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
2
2
2
2
3
4
4
5
6
7

1|Page



MỞ ĐẦU
Nhà nước ra đời là sự đánh dấu một bước phát triển to lớn trong lịch sử loài
người. Lần đầu tiên nguyên tắc bình đẳng trong xã hội nguyên thủy bị phá vỡ, nhà
nước đã hình thành và đưa con người tiến tới một xã hội văn minh, tiến bộ hơn.
Khi nhà nước ra đời kéo theo sự ra đời của pháp luật – công cụ để giai cấp thống
trị quả lý xã hội. Mỗi xã hội đều có hệ thống pháp luật đặc trưng riêng, gắn liền với
lợi ích của giai cấp thống trị. So với pháp luật trung cổ phương Đông, luật pháp
phong kiến Trung Quốc tương đối phát triển và có nhiều nét đặc trưng riêng. Một
trong những đặc trưng nổi bật nhất của pháp luật phong kiến Trung quốc là pháp
luật phong kiến Trung Quốc mang đậm tư tương của Nho giao. Sau đây em xin cho
đề tài “ Chứng minh pháp luật phong kiến Trung Quốc là pháp luật Nho giáo ”.

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về Nho Giáo
1. Qúa trình hình thành và pháp triển
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử ( 551-479 TCN ) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích
cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người
sáng lập ra Nho giáo.
Thời Xuân Thu, Đức Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục
kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh
Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi
là Ngũ kinh. Sau khi Đức Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để
soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi
là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử
là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến
Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách
Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn
gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".

2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
2|Page


Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho
được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân: cai trị, quân
tử: người cai trị). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào
tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải
"hành đạo" (hành động theo đạo lý).
Tu thân: Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
- Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo
vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung),
tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là
"ngũ luân" (luân: thứ bậc, đạo cư xử). Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung
dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan
hệ quan trọng nhất được gọi là "tam thường": "quân thần, phụ tử, phu phụ". Và
cách ứng xử không còn trung dung nữa mà là mối quan hệ một chiều, đó là: "trung,
hiếu, tiết nghĩa". Tôi phải tuyệt đối phục tùng vua, con phải tuyệt đối phục tùng
cha, vợ phải tuyệt đối phục tùng chồng. Mối quan hệ đó được thể hiện: "Vua bảo
tôi chết, tôi không chết là tôi bất trung; cha bảo con chết, con không chết là con
bất hiếu" (quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất
hiếu). Còn trách nhiệm của vợ đối với chồng thì được diễn đạt bằng ba công thức
được gọi là "tam tòng": "ở nhà theo cha, lấy chống theo chồng, chồng chết theo
con trai" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử).
- Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói:
"Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn,
người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau,
Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa,

lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín". Năm đức này còn gọi là "ngũ thường".
- Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người
quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một
vốn văn hóa toàn diện.
3|Page


Hành đạo:Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan,
làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến
lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim
chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương
châm:
- Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người
và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng
Tử nói: "Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ).
Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không
có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận
ngữ).
- Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận,
lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề
Cảnh Công: "Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,
chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và
đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.Quân tử ban
đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên,
sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền.
Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân

(như dân thường).
II. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là pháp luật Nho Giáo.
1. Luật pháp phong kiến Trung Quốc kết hợp giữa Lễ và Hình.
Lễ là nguyên tắc xử sự của con người thuộc các đẳng cấp khác nhau trong
các quan hệ xã hội. Lễ là nội dung trọng tâm của Nho giáo. Lễ giáo phong kiến xác
lập và củng cố tam cương, ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội, quan hệ vua – tôi,
quan hệ cha mẹ - con cái, quan hệ chồng – vợ. Đó là trật tự của xã hội phong
kiến.Hình là hình phạt, hay nói rộng ra pháp luật.
Từ thời nhà Hán trở đi, sự kết hợp giữa lễ giáo và hình luật ngày càng thể
hiện nổi bật, trở thành tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến, trong việc xây
4|Page


dựng và thực thi pháp luật. Hán Vũ Đế chủ trương “ bãi truất bách gia, độc tôn
nho giao ”. Theo đó việc chế định pháp luật cũng như việc thực hiện pháp luật đều
lấy những nguyên tắc lễ nghĩa của Nho giáo làm sự chủ đạo. Trong mối quan hệ
giữa lễ và hình thì hình dung các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự
cưỡng chế của hình để duy trì. Nguên tắc lễ nghĩa của Nho giáo dùng để giải thích
pháp luật và được dùng vào cả việc phán xét. Đó là sự Nho giáo hóa các quy phạm
pháp luật.
Tam cương là nội dung cơ bản của trong giáo lý của đạo Nho và được pháp
luật bảo vệ bằng 10 trọng tội ( thập ác ). Trong đó các tội trái với đạo hiếu có 6 tội
( ác nghịch, bất đạo, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nổi loạn ). Các tội bất trung với
hoàng quyền phong kiến co 4 tội ( mưu phản quốc, mưu đại nghịch, mưu phản
loạn, đại bất kính ). Trong quan hệ hôn nhân, theo giáo lý Nho giáo và cũng là theo
luật pháp quy định, người chồng có quyền li dị vợ nếu người vợ chỉ cần phạm một
trong 7 điều sơ suất ( thất suất ): không con, dâm dật, không phụng sự cha mẹ
chồng, miệng lưỡi nói lung tung, trộm cắp, ghen tuông, ác tật. Luật pháp từ thời
Hán đến thời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều “ nhất chuẩn hồ lễ ” ( chỉ
lấy lễ làm chuẩn ). Hay nói cách khác luật pháp luật luôn luôn củng cố và bảo vệ lễ

giáo phong kiến, trật tự đẳng cấp của xã hội phong kiến, chính thể quân chủ
chuyên chế phong kiến.
2. Pháp luật phong kiến Trung Quốc có sự kết hợp đức trị với pháp trị
Hai quan điểm đối lập đã từng tồn tại dai dẳng trong xã hội phong kiến
Trung Quốc: quan điểm Pháp trị của Pháp gia và quan điểm Đức trị của Nho gia.
Đó là việc nên dùng pháp luật mà trừng trị? Hay dùng đạo đức mà giáo dục?
Nho gia chủ trương lấy đạo đức để răn dạy con người, từ đó ổn định xã hội,
gữi vũng trật tự phong kiến. Đạo đức ở đây là đạo đức Nho giáo. Trong khi đó
Pháp gia chủ trương đề cao vai trò của pháp luật dùng pháp luật để cai trị, để củng
cố quyền lực của chính quyền trung ương, thiết lập chế độ quân chủ tập quyền
chuyên chế.
Ở thời Xuân Thu, chủ yếu dùng pháp luật để cai trị. chính sách của những
ông vua thời Ngũ bá thiết, thưởng phạt phân minh, đưa đân vào cuộc sống có quy
củ. Chính sách đấy đã gạt đạo đức sang một bên. Đến thời Chiến Quốc, nói đến
pháp trị phải nói đến tên tuổi của Thương Ưởng, Hàn Phi, Lý Tư. Đó là những con
5|Page


người đã góp phần rất quan trọng cho nước Tần trở nên cường thịnh và thống nhất
Trung Quốc.
Sau khi nhà Tần sụp đổ và thay thế bằng nhà Hán, Khổng Tử và học thuyết
của Nho gia được phục hồi. Theo Khổng Tử, pháp luật chỉ khiến cho con người ta
vì sợ mà không dấm làm điều ác. Khi có thể dấu, khi có thể tránh được sự trừng
phạt thì những kẻ xấu vẫn làm điều ác. Đức trị thì khác, khi quyền lợi của giai cấp
phong kiến biến thành quyền lợi của dân, nghĩa là thành hành vi tự nguyện của
dân, thì họ sẽ không phạm tội nữa. Không phải vì sợ pháp luật mà vì sợ xấu hổ
trước người khác, vì sợ bị cắn rứt lương tâm của mình. Đức trị còn được bổ sung
thêm bằng lễ trị. Theo Khổng Tử đạo đức được củng cố bằng những nghi thức và
những quy tắc trong đời sống. Cách ăn mặc, nói năng, chào hỏi... đều đươc quy
định một cách tỉ mỉ. Thái độ của bề tôi đối với vua, của con cái đối với cha me, của

vợ đối với chồng đều được xác định rõ ràng. Lễ trị là biện pháp chặt chẽ để thực
hiện Đức trị. Vi phạm các nguyên tắc của cái gọi là lễ đó sẽ bị gia đình xỉ vả, xã
hội lên án, nhà nước trừng trị. Từ nhà Hán trở đi, trong suốt quá trình tồn tại của
chế độ phong kiến, tư tưởng Đức trị giữ vai trò chủ đạo, xuyên suốt trong pháp luật
phong kiên Trung Quốc.

KẾT LUẬN
Nho giáo – mà nhà người phát khởi phát là Khổng tử là có vị trí quan trọng
hơn hết trong lịch sử phát triển của Trung Quốc và nhiều quốc gia Châu Á. Trong
thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc ảnh hưởng của Nho Giáo đến bộ máy nhà nước
cũng như pháp luật là vô cùng to lớn. Bởi vậy có thể nói pháp luật phong kiến
Trung Quốc là “pháp luật Nho Giáo”.

6|Page


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trương Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế
giới, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp
luật thế giới, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 1997.
Nguyễn Gia Phú ( chủ biên ), Lịch sử thế giới trung đại, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2006.

7|Page



×