1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển kinh tế- xã hội của khu vực
và toàn cầu, đã đặt ra những yêu cầu mới trong việc giáo dục – đào tạo thế
hệ trẻ. Đó là đòi hỏi thể hệ trẻ có những năng lực phù hợp với tiêu chuẩn mà
UNESCO nêu ra: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để
khẳng định mình”. Trước yêu cầu đó, bộ môn Lịch sử với nhiệm vụ đặc
trưng của mình đã tạo ra những năng lực chủ yếu nhằm đáp ứng mục tiêu
giáo dục và phát triển con người trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta.
Để thực hiện tốt mục tiêu của bộ môn, chúng ta cần phải tuân theo
những nguyên tắc của lí luận dạy học. Đó là những quan điểm cơ bản chỉ
đạo mọi hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong quá trình dạy học, có rất
nhiều nguyên tắc cơ bản như: nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức, nguyên tắc
trực quan…Trong đó nguyên tắc liên môn là một nguyên tắc quan trọng,
mang lại nhiều hiệu quả.
Do đặc trưng của Lịch sử là phản ánh toàn diện mọi mặt của đời sống
xã hội loài người từ kinh tế, đến chính trị, văn hóa xã hội. Nên kiến thức lịch
sử có mối liên quan tới tri thức của các bộ môn khoa học xã hội và khoa học
tự nhiên. Mặt khác, ngày nay dưới sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, thông tin liên lạc đã làm cho các khoa học khác nhau có mối liên hệ
chặt chẽ. Chính vì vậy, việc vận dụng tri thức của các bộ môn khác trong
quá trình giảng dạy Lịch sử sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
Ngoài ra, thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay vẫn
phân biệt môn chính, môn phụ, giữa những môn tự nhiên và môn xã hội, coi
lịch sử là môn phụ. Trước tình hình đó, việc việc vận dụng nguyên tắc liên
môn trong dạy học là một điều cần thiết nhằm giúp học sinh nhận thức được
2
rằng các môn học trong trường phổ thông có mối liên hệ mật thiết với nhau,
môn nào cũng có vai trò của mình, từ đó cởi bỏ tâm lí coi nhẹ môn lịch sử.
“Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)” là một trong những chiến
dịch lớn có tính chất quyết định của Việt Nam, được dạy trong chương trình
lớp 12 THPT (Chương trình chuẩn). Quá trình chuẩn bị và diễn biến của
chiến dịch này liên quan tới nhiều vấn đề như: vị trí địa lý, số liệu…Vì vậy,
để nâng cao hiệu quả bài học, giáo viên cần phải sử dụng kết hợp với các tri
thức của môn học khác.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Vận dụng nguyên tắc liên
môn khi dạy học về “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ”, lớp 12, THPT,
chương trình chuẩn” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyên tắc dạy học liên môn trong dạy học nói chung và trong dạy
học lịch sử nói riêng là vấn đề được nhiều nhà giáo dục trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu:
2.1. Tài liệu nước ngoài
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?” (NXB Giáo dụcHà Nội, 1973), N.G. Đairi đã nhấn mạnh: “Phải sử dụng không ngừng và có
hệ thống tất cả mọi nguồn tư liệu muôn hình muôn vẻ”[12-76].
Cuốn “Phương pháp và kĩ thuật lên lớp ở trường phổ thông” (tập
1,NXB Giáo dục, 1975) của tác giả N.M.Iacoplep cũng đề cập đến mối liên
hệ giữa các bộ môn “hệ thống công tác liên hệ hữu cơ giữa các giáo viên các
bộ môn khác nhau- tức là mối liên hệ giữa các bộ môn” [14-35] có vai trò
quan trọng trong quá trình giảng dạy.
Tác giả M.Alechxeep trong cuốn “Phát triển tư duy của học sinh”
(NXB Giáo dục- Hà Nội, 1976) cho rằng: “Việc sử dụng rộng rãi các môn
học như vậy để bồi dưỡng cho học sinh các thủ thuật và phương pháp tư duy
logic, sẽ góp phần thực hiện một trong những yêu cầu quan trọng nhất của lí
3
luận dạy học là xác lập các mối liên hệ chặt chẽ giữa các bộ môn trong dạy
học” [9-100].
Cuốn “Các phương pháp dạy học hiệu quả”( NXB Giáo dục- Hà Nội,
2005) của tác giả Robert J.Marzano, cho rằng nhân tố quan trọng nhất tác
động đến việc học của học sinh là các thầy cô giáo. Trên cơ sở đó, đề ra
phương pháp dạy học, chỉ ra cho giáo viên những cách làm cụ thể để thực
hiện công tác giảng dạy một cách hiệu quả nhất. Trong đó, tác giả đề cập
đến việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học, cần phải “sử dụng
những kiến thức và hiểu biết từ nhiều môn học để đưa ra một giải pháp mới
cho vấn đề đã biết”[17].
2.2. Tài liệu trong nước
Thứ nhất, vấn đề dạy học theo nguyên tắc liên môn được đề cập trong
giáo dục học:
Cuốn “Giáo dục học” (Tập 1, Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, NXB Giáo
dục, 1987) đã đưa ra các phương hương hoàn thiện nội dung dạy học, trong
đó có nhấn mạnh về việc: “tăng cường mối liên hệ giữa các môn học” [15200].
Tài liệu này là một trong những cơ sở lí luận quan trọng của đề tài.
Thứ hai, Các công trình về phương pháp dạy học lịch sử:
Giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” (tập 2, NXB Đại học sư
phạm, 2010) do GS. Phan Ngọc Liên chủ biên cho rằng: “Việc khai thác nội
dung các kiến thức văn học, triết học, giáo dục công dân trong giờ học lịch
sử là điều cần thiết để tiết kiệm thời gian, tăng hiệu quả chất lượng giáo dục
bộ môn”[6-73].
Vần đề dạy học theo nguyên tắc liên môn cũng được đề cập trong các
bài viết, tạp chí như: “Dạy học theo quan điểm liên môn” trong Nghiên cứu
Giáo dục số 10/1986. “Vấn đề quan hệ giữa lịch sử và địa lý trong chương
trình giáo dục môn lịch sử” của Bùi Quý Lộ, Nghiên cứu lịch sử số 3/1993,
Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 12/1999 của Trần Viết Thụ với bài viết:
4
“Vận dụng nguyên tắc liên môn khi dạy học các vấn đề văn hóa trong sách
giáo khoa lịch sử PTTH”…
Liên quan gần nhất đến đề tài là khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành
phương pháp dạy học lịch sử: “Sử dụng kiến thức văn học, địa lý, chính trị
trong giờ học lịch sử ở trường phổ thông trung học theo nguyên tắc liên
môn” của Phạm Văn Thiên, năm 1989. Ngoài ra còn có một số luận văn
khác như: “Sử dụng tài liệu văn học để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử
trong dạy học chương II “Khái quát tiến trình lịch sử Việt Nam từ giữa thế
kỉ XIX đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất” của Đậu Thị Hải Vân, năm
2003; “Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học chương II “Việt Nam từ thế kỉ
X đến thế kỉ XV” SGK lịch sử lớp 10” của Đinh Thị Thu Hương, năm
2007…
Nhìn chung, các công trình trên đều đề cập đến vấn đề vận dụng
nguyên tắc liên môn trong dạy học ở những mức độ và hình thức khác
nhau.Tuy nhiên chưa có một đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy,
chúng tôi chọn vấn đề “vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học “Chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ” làm đề tài nghiên cứu của mình, dựa trên sự vận
dụng những thành tựu khoa học đã có từ những công trình nghiên cứu trên.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Quá trình dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12, THPT, theo
nguyên tắc liên môn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Tìm hiểu nguyên tắc liên môn trong
dạy học lịch sử. Khảo sát, điều tra thực trạng dạy học lịch sử ở trường phổ
thông về các phương pháp dạy học, hiệu quả dạy học. Đề xuất phương pháp
và vận dụng nguyên tắc liên môn vào dạy học bài “Chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ”.
- Phạm vi nghiên cứu: Đưa ra phương pháp và sử dụng nguyên tắc
liên môn trong dạy học lịch sử. Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên
chúng tôi chỉ đi sâu phân tích bài “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ”,chỉ
5
giới hạn trong giờ học nội khóa, thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Ân
Thi (Hưng Yên).
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về nhận thức, về giáo dục
và lịch sử.
* Phương pháp nghiên cứu: Ngoài hai phương pháp chủ yếu là
phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, đề tài còn sử dụng một số
phương pháp khác như: điều tra thực tiễn, phương pháp nghiên cứu tài liệu,
phương pháp so sánh, khái quát, tổng hợp…
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm phong phú hơn lý luận về nguyên tắc dạy học
theo nguyên tắc liên môn. Đề xuất các biện pháp để sử dụng hiệu quả
nguyên tắc này, nhằm nâng cao hiệu quả bài học.
6. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
của đề tài được chia thành 2 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc
liên môn trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Chương 2: Vận dụng nguyên tắc liên môn khi dạy học về Chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ, lớp 12, THPT, chương trình chuẩn.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG NGUYÊN
TẮC LIÊN MÔN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
THPT
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Quan niệm “Nguyên tắc liên môn”
Dạy học tích hợp và dạy học liên môn về cơ bản là những nguyên tắc
dạy học hiện đại nhằm kết hợp các kiến thức của những môn khoa học có
6
liên quan để phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học.
Mặc dù hai thuật ngữ “liên môn” và “tích hợp” có mối liên hệ gần gũi nhưng
lại là hai quan điểm dạy học khác nhau.
Thứ nhất, một số quan niệm về “liên môn” và “dạy học liên môn”
Đối với thuật ngữ “liên môn”, có nhiều bài viết nghiên cứu về quan
điểm liên môn trong dạy học với những ý kiến khác nhau.
PTS. Trần Đức Minh trong bài viết “Vận dụng quan điểm liên môn một yếu tố nâng cao tính tích cực học tập của học sinh” cho rằng: Liên môn
là quan điểm sử dụng “mối liên hệ giữa các môn học”, được coi như là một
trong những điều kiện quan trọng của việc “hoàn thiện quá trình giảng dạy,
nâng cao hiệu quả quá trình dạy học”, sử dụng liên môn là “con đường tích
hợp những nội dung từ một số môn học đưa vào nội dung của một môn học
khác, nhằm tăng cường tính tích cực của học sinh”[12-12]
“Nội dung cơ bản của nguyên tắc liên môn trong dạy học lịch sử là
việc vận dụng kiến thức các môn học có kiên quan đến LS để hiểu sâu sắc,
toàn diện kiến thức lịch sử”[3]
Về phương diện dạy học, Theo Nguyễn Quang Vinh “dạy học theo
quan điểm liên môn có ba mức độ: ở mức độ thấp, giáo viên nhắc lại tài liệu,
sự kiện, kĩ năng các môn có liên quan, cao hơn đòi hỏi học sinh nhớ lại và
vận dụng kiến thức đã học của các môn học khác, và cao nhất đòi hỏi học
sinh phải độc lập giải quyết các bài toán nhận thức bằng vốn kiến thức đã
biết, huy động các môn có liên quan theo phương pháp nghiên cứu”[21]
Như vậy, liên môn nghĩa là hình thức tìm tòi những nội dung giao
thoa giữa các môn học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung
giữa các môn học.
7
Thứ hai, “liên môn” có mối quan hệ gần gũi với “tích hợp”, nhưng
đây lại là hai quan điểm dạy học khác nhau.
“Tích hợp” là một quan điểm hiện đại trong giáo dục, theo quan điểm
của các nhà nghiên cứu Văn học, tích hợp “là phương pháp nhằm phối hợp
một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ, các môn học, phân môn, hình
thức, mô hình cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục đích và
yêu cầu cụ thể khác nhau” [7- 6]
Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Đường : “Tích hợp là sự kết hợp quan điểm
liên môn và xuyên môn” [Tích hợp trong dạy học Ngữ văn, Tạp chí Giáo
dục số 46, năm 2002]
Qua những khái niệm trên, ta có thể thấy được mối liên quan giữa hai
quan điểm “tích hợp” và “liên môn” trong quá trình dạy học. Hai nguyên tắc
này cùng được thực hiện dựa trên phương pháp kết hợp những yếu tố liên
quan giữa các bộ môn với nhau, nhằm đạt được hiệu quả dạy học. Tuy
nhiên, liên môn mang nghĩa hẹp hơn, chỉ là sự kết hợp kiến thức của các
môn học. Ví dụ như kết hợp kiến thức của các môn Văn học, Địa lí, Giáo
dục công dân để làm sáng tỏ vấn đề của môn Lịch sử. Còn tích hợp, không
chỉ bao gồm hình thức liên môn nói trên, mà còn là sự kết hợp giữa những
nội dung trong cùng một môn học. Ví dụ: Kết hợp kiến thức của Lịch sử thế
giới để làm rõ vấn đề của lịch sử Việt Nam, hay tích hợp 3 bộ phận của môn
Văn học (Làm văn, Tiếng Việt, Tác phẩm văn học) để nâng cao hiệu quả
môn Văn học.
Tóm lại, vận dụng nguyên tắc liên môn trong quá trình dạy học nghĩa
là việc sử dụng tri thức của những bộ môn có liên quan để hiểu sâu sắc hơn
về bộ môn cụ thể mà giáo viên đang dạy. Tức là con đường tích hợp những
8
nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau. Nói cách khác, liên môn là
sự tích hợp được thực hiện ở mức độ thấp . Trong quá trình dạy học, chúng
ta cần phân biệt rõ ràng hai thuật ngữ này.
Việc dạy học theo nguyên tắc liên môn đòi hỏi giáo viên không chỉ có
kiến thức vững chắc về bộ môn mà còn phải nắm vững nội dung, chương
trình các bộ môn được giảng dạy ở trường phổ thông, trước hết là văn học,
địa lí, giáo dục công dân. Bên cạnh đó, học sinh có vai trò tích cực, chủ động
trong việc học tập theo nguyên tắc liên môn, vì ở đây các em huy động
những kiến thức đã học để hiểu biết sâu sắc, toàn diện một cách sự kiện. Các
em được cũng cố, ôn tập, tổng hợp các kiến thức ở mức cao hơn và biết vận
dụng thông minh vào học tập.
1.1.2. Ý nghĩa của việc dạy học theo nguyên tắc liên môn
Nguyên tắc liên môn là một trong những nguyên tắc dạy học chiếm
một vị trí quan trong trong quá trình dạy học lịch sử. Việc vận dụng nguyên
tắc liên môn có ý nghĩa trên ba mặt: kiến thức, thái độ, kĩ năng.
a. Về kiến thức
Việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học các khóa trình lịch
sử dân tộc và thế giới từ cổ đại đến hiện đại làm cho học sinh hiểu rõ sự phát
triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất, nhận thấy mối liên hệ giữa các
lĩnh vực của đời sống xã hội, tính toàn diện của lịch sử. Do đặc trưng của
việc học tập lịch sử là không thể trực tiếp quan sát qua các thí nghiệm, nên
việc vận dụng kiến thức của cá môn học khác sẽ góp phần nhất định vào
việc khôi phục, tái hiện lại hình ảnh quá khứ, cụ thể hóa các sự kiện, hiện
tượng lịch sử đang học.
Ví dụ, khi dạy về “Tình cảnh nhân dân Việt Nam dưới hai tầng áp bức
của đế quốc Pháp và phát xít Nhật”, giáo viên có thể sử dụng các đoạn trích
9
về cuộc sống tối tăm, cùng cực của “anh Pha”, “chị Dậu” trong các tác phẩm
“Bước đường cùng”, “Tắt đèn” mà học sinh đã được học. Qua đó, học sinh
sẽ có biểu tượng rõ ràng cụ thể về số phận, tình cảnh người dân bị mất nước.
Kiến thức của các bộ môn Văn học, Địa Lý, Chính trị…sẽ là căn cứ
khoa học, là bằng chứng về tính chính xác, cụ thể , phong phú của sự kiện
lịch sử mà học sinh cần tiếp nhận.
Ví dụ: Khi dạy về “Phong trào văn hóa phục hưng” trong lịch sử lớp
10, giáo viên có thể kết hợp sử dụng kiến thức hội họa với bức tranh “Người
làm vườn xinh đẹp” của Rafael. Bức tranh diễn tả một khung cảnh đời
thường - cô gái săn sóc các em bé, như chăm bón cho cây non trong vườn
cây tràn đầy sức sống. Những hình ảnh rất thân thương, rất đời thường lại
mang hình ảnh rất tôn nghiêm. Bức tranh sẽ là dẫn chứng xác thực để phản
ánh đặc điểm của văn hóa phục hưng là hướng về tôn giáo, hướng về chúa,
song điều nổi bật là tình mẹ con, tình người đẹp đẽ.
Trong học tập lịch sử ở trường phổ thông, sách giáo khoa lịch sử là tài
liệu giảng dạy và học tập chủ yếu của giáo viên, học sinh. Tuy nhiên, giáo
viên không thể chỉ sử dụng những kiến thức trong sách giáo khoa mà phải
kết hợp sử dụng những kiến thức của bộ môn khác nhằm xây dựng một bài
giảng phong phú, đầy thuyết phục đối với học sinh. Vì vậy, dạy học theo
nguyên tắc liên môn còn giúp học sinh khắc sâu được những kiến thức lịch
sử cơ bản, giúp cụ thể hóa các sự kiện lịch sử, làm cho học sinh nắm kiến
thức một cách sâu sắc hơn. Từ đó học sinh hiểu được bản chất của sự kiện,
hiện tượng lịch sử, có được những biểu tượng chân thực và sinh động.
Ví dụ, khi dạy phần “Cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975”,
giáo viên cần vận dụng kiến thức của môn Địa lí, sử dụng bản đồ địa lí tự
nhiên Việt Nam để xác định vị trí của Tây Nguyên nhằm giải thích tầm quan
trọng chiến lược của Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, học sinh sẽ hiểu được vì
10
sao Đảng ta lựa chọn Tây Nguyên là nơi mở đầu cuộc tiến công và nổi dậy
1975. Như vậy, học sinh không những có cái nhìn sâu sắc về sự kiện lịch sử
mà còn hiểu được bản chất của sự kiện.
Như vậy, việc sử dụng kết hợp kiến thức của các môn học trong dạy
học lịch sử sẽ góp phần nhất định và việc tái hiện kiến thức lịch sử cho học
sinh, trở thành nguồn dẫn chứng, minh họa cho các sự kiện mà giáo viên
đang trình bày, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn bản chất của sự kiện lịch sử.
b, Về tư tưởng, tình cảm
Trong quá trình dạy học lịch sử, nguyên tắc liên môn không chỉ có ý
nghĩa về mặt giáo dưỡng mà còn có ý nghĩa về mặt giáo dục. Nguyên tắc
liên môn sẽ “tạo điều kiện cho học sinh để hình thành được bức tranh hoàn
chỉnh về thế giới, phát triển về các mặt trí tuệ, đạo đức, thể chất…một cách
hài hòa”[15 - 222]
Kiến thức của các bộ môn khác không chỉ góp phần tạo cho học sinh
biểu tượng toàn diện về sự kiện lịch sử mà còn có tác động mạnh mẽ đến tư
tưởng tình cảm của học sinh. Hình thành cho học sinh lòng yêu kính đối với
những anh hùng dân tộc, tự hào với những chiến công của họ, từ đó nảy sinh
hứng thú trong học tập và trách nhiệm xây dựng bảo vệ đất nước.
Ví dụ: Việc sử dụng tri thức của Văn học trong giảng dạy lịch sử.
Không ít tác phẩm văn học vừa có giá trị văn học vừa mang tính chất của
một tư liệu lịch sử như Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo. Khi dạy phần
“Cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Nguyên ở thế kỷ XIII”, để tạo
cho học sinh biểu tượng về anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, giáo viên có
thể sử dụng đoạn trích trong tác phẩm Hịch tướng sĩ: “Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức
chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này
phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng yên lòng”. Qua
11
đó, học sinh sẽ thấy được quyết tâm, nung nấu muốn đánh đuổi giặc của
Trần Quốc Tuấn.
Việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học giúp học sinh nhận
thức được bản chất của sự kiện lịch sử, qua đó hình thành tư tưởng tình cảm
đúng đắn cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài 35 “Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành
trướng thuộc địa”, lịch sử lớp 10, giáo viên có thể sử dụng các kiến thức
Giáo dục công dân như: những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin
về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc (sản xuất hàng hóa, sự ra đời của
chủ nghĩa tư bản, quá trình tập trung tư bản, chủ nghĩa đế quốc và địa vị của
nó trong lịch sử…). Từ đó, giáo viên sẽ giúp học sinh nâng cao nhận thức về
bản chất của chủ nghĩa đế quốc, ý thức cảnh giác cách mạng, hình thành tư
tưởng đấu tranh chống các thế lực gây chiến, bảo vệ hòa bình.
Ngoài ra, việc vận dụng nguyên tắc liên môn còn hình thành cho học
sinh thái độ kiên định, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn chống thức dân Pháp và đế quốc
Mĩ, giáo viên cần thiết phải sử dụng những kiến thức về địa lí, chính trị để
chứng minh cho học sinh thấy được sự lãnh đạo đúng đắn và tài tình của
Đảng và Nhà nước.
Ví dụ: Khi dạy về “Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950”, giáo
viên có thể sử dụng bản đồ địa lý để chỉ cho học sinh thấy được vị trí của
Đông Khê (nằm trên đường số 4, ở giữa Cao Bằng và Thất Khê…). Quan sát
trên bản đồ, học sinh sẽ hiểu được vì sao Đảng và Chính phủ lại chọn Đông
Khê là nơi diễn ra trận đánh mở đầu của chiến dịch. Từ đó, khơi dậy niềm
tin của học sinh về cá chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
12
Như vậy, việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học lịch sử
không chỉ giúp cho học sinh nắm vững, hiểu sâu kiến thức cơ bản mà còn
góp phần giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cho các em trong quá trình
học tập,
c, Phát triển
Vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học lịch sử nghĩa là sử dụng
tri thức các môn học khác để làm sáng tỏ vấn đề lịch sử. Việc nắm vững
được mối liên hệ giữa kiến thức các môn học sẽ giúp học sinh hình thành
khả năng phân tích sự kiện, tìm ra bản chất, quy luật chi phối sự phát triển
của lịch sử. Như tác giải M.A. Lêch xeep trong cuốn “Phát triển tư duy học
sinh” đã nhận định : “Việc sử dụng rộng rãi các môn học để bồi dưỡng cho
học sinh các thủ thuật và phương pháp tư duy logic” [9- 35].
Thông qua kiến thức của các bộ môn Văn học, Hội họa, Chính trị…
mà giáo viên đưa ra, học sinh sẽ phải huy động các năng lực nhận thức: trí
tưởng tượng, trí nhớ…Sau đó vận dụng tư duy phân tích, so sánh đánh giá,
tổng hợp để rút ra mối liên quan giữa các sự kiện mà các bộ môn khoa học
khác phản ánh với sự kiện lịch sử. Qua đó, phát hiện ra bản chất của sự kiện,
hiện tượng lịch sử.
Ví dụ: Khi giảng về sự kiện Pháp tấn công Gia Định (1859-1861) xâm
chiếm Việt Nam, giáo viên có thể sử dụng bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn
Đình Chiểu để minh họa:
“ Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
13
Mất ổ đàn chim dáo dác bay”
Kiến thức Văn học trên sẽ giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức
của mình về trí tưởng tượng, trí nhớ để khôi phục lại bức tranh về tình cảnh
người dân Việt Nam trước sự xâm lược của thực dân Pháp.
Như vậy, trong dạy học lịch sử, việc sử dụng tri thức của các môn học
khác nhau không chỉ giúp học sinh có cái nhìn toàn diện hơn về bức tranh
quá khứ mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện học
sinh.
Tóm lại, nguyên tắc liên môn là một nguyên tắc dạy học quan trọng
trong quá trình dạy học lịch sử. Cùng với sách giáo khoa lịch sử thì kiến
thức của các bộ môn khác, nếu biết sử dụng hợp lí có chọn lọc thì sẽ đem lại
hiệu quả rất lớn trong dạy học cũng như trong học tập của giáo viên và học
sinh.
1.1.3. Biểu hiện của nguyên tắc liên môn trong DHLS ở trường THPT
Trong quá trình học tập ở nhà trường, học sinh sẽ được học các môn
học bao gồm các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội như: Toán, Lí,
Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa… Tất cả các môn học này đều có mối quan hệ với
nhau.
a, Mối liên hệ giữa kiến thức Văn học với Lịch sử
Giữa Văn học và Lịch sử có điểm tương đồng rất lớn, bởi Văn học
cũng nghiên cứu lịch sử xã hội loài người. Khoa học lịch sử dựa vào những
sự kiện, nhân vật có thực trong một giai đoạn lịch sử nhất định để khôi phục
lại bức tranh quá khứ một cách chân thực khách quan, còn văn học thì dựa
trên những chất liệu cuộc sống, những tư liệu lịch sử để tạo nên hình tượng,
14
nhân vật và cốt truyện. Vì vậy, Văn học và Lịch sử có mối liên hệ trong việc
hỗ trợ kiến thức cho nhau.
Thứ nhất, các tác phẩm văn học có vai trò to lớn đối với việc dạy học
lịch sử ở trường phổ thông.
Kiến thức của bộ môn Văn học sử dụng chủ yếu trong dạy học lịch sử
ở trường phổ thông bao gồm: tài liệu văn học dân gian, tác phẩm văn học ra
đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử…Mỗi loại đều có ý nghĩa khoa học
riêng trong giảng dạy và học tập lịch sử.
- Văn học dân gian góp phần minh họa sự kiện lịch sử, làm cho bài
giảng thêm sinh động, phong phú, góp phần giáo dục tư tưởng đạo đức nói
chung và giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng. Ví dụ: Khi dạy lịch sử lớp
10, bài 18 “Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thể kỉ XXV”, giáo viên có thể sử dụng câu ca dao sau:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”
Câu ca dao này giúp học sinh hiểu thêm về kết quả của những chính
sách chú trọng nông nghiệp của các triều đại phong kiến. Qua đó, bồi dưỡng
niềm tự hào dân tộc trong xây dựng kinh tế.
- Các tác phẩm văn học xuất hiện vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch
sử có ý nghĩa phản ánh trung thực các sự kiện lịch sử, khôi phục hình ảnh
quá khứ một cách chân xác khách quan. Ví dụ như các tác phẩm: Hịch tướng
sĩ của Trần hưng Đạo, Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn độc
lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh…đây đều là những tác phẩm vừa có giá trị
văn học, vừa mang tính chất ý nghĩa của một tư liệu lịch sử, chính trị.
15
Thứ hai, kiến thức của bộ môn lịch sử sẽ góp phần hiểu sâu sắc hơn
về các tác phẩm văn học. Chúng ta phải hiểu hoàn cảnh tác phẩm đó ra đời
như thế nào thì mới có thể hiểu được dụng ý nghệ thuật cũng như nội dung
mà tác giả muốn truyền tải. Ví dụ: Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nó chỉ đơn
giản là kể về số phận của con người. Nhưng nếu đặt trong hoàn cảnh lịch sử,
thì ta mới thấy hết được giá trị mà tác phẩm truyền đạt. Đó là câu chuyện về
cuộc sống cực nhục, tối tăm và quá trình đồng bào các dân tộc vùng cao Tây
Bắc vùng lên tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của bọn thực dân và chúa đất
thống trị.
Như vậy, trên cơ sở mối liên hệ khăng khít giữa văn học và lịch sử,
nên việc sử dụng kiến thức văn học trong giảng dạy lịch sử có ý nghĩa trong
quá trình dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT.
- Mối liên hệ giữa kiến thức Địa lý và Lịch sử
Kiến thức của bộ môn Lịch sử và Địa lý đều cung cấp cho học sinh
những hiểu biết về con người và hoạt động của con người trong những môi
trường hoàn cảnh khác nhau. Lịch sử đi sâu vào việc tìm hiểu những hoạt
động của con người từ nguồn gốc đến nay, còn Địa lí thì nghiên cứu về mối
quan hệ tương tác giữa con người với môi trường xung quanh. Nhìn chung,
giữa Lịch sử và Địa Lí có mối quan hệ gần gũi, có thể hỗ trợ cho nhau trong
quá trình giảng dạy.
Các khóa trình Địa lý cung cấp cho học sinh những hiểu biết về đất
nước, con người từng dân tộc thông qua việc truyền thụ các kiến thức về vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên xã hội, sự phát triển kinh tế của một số quốc gia
tiêu biểu. Ví dụ, Khi dạy về lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc, giáo viên cần
sử dụng kiến thức địa lí để giúp học sinh hiểu được vấn đề: vì sao nhân dân
16
ta lại chống được chính sách đồng hóa của chính quyền phong kiến phương
Bắc? Nguyên nhân sâu sa xuất phát từ điều kiện tự nhiên ở Việt Nam đã ảnh
hưởng đến văn hóa ứng xử và đời sống của nhân dân.
- Mối liến hệ giữa Lịch sử với các môn Khoa học tự nhiên: Toán, Lý,
Hóa
Trong dạy học khóa trình lịch sử cổ đại, giáo viên cung cấp cho học
sinh những kiến thức về sự xuất hiện và hình thành của loài người. Thông
qua các hiện vật, giáo viên chứng minh cho học sinh thấy được tổ tiên của
loài người xuất hiện ở đâu? Phát triển như thế nào? Tuy nhiên, để học sinh
hiểu sâu sắc hơn, giáo viên cần sử dụng đến kiến thức của môn Vật lý và
Hóa học. Giúp học sinh hiểu rằng bằng phương pháp phóng xạ cac bon, các
nhà khoa học đã giúp xác định niên đại các di vật cổ xưa, còn Hóa Học giúp
bảo quản các tài liệu thành văn, giúp cho thế hệ về sau có thể tiếp cận và
nghiên cứu lịch sử.
Ngược lại, tri thức lịch sử cũng góp phần hiểu biết về những vấn đề
của khoa học tự nhiên. Bởi lịch sử diễn ra trên mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Bất kì ngành khoa học nào cũng có lịch sử phát triển của mình: Lịch sử Toán
học, Lịch sử Hóa Học, Lịch sử Vật Lí…Các ngành khoa học này đều có
quan hệ chặt chẽ với khoa học lịch sử trong việc tìm hiểu lịch sử của mình.
Khi tìm hiểu lịch sử các khoa học, phải tìm hiểu điều kiện, bối cảnh lịch sử
phát sinh, phát triển của ngành khoa học, cũng như tác động của ngành khoa
học đó đối với sự phát triển của xã hội nói chung. Vì vậy, lịch sử không chỉ
cung cấp nguồn tư liệu phong phú cho các bộ môn khoa học khác mà còn
làm sáng tỏ bối cảnh lịch sử của các sự kiện. hiện tượng- đối tượng nghiên
cứu của các khoa học.
17
- Ngoài ra, bộ môn lịch sử còn có mối liên hệ với các môn học khác:
Giáo dục công dân, Âm nhạc, hội họa..
+ Với môn Giáo dục công dân: Hiện nay, trong công tác sử học nói
chung, việc giảng dạy lịch sử nói riêng chúng ta đều dựa theo quan điểm, lập
trường của chủ nghĩa Mác- Lênin. Vì vậy những lí luận của chủ nghĩa MácLê nin được giảng dạy từ môn Giáo dục công dân là cơ sở vững chắc cho
việc dạy học lịch sử. Ngược lại, các sự kiện lịch sử cũng là cơ sở thực tế để
học sinh nắm các kiến thức lí luận của bộ môn Giáo dục công dân.
Chẳng hạn, để giúp học sinh hiểu các sự kiện nói chung và kinh tế,
khoa học, kĩ thuật nói riêng, giáo viên sử dụng kiến thức và một số quy luật
cơ bản của phát triển xã hội từ môn Giáo dục công dân: sự phù hợp của quan
hệ sản xuất, vai trò của quần chúng nhân dân trong việc sáng tạo ra mọi giá
trị tinh thần, vật chất, sự phát triển và thắng lợi tất yếu của cách mạng xã
hội.
Trong dạy học Lịch sử, giáo viên có thể dùng kiến thức ấy để đối
chiếu, so sánh, khái quát hóa kiến thức lịch sử đang học, từ đó phát huy tính
tích cực, chủ động trong học tập của học sinh.
Ví dụ: khi dạy bài “Xã hội nguyên thủy”, sau khi trình bày quá trình
tiến hóa từ vượn thành người, Giáo viên có thể sử dụng kiến thức đang học
để đối chiếu so sánh với những kiến thức đã học ở môn Giáo dục công dân.
Cụ thể: Giáo viên sử dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin ở môn
Giáo dục công dân thay cho kết luận, khái quát trong bài học Lịch sử: Lao
động là nguồn gốc cơ bản đầu tiên của đời sống loài người, lao động sáng
tạo bản thân con người.
18
+ Mối liên hệ với Âm nhạc: Âm nhạc là loại hình nghệ thuật dùng âm
thanh làm phương tiện biểu hiện hình tượng nghệ thuật nhằm phản ánh thế
giới quan, nhân sinh quan, trình độ phát triển đời sống cộng đồng xã hội,
cùng những nét riêng trong đời sống tinh thần của người nghệ sĩ. Vì vậy,
trong lĩnh vực giáo dục học, âm nhạc có một vai trò và vị trí quan trọng đối
với đời sống xã hội, đặc biệt đối với việc nâng cao nhận thức, phát triển
nhân cách con người.
+ Mối liên hệ với Hội họa: Sử dụng kiến thức Hội họa có vai trò quan
trọng trong quá trình dạy học lịch sử, đặc biệt là dạy các phần lịch sử văn
hóa. Nó không những giúp cho bài giảng của giáo viên trở nên sinh động mà
còn bổ sung kiến thức một cách toàn diện cho học sinh, giúp học sinh hiểu
rằng lịch sử không phải chỉ có những cuộc đấu tranh, biểu tình mà lịch sử
còn là những nét về văn hóa, kiến trúc, điêu khắc của các nước. Từ đó tạo
hứng thú học tập ở học sinh.
Ví dụ: Khi dạy mục 1 “Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc”, bài 14, lịch sử
lớp 10. Giáo viên có thể sử dụng tranh dân gian, cụ thể là “tranh đánh vật”.
Giáo viên giới thiệu bức tranh và hướng dẫn học sinh quan sát. Qua đó, học
sinh có thể hình dung được trang phục của người đàn ông thời dựng nước sơ
khai: Cởi trần, đóng khố, đi chân đất. Như vậy, bằng việc sử dụng kiến thức
hội họa, không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức về đời sống văn hóatinh thần của cư dân Văn Lang- Âu Lạc mà còn tạo điều kiện cho học sinh
được tiếp xúc với “tranh Đông Hồ” - nghệ thuật hội họa mang màu sắc của
dân tộc.
Tóm lại, Lịch sử xã hội loài người là một tổng thể thống nhất bao gồm
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Chức năng của bộ môn
19
lịch sử là cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của xã hội
loài người (thế giới và dân tộc), việc nắm vững những sự kiện, quá trình lịch
sử đòi hỏi phải nắm kiến thức liên quan đến khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội. Vì vậy cần thiết phải vận dụng linh hoạt nguyên tắc liên môn trong
dạy học Lịch sử ở trường THPT.
1.1.4. Ưu thế của nguyên tắc liên môn trong dạy học lịch sử ở trường
THPT
Thứ nhất, dạy học theo nguyên tắc liên môn giúp học sinh nắm được
những kiến thức lịch sử một cách toàn diện, hiểu được sự thống nhất và tác
động qua lại giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Lịch sử với đối tượng nghiên cứu là quá trình phát triển của xã hội
loài người. Vì vậy, phải đảm bảo tính toàn diện của lịch sử, tức là phải cung
cấp cho học sinh những sự kiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loại
người (Kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự…). Để làm được điều đó, trong
quá trình dạy lịch sử, giáo viên không chỉ cung cấp kiến thức lịch sử cho học
sinh mà còn phải cung cấp những kiến thức khoa học xã hội và khoa học tự
nhiên có liên quan. Hay nói cách khác, việc vận dụng nguyên tắc liên môn
có ưu thế trong việc cung cấp cho học sinh kiến thức toàn diện về lịch sử.
Thứ hai, dạy học theo nguyên tắc liên môn có tác dụng cụ thể hóa các
sự kiện, hiện tượng đang học, giúp cho bài giảng của giáo viên thêm sinh
động, phong phú, làm cho học sinh dễ tiếp cận một vấn đề lịch sử.
Thứ ba, căn cứ vào tâm lí lứa tuổi, học sinhTHPT là lứa tuổi ham hiểu
biết, có khả năng tích cực chủ động, độc lập trong hoạt động tư duy. Việc
20
vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học sẽ có sức thu hút học sinh, tạo
cho không khí giờ học sôi nổi, sinh động, đạt hiệu quả bài học cao.
Thứ tư, sử dụng nguyên tắc liên môn giúp tiết kiệm được thời gian.
Trong thời đại ngày nay, để hòa nhập được với xu thế công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi HS phải trang bị cho mình một khối lượng kiến
thức rất lớn. Tuy nhiên, với khối lượng kiến thức ngày càng lớn và không
ngừng phát triển, còn thời gian đào tạo trong nhà trường lại có giới hạn. Vậy
làm thế nào để đào tạo được những thế hệ phát triển toàn diện trong khoảng
thời gian cố định ấy? Thực tế cho thấy các bài học Lịch sử có mối liên hệ
với các bộ môn Văn học, Địa lý, Giáo dục công dân… Điều đó là một thuận
lợi cho việc vận dụng kiến thức của môn học này để làm sáng tỏ môn học
kia, đồng thời tiết kiệm thời gian học tập cho học sinh. Chẳng hạn, khi dạy
về “ Cuộc kháng chiến chống quân Minh”, chúng ta có thể lấy dẫn chứng từ
tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” trong sách Văn học . Làm như vậy, học sinh
vừa có được dẫn chứng cụ thể cho sự kiện lịch sử đang học, vừa khắc sâu
được kiến thức văn học, tránh lãng phí thời gian vô ích.
Thứ năm, dạy học lịch sử theo quan điểm liên môn sẽ gây hứng thú
học tập và kích thích sự suy nghĩ có hệ thống của học sinh, giúp học sinh
phát triển tư duy độc lập, chủ động, sáng tạo.
Việc vận dụng nguyên tắc liên môn sẽ tạo điều kiện để học sinh vận
dụng một cách tối đa các kiến thức đã học ở tất cả các môn học và các kiến
thức xã hội để giải quyết một vấn đề dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên. Điều đó sẽ gợi được sự tò mò, tìm hiểu, khám phá của học sinh, lôi
cuốn học sinh vào bài giảng sinh động với nhiều nguồn kiến thức khác nhau
làm cho học sinh trở nên năng động, sáng tạo.
21
Ví dụ, khi dạy bài “Các quốc gia cổ đại Địa trung Hải”, giáo viên sử
dụng kết hợp các kiến thức Địa lí như phân tích bản đồ Địa Trung Hải, cung
cấp cho học sinh những kiến thức về vị trí, địa hình của Địa Trung Hải như:
Các quốc gia cổ đại Địa Trung Hải đều nằm ở ven biển, bị chia cắt bởi nhiều
đảo, đất đai canh tác ít và khô cằn. Với những kiến thức đó, buộc học sinh
phải tư duy suy nghĩ để lí giải vì sao khu vực này có nền kinh tế thủ công
nghiệp và thương nghiệp phát triển hơn các ngành kinh tế khác. Cuối cùng,
HS vận dụng kiến thức đã học từ bài trước và khả năng phân tích của mình
để chỉ ra sự khác biệt về điều kiện tự nhiên là nguyên nhân dẫn đến sự khác
nhau về đặc trưng kinh tế giữa phương Đông và phương Tây.
Như vậy, nguyên tắc liên môn rất có ưu thế trong dạy học lịch sử ở
trường THPT. Không chỉ giúp học sinh nắm được kiến thức lịch sử một cách
toàn diện mà còn giúp cho bài giảng của giáo viên thêm sinh động, tạo cho
không khí giờ học sôi nổi, tiết kiệm được thời gian, đồng thời giúp học sinh
phát triển khả năng tư duy độc lập và tính chủ động, sáng tạo trong học tập
bộ môn.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Để đánh giá chính xác thực trạng của vấn đề dạy học liên môn ở
trường THPT hiện nay, chúng tôi tiến hành điều tra 5 giáo viên( trường
THPT Ân Thi- Hưng Yên) và 130 học sinh khối lớp11, 12 (trường THPT Ân
Thi- Hưng Yên). Trong đó, đối tượng học sinh được chọn để tiến hành điều
tra là các lớp học sinh thuộc ban A, ban B, chỉ có 23% ban C. Kết quả thu
được như sau:
1.2.1. Tích cực
- Về phía giáo viên:
22
Từ lâu, vai trò của bộ môn Lịch sử trong việc giáo dục thế hệ trẻ đã
được thừa nhận là vô cùng to lớn. Vì vậy, hiện nay giáo viên THPT đã rất
tích cực trong việc đổi mới phương pháp, vận dụng dạy học liên môn vào
giảng Lịch sử để nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục. Hơn nữa, tháng
11/2012 Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi “Dạy học theo chủ đề tích
hợp” dành cho giáo viên trung học. Cho nên, quan điểm dạy học theo
nguyên tắc liên môn không còn là vấn đề xa lạ với mỗi giáo viên. Chính vì
vậy, 100% giáo viên được hỏi cho rằng, dạy học theo quan điểm liên môn là
một trong những nguyên tắc dạy học nhằm nâng cao hiệu quả bài học Lịch
sử. Theo đó, đa số giáo viên nhận thấy được ý nghĩa của việc dạy học theo
quan điểm liên môn. 100% giáo viên cho rằng việc vận dụng nguyên tắc liên
môn trong dạy học Lịch Sử sẽ góp phần cung cấp kiến thức cho học sinh
một cách toàn diện, có ý nghĩa giáo dục to lớn, hình thành và phát triển kĩ
năng, phân tích, so sánh, tổng hợp cho học sinh; đồng thời sẽ làm cho giờ
học sôi nổi hơn. Từ đó, 80% giáo viên cho rằng việc vận dụng nguyên tắc
liên môn trong dạy học Lịch sử là cần thiết.
Về thực tiễn việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học Lịch
sử, 100% giáo viên được hỏi đều sử dụng kết hợp với kiến thức của những
môn học khác như: Văn học(100%), Địa Lý (60%). Đây được coi là hai môn
học có mối quan hệ gần gũi nhất đối với kiến thức của bộ môn Lịch Sử. Vì
vậy, việc vận dụng kết hợp với kiến thức của các môn học này trở nên phổ
biến và được áp dụng thường xuyên trong mỗi tiết học.
- Về phía học sinh:
Đa số các em học sinh đều có hứng thú với bộ môn Lịch sử. Trong đó,
100% học sinh thấy hấp dẫn và cuốn hút với các câu chuyện về lịch sử, 60%
học sinh cho rằng việc học lịch sử sẽ hấp dẫn hơn nếu giáo viên liên hệ với
23
những kiến thức của bộ môn học khác( ví dụ: sử dụng thơ văn, kiến thức địa
lí, âm nhạc…), 30% học sinh thấy hấp dẫn nhất khi bài giảng của giáo viên
có sự kết hợp sử dụng tranh ảnh trong mỗi tiết học. Nhiều học sinh còn đưa
ra ý kiến cá nhân của mình về vấn đề này. Chẳng hạn như: học sinh cho rằng
để tạo được sự hấp dẫn trong giờ học lịch sử, giáo viên cần “mở rộng cả
những kiến thức bên ngoài sách giáo khoa” (Lê Thị Luyến- lớp 11A4), hoặc
“Giáo viên không tạo cảm giác chán nản, buồn ngủ, căng thẳng cho học
sinh” (Lê Thị Mừng- Lớp 11A7)…Như vậy, kết quả điều tra này cho thấy đa
số học sinh đều có hứng thú với môn Lịch sử, điều đó là một lợi thế trong
việc truyền thụ kiến thức lịch sử cho học sinh, nâng cao hiệu quả bài học.
Về vấn đề giáo viên sử dụng kiến thức của các môn học khác để giảng
dạy lịch sử: 100% học sinh được hỏi đều cho rằng, việc kết hợp kiến thức
của các môn học khác trong dạy học lịch sử sẽ làm cho giờ học sinh động
hơn; hay sẽ tạo cho học sinh hứng thú hơn trong quá trình học (60,7%);
nhiều học sinh còn đề nghị “Cần sử dụng kết hợp với các kiến thức khác
nhiều hơn nữa”. Từ những nhận thức đó, 100% học sinh cho rằng việc sử
dụng kiến thức của các môn học khác để dạy học lịch sử là cần thiết.
Như vậy, qua kết quả điều tra học sinh và giáo viên cho thấy: môn
Lịch sử vẫn luôn nhận được sự quan tâm của giáo viên và học sinh. Đây là
một thuận lợi để giáo viên tiến hành áp dụng các phương pháp dạy học mới
vào dạy học lịch sử nhằm nâng cao hiệu quả bài học.
1.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Vấn đề dạy học theo nguyên tắc liên môn không còn là vấn đề xa lạ
với giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, thực tế áp dụng nguyên tắc này vào
24
dạy học thì còn nhiều hạn chế. Những hạn chế này không nhiều và có thể
khắc phục được:
- Mặc dù 100% giáo viên cho rằng cần thiết phải vận dụng nguyên tắc
liên môn trong quá trình dạy học, nhưng hầu hết giáo viên chỉ khai thác kiến
thức của môn Văn học( 100%) và Địa Lý (60%), hoàn toàn không đề cập
đến các môn học khác như: Âm nhạc, Hội họa, Giáo dục công dân…Bởi vì,
80% giáo viên cho rằng “rất khó kết hợp kiến thức của nhiều môn học”, và
40% giáo viên lại cho rằng điều đó sẽ “làm loãng kiến thức”.
Bên cạnh đó, khi áp dụng vào thực tiến dạy bài “Chiến dịch Điện Biên
Phủ”, hầu hết các giáo viên sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn
đề(100%), và sử dụng đồ dùng trực quan (100%), chỉ có 40% giáo viên sử
dụng kết hợp với kiến thức của bộ môn khác. Trong đó, các tác phẩm văn
học là kiến thức duy nhất được chọn để kết hợp giảng dạy trong bài này.
Thực trạng trên cho thấy: Giáo viên đều nhận thức được ý nghĩa của
việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học Lịch sử. Tuy nhiên việc áp
dụng lại có nhiều hạn chế. Nguyên nhân của thực trạng đó là do nhiều yếu tố
tác động. Quan trọng nhất là yếu tố tâm lí của giáo viên. Hầu hết giáo viên
đều cho rằng, việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học Lịch sử sẽ
mất rất nhiều thời gian chuẩn bị. Trong khi đó, các kiến thức này lại không
có ý nghĩa gì đối với học sinh (nhất là các em theo khối A, B, D). Thêm vào
đó, các giáo viên đều cho rằng các cấp lãnh đạo chưa quan tâm đúng mức
đến chế độ đãi ngộ giáo viên nói chung, giáo viên dạy Lịch sử nói riêng.
- Về phía học sinh: Đa số học sinh cho rằng học lịch sử rất dài, khó
học và hay bị điểm kém. Điều đó gây ra tâm lí ác cảm đối với môn Lịch sử.
Tuy nhiên, học sinh lại rất hứng thú với các tiết học được áp dung nhiều
25
phương pháp dạy học như: kể chuyện lịch sử, kết hợp với kiến thức các môn
học khác, sử dụng tranh ảnh…Thực tế trên cho thấy: giáo viên chưa chú ý
quan tâm đến chất lượng giờ dạy của mình, chưa tạo được hứng thú cho học
sinh. Và yếu tố quan trọng khác là do việc biên soạn sách giáo khoa và phân
phối chương trình chưa hợp lý. Cụ thể: có quá nhiều sự kiện dễ khiến cho
học sinh cảm thầy khô khan. Ví dụ: Khi dạy bài 21 “Phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”, Lịch
sử lớp 11, tuy nội dung của bài rất hay, có tác dụng trong việc giáo dục
truyền thống yêu nước cho học sinh, nhưng khối lượng kiến thức của bài rất
lớn. Giáo viên chỉ dạy những kiến thức trong sách giáo khoa cũng không đủ
thời gian. Vậy thời gian đâu để có thể sử dụng đồ dùng trực quan, và kết hợp
với kiến thức của các môn học khác?
Tóm lại, dựa trên thực tiễn của việc dạy-học Lịch sử ở trường phổ
thông hiện nay, là cơ sở để chúng tôi đưa ra một số biện pháp nhằm thực
hiện hiệu quả việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong quá trình dạy học.
Biện pháp này sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử.
Nhưng để thay đổi được thực trạng trên, đòi hỏi sự nỗ lực của giáo viên và
phụ thuộc vào chính sách của các cấp lãnh đạo.
*
*
*
Xuất phát từ việc tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học lịch sử ở
trường THPT cho thấy việc vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học