PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1. Đặt vấn đề:
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp nhiều
loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh
rằng, nông nghịêp đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế cũng như sự ổn
định về xã hội..Các nước trên thế giới đều phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để
tạo sản lượng lương thực, thực phẩm cần thiết đủ để nuôi sống dân tộc mình và
nhất là với các nước đang phát triển như Việt Nam nông nghiệp còn tạo nền tảng
cho các ngành, các hoạt động kinh tế khác phát triển.
Bước vào thế kỉ 21 dân số thế giới vượt mốc 7 tỉ người đã tạo áp lực an
ninh lương thực lên ngành nông nghiệp ngày càng lớn. Các nhà lãnh đạo và các
nhà khoa học trên thế giới đều phải lo lắng không ngừng về vấn đề áp dụng các
biện pháp kĩ thuật canh tác đễ không ngừng tăng năng suất cây trồng.
Trong các biện pháp khoa học kĩ thuật, thì tác dụng của các hóa chất tổng
hợp là vấn đề có ý nghĩa hết sức to lớn. Tiến bộ trong phân bón hóa học; Sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật trong canh tác, đã đẩy năng xuất cây trồng lên rất
cao ở thế kỉ trước. Nhưng sau nhiều năm sử dụng các hóa chất tổng hợp, thì con
người nhận thấy những hậu quả nghiêm trọng về môi trường, cân bằng sinh thái,
sức khỏe người tiêu dùng cũng như vấn đề giảm năng suất, chất lượng nông sản.
Vì vậy đã có nhiều hướng phát triển cho ngành nông nghiệp được vạch ra như:
Kiểm soát dich hại tổng hợp; Nông nghiệp sinh thái; Nông nghiệp hữu cơ; Nông
nghiệp bền vững. Đây là những vấn đề mà chúng ta những nhà khoa học, nhà
quản lý và nông dân cần phải quan tâm một cách nghiêm túc.
Vậy làm thế nào đễ tăng năng xuất cây trồng, đáp ứng được nhu cầu an
ninh lương thực đồng thời đồng thời phải đảm bảo một nền nông nghiệp bền
vững, với việc giảm tỷ lệ sử dụng phân bón hóa học, tăng tỷ lệ sử dụng phân bó
hữu cơ, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái và sức khỏe con người?
Đễ góp phần làm sáng tỏ câu hỏi trên chúng tôi thực hiện tìm hiểu chuyên
đề “Thực trạng nghiên cứu và sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên cây lấy
hạt”.
1
PHẦN II. NỘI DUNG
II.1. Khái niệm nông nghiệp hữu cơ.
Hiện nay, có hai khái niệm về nông nghiệp hữu cơ đang được dùng chình
thống là:
+ Nông nghiệp hữu cơ là hệ thống quản lý sản xuất toàn diện mà được hỗ
trợ tăng cường gin giữ bền vững sinh thái, bao gồm các vòng tuần hoàn và chu
kì sinh học trong đất. Nông nghiệp hữu cơ là dựa trên cơ sở sử dụng tối thiểu
các đầu tư từ bên ngoài, chống sử dụng các chất tổng hợp như phân bón, các
thuốc trừ sâu. Thực tế nông nghiệp hữu cơ không bảo đảm chắc chắn rằng sản
phẩm không chứa tàn dư và ảnh hưởng của ôi nhiễm môi trường nói chung. Tuy
nhiên, các phương pháp trong nông nghiệp hữu cơ đã sử dụng nhằm giảm tối
thiểu ô nhiễm từ không khí, đất và nước. Những người sản xuất, chế biến và lưu
thông các sản phẩm hữu cơ gắn bó với các tiêu chuẩn và chuẩn mực của sản
phẩm nông nghiệp hữu cơ.Mục đích chính của nông nghiệp hữu cơ là tối ưu hóa
tính bền vững và sức sản xuất của các hệ thống với quan quan hệ chặt chẽ phụ
thuộc lẫn nhau như đất trồng trọt, cây trồng, động vật và con người. (theo Codex
Alimentarius, FAO/WTO, 2001)
+ Nông nghiệp hữu cơ(cũng được hiểu là nông nghiệp sinh thái) là hệ
thống đồng bộ tiến tới thực hiện các quá trình với kết quả bảo đảm hệ sinh thái
bền vững, thực phẩm an toàn, dinh dưỡng tốt, nhân đạo với động vật và công
bằng xã hội. Sản xuất hữu cơ là nhiều hơn hệ thống sản xuất mà bao gồm hoặc
loại trừ một số vật tư đầu vào.(theo IFOAM, 2002)
Các tiêu chí và quan điểm chủ yếu sản xuất nông sản (NS) hiện nay là:
Tiêu chí sử
dụng
Phân bón hóa
học
Thuốc trừ sâu
hóa học
Chất kích
Thích sinh
trưởng
NS hữu cơ
(Truyền thống)
NS thường
(Hiện tại)
Sử dụng không
có liều lượng
Sử dụng không
Không sử dụng
có liều lượng
Không sử dụng
Không sử
dụng.Cây sinh
Sử dụng không
trưởng chậm tự
có liều lượng
nhiên, mẫu mã
xấu
NS VietGap
(NS an toàn)
Mức độ cho
phép
Liều lượng
chophép
Được sử dụng
có liều lượng
NS sạch – hữu
cơ (Kỹ thuật
tiến bộ)
Mức độ cho
phép
Không sử
dụng
Sử dụng có
liều lượng.
Cây sinh
trưởng cân đối,
mẫu mã đẹp
2
II.2. Tình hình phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới.
Việc sử dụng các biện pháp canh tác hữu cơ nhằm tăng năng suất cây trồng
đã được con người biết đến từ rất lâu. Từ những năm 900 trước công nguyên
những người Hy Lạp đã nói đến việc bón phân cho ruộng nho. Tới năm 1924
Rudolf Steiner là người đầu tiên đưa ra khái niệm nông nghiệp hữu cơ hiện đại với
tên gọi biodynamic agriculture. Trong những năm gần đây nông nghiệp hữu cơ đã
phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới và hiện nay được thực hiện tại khoảng
110 quốc gia trên thế giới. Số lượng đất canh tác nông nghiệp và các trang trại làm
nông nghiệp hữu cơ vẫn tiếp tục tăng lên qua các năm (thể hiện qua biểu đồ 1).
Triệuha
Biểu đồ 1: Diễn biến sự phát triển của diện tích đất nông nghiệp hữu cơ
(Nguồn: www.fibl.org).
Quỹ sinh thái và nông nghiệp SOEL đã thu thập thông tin về việc canh tác
hữu cơ trên toàn thế giới. Theo số liệu thống kê năm (2005), có khoảng 558.449
trang trại trên toàn thế giớ canh tác theo phương thức nông nghiệp hữu cơ. Thị
trường cho các sản phẩm hữu cơ cũng đang tăng trưởng, không chỉ tại Châu Âu và
Bắc Mỹ (là các thị trường chính) mà còn tại nhiều quốc gia khác, kể cả một số
nước đang phát triển. (Trích: Organic Vietnam. Org. vn – Hội nông dân Việt Nam).
Bảng 1: Diện tích đất nông nghiệp hữu cơ phân theo khu vực
(Đơn vị: triệu ha)
Diện tích đất nông nghiệp (2008) Diện tích đất nông nghiệp (2009)
Khu vực
Hữu cơ
Đất khác
Hữu cơ
Đất khác
Châu Á
3.3
4.1
3.6
4.2
Châu Âu
8.2
9.6
9.3
13.2
Châu Phi
0.9
9.5
1
16.4
Nam Mỹ
2.5
0.5
2.7
0.2
Bắc Mỹ
8.1
8.2
8.6
8.5
Châu Úc
12.1
#
12.2
#
(Nguồn: www.fibl.org)
-Châu Đại Dương đứng đầu về diện tích với tổng số 12.2 triệu ha nông
nghiệp hữu cơ vào năm 2009, sau đó là Châu Âu và Châu Mỹ La-tinh. Diện tích
3
đất hữu cơ tại Australia và Ac-hen-ti-na lớn nhất do phần lớn là đất chăn thả gia
súc quy mô lớn, diện tích dành cho đất canh tác dưới 50%. Phần diện tích đất
được quản lý theo hình thức hữu cơ so với diện tích được quản lý theo kiểu
truyền thống tại châu Âu là lớn nhất.
-Châu Mỹ Latinh có tổng số trang trại hữu cơ nhiều nhất. Việc tiếp tục gia
tăng diện tích đất hữu cơ không cân đối do ngày càng có nhiều người quan tâm
đến canh tác hữu cơ, song cũng là kết quả của việc cải thiện tiếp cận thông tin và
thu thập dữ liệu mỗi lần nghiên cứu này được cập nhật.
II.3. Tình hình phát triển Nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam
Trong lịch sử canh tác hàng ngàn năm, người nông dân Việt Nam đã và chỉ
có phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ: cày vặn rạ, vùi phân xanh, phế thải
nông nghiệp vào ruộng, trồng xen các loại cây trồng với nhau và bón các loại phân
hữu cơ như nước giải, phân chuồng, phân bắc, phân rác, phân xanh, tro bếp...
Ngoài bón vôi để khử chua cho đất và làm vệ sinh đồng ruộng, họ không hề có và
sử dụng phân vô cơ như đạm, lân, kali, Mg hoặc vi lượng như ngày nay.
Từ 1960 đến nay, sản xuất nông nghiệp Việt Nam sử dụng ngày càng nhiều các
loại phân vô cơ, song phân hữu cơ vẫn là loại phân bón lót (phân nền) quan trọng cho
hầu hết các loại cây trồng. Hiện nay các loại phân hữu cơ đã được nghiên cứu để xử lý
thành phân hữu cơ (phân hữu cơ vi sinh, phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ nước...)
có chất lượng cao và an toàn vệ sinh môi trường, góp phần quan trọng trong bảo vệ,
tăng cường độ phì của đất, đồng thời tăng chất lượng sản phẩm nông nghiệp và đảm
bảo vệ sinh môi trường sản xuất nông nghiệp và môi trường nông thôn.
Vào tháng 12/2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) đã ban
hành các tiêu chuẩn cơ bản cấp quốc gia đối với sản xuất theo hình thức hữu cơ, hiện
có thể được áp dụng làm quy chiếu cho các nhà sản xuất, chế biến và những người
khác quan tâm đến các sản phẩm hữu cơ dành cho thị trường trong nước. Bộ NN &
PTNT lập kế hoạch thành lập một hệ thống chứng nhận dành cho thị trường nội địa
cùng với các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ quốc tế, khu vực tư nhân
và các khu vực khác.
Các sản phẩm hữu cơ chủ yếu là các loài cây như quế, hồi, gừng, chè, điều, tôm
và cá Basa. Các sản phẩm này được chứng nhận theo tiêu chuẩn của các nước nhập
khẩu, như châu Âu và Mỹ và các cơ quan chứng thực nước ngoài thực hiện việc kiểm
tra và chứng thực.
II.4. Ưu điểm, nhược điểm của nông nghiệp hữu cơ.
*Ưu điểm:
- Về mặt môi trường, cảnh quan. Nông nghiệp hữu cơ cải thiện và duy trì cảnh
4
quan tự nhiên, bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp trong nông trại hữu cơ. Giảm thiểu việc
sử dụng năng lượng và các nguồn lực không thể tái sinh. Ngăn ngừa sự lây lan bệnh
dịch, ô nhiễm từ bên ngoài. Chủ động một phần nguồn vật liệu cho sản xuất.
- Về mặt y tế, sức khỏe: Sứ mệnh của nông nghiệp hữu cơ là tối đa hóa sức
khỏe và năng suất của cùng một lúc đất đai, cây trồng, vật nuôi, từ đó sẽ chăm sóc
tối đa sức khỏe cho những người tiêu dùng các sản phẩm đó. Các sản phẩm này
có mức độ sạch tương đối, do các sản phẩm này không chứa các các chất độc hại
từ thuốc trừ sâu, phân bón hóa học. Có nhiều các chất khoáng hơn như sắt, kẽm,
và đặc biệt tỉ lệ hợp chất chống oxy hóa cao hơn 40% so với rau quả bình thường.
Hàm lượng chất chống oxi hóa, chất khoáng hữu ích và các vitamin tự nhiên cao
hơn, có tác dụng chống các bệnh tim và ung thư so với thực phẩm cùng loại canh
tác theo phương thức thông thường, Chất chống oxi hóa trong sữa hữu cơ nhiều
gấp 50% đến 80% so với trong sữa thường, Chất chống oxi hóa trong ngũ cốc,
khoai tây, cải bắp, hành và rau diếp hữu cơ cao gấp từ 20% đến 40% so với sản
phẩm cùng loại thông thường, Cà chua hữu cơ có hàm lượng hồng tố cà cao gấp
nhiều lần cà chua thường, rau quả hữu cơ có vị ngon hơn, nhiều dinh dưỡng hơn
và bảo quản được lâu hơn; và nhiều ví dụ minh họa khác.
- Về kinh tế, thị trường: Theo Tổ chức Lương Nông LHQ (FAO), nền
NNHC có khả năng bảo đảm đủ nguồn cung cấp lương thực nuôi sống dân số
trên thế giới hiện nay nếu thực hiện song song với những biện pháp giảm thiểu
tác động có hại cho môi trường. Châu Âu và Bắc Mỹ hiện là hai thị trường tiêu
thụ nông sản hữu cơ nhiều nhất trên thế giới.
- Về mặt xã hội: Thực phẩm hữu cơ từ lâu được xem là thị trường các sản
phẩm nông nghiệp xa xỉ chỉ dành cho giới trung và thượng lưu. Các nhà khoa học
cho rằng sự chuyển dịch phần lớn nền nông nghiệp sang phương thức cách tác hữu
cơ vừa có thể giúp hạn chế tình trạng đói nghèo trên thế giới vừa góp phần cải thiện
môi trường. Quỹ Nông nghiệp và Phát triển quốc tế (IFAD) là cơ quan chuyên
trách của LHQ về các vấn đề xóa đói giảm nghèo hiện đang giúp các nước tăng
diện tích canh tác nông nghiệp hữu cơ và cung cấp các dịch vụ quảng bá nông sản
hữu cơ, được đánh giá là tạo ra nền tảng công việc giúp tạo ra nhiều việc làm mới ở
các vùng nông thôn, giúp hạn chế làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị.
*Nhược điểm.
- Sự ô nhiễm và mất an toàn vệ sinh từ nguồn phân bón hưu cơ: Viêc sử
dụng phân Bắc, phân chuồng tươi trong canh tác nông nghiệp hữu cơ một cách
phổ biến. Ví dụ ở thành phố Hà Nội, hàng năm lượng phân Bắc thải ra khoảng
550.000 tấn, trong đó 2/3 được dùng bón cho cây trồng gây ô nhiễm môi trường
đất và nông sản. Huyện Từ Liêm nhiều hộ nông dân đã phải dùng phân Bắc tưới
với liều lượng 7 – 12 tấn/ha. Do vậy, 1 lít nước mương máng khu trồng rau có
5
tới 360 E.Coli, ở nước giếng công cộng là 20, còn trong đất đến 2.105/100g đất.
Ở ĐBSCL, phân tươi được coi là nguồn thức ăn cho cá. Phân Bắc và phân
chuồng tươi đổ trực tiếp xuống ao hồ, mương lạch để nuôi cá.
- Chu trình vật chất không được khép kín. Trong quá trình canh tác luôn
sãy ra sự bay hơi, rữa trôi, thấm sâu và đi vào sản phẩm cây trồng của các
nguyên tố khoáng. Nếu chỉ dùng các biện pháp sinh học như luân canh, vùi tàn
dư thực vật, sử dụng cây bộ đậu thì không đủ để hoàn trả lại cho đất, chỉ sau 2
đến 3 vụ canh tác đất sẽ bị nghèo kiệt dinh dưỡng năng suất và chất lượng sẽ
suy giảm.
- Năng suất nông trại hữu cơ thường thấp, nếu chỉ canh tách bằng nông
nghiệp hữu cơ không thể đảm bảo an ninh lương thực trên thế giới. Do năng suất
phụ thuộc rất nhiều vào tay nghề của nông dân, yêu cầu lao động chân tay nhiều (từ
12% ở Đức đến 100% ở Đan Mạch). Năng xuất cỏ chăn nuôi trang trại hưu cơ ở
Na Uy đạt cao nhất bằng 90% năng xuất ở trang trại bình thường, ở Đức năng xuất
cây lương thực ở trang trại hưu cơ chỉ bằng 50%-75% năng xuất trang trại bình
thường.
II.5. Tóm tắt một số giải pháp kỹ thuật tổng hợp sản xuất nông sản
sạch – hữu cơ:
-Sử dụng giống có sức đề kháng bệnh, kháng sâu cao.
-Phân ủ hữu cơ vi sinh Trichoderma, Ketomium làm sạch và kiểm soát
mầm bệnh, ký sinh trùng, tuyến trùng trong đất.
-Thuốc BVTV vi sinh phổ rộng (Vi nấm Tam Nông, Trichoderma,
Ketomium), không độc hại, ít lần phun, bảo vệ thiên địch khống chế côn trùng
hại ở ngưỡng an toàn.
-Sử dụng phân Lân khoáng hữu cơ: Phân đa yếu tố Văn Điển chuyên
dụng cho cây và cho đất, cho từng giai đoạn sinh trưởng trên nền lân nung chảy.
-Bố trí thời vụ, cơ cấu luân canh khoa học giữa các loại cây trồng
- Tạo cảnh quan, trồng các cây hấp dẫn, xua đuổi côn trùng tại các vùng
sản xuất rau, lúa, cây ăn quả.
II.6. Một số nội dung cụ thể của các biện pháp kỹ thuật canh tác hữu cơ
II.6.1 Luân canh, xen canh, gối vụ các cây trồng với nhau có những tác
dụng tích cực
+ Tăng sinh khối trên một diện tích đất trồng để bổ sung dinh dưỡng cho đất.
+ Các loại cây ngắn ngày mọc nhanh, có bộ rễ phát triển khỏe để hút dinh
dưỡng từ lớp đất sâu, đồng thời các cây có bộ rễ nông hút dinh dưỡng từ lớp đất
6
nông và có tác dụng làm đất tơi xốp. Như vậy, biện pháp này tăng cường sự điều
chỉnh và cân bằng dinh dưỡng cho đất. Đây là một điều kiện vô cùng quan trọng đối
với chức năng cung cấp chất dinh dưỡng đầy đủ và thường xuyên cho thế hệ cây trồng
tiếp theo của đất trồng.
+ Các loài cây họ đậu có khả năng cố định đạm vào đất, nên chúng có tác dụng
tăng cường nguồn dinh dưỡng đạm cho đất, phục hồi suy thoái đất và tăng độ phì đất
rất nhanh và hiệu quả.
+ Giảm sâu bệnh trong chu kỳ luân canh và xen canh, giảm sự tích tụ nguồn
sâu bệnh do cùng có nhiều loại cây khác nhau cùng sinh trưởng.
II.6.2. Sử dụng các loại cây phân xanh, các loại cỏ làm băng chắn
chống xói mòn đất và bón vùi tại chỗ tăng lượng hữu cơ cho đất
+ Một số loại cỏ, cây bụi có thể trồng thành băng chống xói mòn cho đất
dốc: Cỏ voi, cỏ Goatamala, cỏ Vectivo, cỏ Stylo, cây chè khổng lồ, cây dầu
Diesel jatropha...
+ Hiệu quả bảo vệ đất dốc và duy trì, tăng độ phì hữu cơ cho đất bằng
biện pháp này khá cao và dễ thực hiện đối với người nông dân.
+ Các loại cây phân xanh tự nhiên và do người trồng ở Việt Nam rất phong
phú, bao gồm các loại cây họ đậu, cây hòa thảo (cỏ), cây bụi. Dưới đây xin giới thiệu
một số loại cây phân xanh phổ biến:
Đậu triều
Cajanus
Đậu lông
Calopogonium mucunoid
Đậu bướm
Centrosema pubescens
Lục lạc mũi mác
Crotalaria anagyroides
Muồng lá tròn
Crotalaria strriata
Muồng lá dài
Crotalaria urasamoiensis
Hàn the
Desmodium gyroides
Tràm
Desmodium polycarpum
Trinh nữ
Mimosa invisa
Cốt khí
Tephrosia candida
7
Muồng long hôi
Cassia hirsuta
Quỳ dại/cúc đắng
Tithonia sp.
Lạc dại
Đậu mèo
Mucuna conchirchinensis
Đậu công
Flemingia congesta
Đậu hồng đáo
Vigna indica
Keo dậu
Thân đậu đỏ
II.6.3. Sử dụng các loại cây họ đậu và hoa màu phủ đất trống hoặc
giữa các cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm chưa khép tán
+ Trừ cỏ sinh học rất hiệu quả và giảm công làm cỏ. Ví dụ, dùng đậu mèo
trừ cỏ tranh là loại cỏ rất khó diệt trên vùng đồi núi, dùng các loại cỏ để diệt cỏ
dại như cỏ Stylo, cỏ Brachiaria, cỏ Cassia, lạc dại, khoai lang...
+ Phủ kín đất trống để giữ ẩm, tăng hàm lượng hữu cơ, chống xói mòn,
rửa trôi tầng đất mặt và diệt cỏ dại cho đất trồng. Mặt khác các loài cây phủ đất
này còn là nguồn thức ăn chăn nuôi có hàm lượng dinh dưỡng cao, hoặc là các
loại cây thuốc, cây gia vị có giá trị kinh tế cao. Có thể giới thiệu một số cây phủ
đất ưa bóng như cây chè khổng lồ, lạc dại, muồng lá tròn kép, Stylo, cỏ Ruzi, cỏ
Ghine thân thấp, lạc, các loại đậu, cây thuốc, gừng, gia vị, rau thơm
II.6.4. Phủ trực tiếp các loại vật liệu hữu cơ (phế thải nông nghiệp) cho
cây trồng
+ Ví dụ về hiệu quả che phủ đất của các cật liệu phủ đất dốc:
Trung bình năm
Đất mất (ha)
Chảy mất (mm)
Chảy mất (%)
Đất trống
Đất có lớp phủ
Ghi chú
232,6
504,1
42,1
0,2
Nguồn: R. Lal, 1977
29,2
Độ dốc: 10%
2,4
Nigeria
Nguồn: Viện KHKT NLMN Phía Bắc.
+ Vật liệu hữu cơ che phủ từ phế thải nông nghiệp rất đa dạng: Rơm, rạ, thân
ngô, sắn, cây đậu, các loại cỏ, lá khô rụng... Tác dụng phủ nhằm giữ ẩm cho đất về
8
mùa khô, chống rửa trôi đất mặt về mùa mưa, trừ cỏ dại. Sau mỗi vụ thu hoạch, có thể
cày vùi vật liệu phủ vào đất đề tăng nguồn hữu cơ cho đất, tăng độ tơi xốp của đất,
tăng khả năng hấp phụ nước và các chất dinh dưỡng vô cơ của đất cung cấp cho cây
trồng. Tùy độ dốc của đất mà phương pháp phủ vật liệu hữu cơ khác nhau. Nếu đất
bằng phẳng, thì có thể phủ bằng cách rải vật liệu phủ trực tiếp xen giữa các cây trồng.
Nếu canh tác trên đất dốc thì phải bện các vật liệu phủ thành thảm hoặc thành tấm liếp
và khi phủ phải đóng cọc tre/gỗ giữ thảm khỏi bay hoặc trôi theo dòng chảy.
II.6.5. Bón phân hữu cơ đã ủ (composting) từ các loại phân chuồng,
phân bắc, phế thải nông nghiệp, rác thải hữu cơ...
+ Phân hữu cơ, đặc biệt là phân được chế biến từ công nghệ ủ phân, khi bón
vào đất sẽ làm tăng độ phì đất do tăng hàm lượng chất hữu cơ, cải thiện cấu trúc đất,
tăng và duy trì độ ẩm đất, tạo môi trường sống thuận lợi cho hệ vi sinh vật đất.
+ Phân hữu cơ được chế biến/ủ giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt: đất
tơi xốp, ẩm, nhiều chất dinh dưỡng, dễ tiêu, không có kim loại nặng, chất lượng nông
sản tốt, ngon hơn khi chỉ bón toàn phân vô cơ.
+ Sử dụng phân hữu cơ đã ủ đảm bảo vệ sinh an toàn cho cây trồng và người
trồng cũng như người sử dụng nông sản. Phân không còn mùi hôi thối, sạch trứng
giun và vi khuẩn gây bệnh.
+ Quy trình ủ phân hữu cơ nói chung đơn giản, người nông dân được hướng
dẫn sẽ tự làm được, rẻ tiền, vận chuyển và bón phân dễ dàng. Để tăng tốc độ ủ phân
9
và chất lượng phân ủ, cần áp dụng công nghệ ủ bán hiếu khí với chế phẩm vi sinh vật.
+ Sản xuất phân hữu cơ sinh học từ rác thải hữu cơ, phế thải nông nghiệp và
phân bắc có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với đất và cây trồng, mà còn đối với
môi trường sống của cộng đồng: giảm thiểu diện tích chôn lấp rác thải sinh hoạt, giảm
thiểu việc đốt phế thải nông nghiệp trên đồng ruộng, góp phần tạo nên môi trường
sống sạch, đẹp, an toàn và không bị ô nhiễm.
II. 7. Một số công trình nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ trên cây lấy hạt ở
Việt Nam.
7.1 Nghiên cứu ứng dụng quy trình canh tác tổng hợp phục vụ sản xuất
nông sản sạch – hữu cơ theo IPM, VietGAP (PGS. TS. Mai Quang Vinh, Viện Di
truyền Nông nghiệp)
a. Cây lúa
+Bón phân Đa yếu tố chuyên dụng đạt năng suất 7 – 9 tấn/ha (200-300 kg/sào
BB): Công thức bón lót (6:11:2): 6%N+11P2O5+2K2O+2S+10MgO+20CaO+15SiO2
+ và các vi lượng Zn, B, Mo, Cu, Co... Dùng 20 – 25 kg/sào BB (600 – 700 kg/ha),
Công thức bón thúc (16:5:17): 16%N+5P2O5+17 K2O+1S+5MgO+8CaO+7SiO2+ và
các vi lượng Zn, B, Mo, Cu, Co... Dùng 10 – 12 kg/sào BB (280 – 340 kg/ha) sau khi
cấy 10 – 12 ngày.
+Sử dụng chế phẩm vi nấm: Đối với cây lúa, chỉ cần khống chế tốt các loài sâu
cuốn lá, đục thân và rầy rệp thì vấn đề côn trùng hại lúa không quan trọng, nhất là các
bệnh virut lây truyền qua rầy hiện nay.
b. Cây đậu tương
+ Bón phân Đa yếu tố chuyên dụng đạt năng suất 2 - 3 tấn/ha (70 - 110
kg/sào BB):
-Công thức bón lót (4:12:7): 4%N + 12P2O5 + 7K2O + 2S + 8MgO + 16CaO +
15SiO2 + và các vi lượng Zn, B, Fe,Cu, B... Dùng 15 – 20kg/sàoBB (420 – 560 kg/ha)
- Bón thúc khi vun đợt II: dùng 3 – 5 kg kali/sào BB (90 – 150 kg/ha)
+Chế phẩm vi nấm: Trước tiên, ứng dụng việc xử lý hạt nêu trên phòng
trừ sâu xám, các loại côn trùng hại rễ, giòi đục thân, đục lá, sâu cuốn lá...
7.2. Nghiên cứu một số loại thuốc trừ sâu trừ bệnh sinh học, Viện Bảo
vệ thực vật
- Chế phẩm bón gốc MT1 có hiệu quả cao trong phòng trừ tuyến trùng hại
hồ tiêu.
- Chế phẩm BE (có nguồn gốc từ vi khuẩn đối kháng Bacillus
vallismortis), chế phẩm BC (có nguồn gốc từ vi khuẩn đối kháng Bacillus
subtilis) được nghiên cứu, sản xuất tương tự chế phẩm EXTN-1 của Hàn Quốc
trong điều kiện Việt nam lấy tên là BE và BC có hiệu quả cao trong phòng trừ
bệnh héo xanh vi khuẩn(Ralstonia solanacearum) và bệnh héo vàng (Fusarium
solani) trên cà chua và khoai tây.
10
- Chế phẩm SH1: có hiệu quả hạn chế tác hại của tuyến trùng nốt sưng
Meloidogyne sp. và một số nấm bệnh sống trong đất như: Fusarium,
Phytopthora và Pythium gây hại vùng rễ cây hồ tiêu, cà phê ở các vùng sản xuất
trong cả nước.
- Chế phẩm nấm Metarhizium anisopliae trừ rầy nâu hại lúa. Chất lượng
chế phẩm nấm M.a trừ rầy nâu trong điều kiện nhà lưới, mật độ bào tử nấm
phun là 5 x 108, hiệu lực sau 7 ngày đạt 73,5%. Hiệu lực sau 9 ngày đạt 80.21%.
- Đã tạo được 3 chế phẩm thảo mộc từ cây Neem có tên SOD, SOY và
SOP dùng trong bảo quản ngũ cốc đạt hiệu lực trừ mọt kho 80 % sau 6 tháng.
Đồng thời đã xây dựng được quy trình sản xuất và sử dụng 3 chế phẩm trên.
- Thuốc thảo mộc trừ ốc bươu vàng BOURBO 8.3BR và TICTACK
13.2BR đã triển khai trên 2100 ha (Phía Bắc 110 ha, phía Nam 2000 ha).
7.3. Nghiên cứu ứng dụng một số chế phẩm sinh học để sản xuất lúa
hữu cơ chất lượng cao ở Thái Bình (ThS. Hoàng Quốc Chính và CTV)
- Nghiên cứu ứng dụng một số chế phẩm sinh học (thay thế phân khoáng,
thuốc BVTV hoá học) để sản xuất lúa gạo hữu cơ. Phân tích, đánh giá chất lượng lúa
gạo sau thu hoạch, dư lượng các độc tố BVTV hoá học trong gạo và dinh dưỡng đất
qua các vụ thí nghiệm
- Xây dựng mô hình ứng dụng các chế phẩm sinh học sản xuất lúa gao hữu cơ
chất lượng cao.
7.4 Tiến bộ kỹ thuật và công nghệ phân bón (Cục trồng trọt)
Phân chuồng: Loại phân do gia súc thải ra. Trung bình mỗi đầu gia súc
nuôi nhốt trong chuồng, sau mỗi năm có thể cung cấp một lượng phân chuồng
(kể cả độn) như sau:
Lợn
1.8 – 2.0 tấn/con/năm
Dê
0.8 – 0.9 tấn/con/năm
Trâu bò
8.0 – 9.0 tấn/con/năm
Ngựa
6.0 – 7.0 tấn/con/năm
Chất lượng và giá trị của phân chuồng phụ thuộc rất nhiều vào cách chăm
sóc, nuôi dưỡng, chất liệu độn chuồng và cách ủ phân.
Phân chuồng tốt thường có các thành phần dinh dưỡng như ở bảng sau:
Thành phân dinh dưỡng của phân chuồng
Đơn vị %
Loại phân H2O
N
P2O5
K2O
CaO
MgO
Lợn
82.0
0.80
0.41
0.26
0.09
0.10
Trâu bò 83.1
0.29
0.17
1.00
0.35
0.13
Ngựa
75.7
0.44
0.35
0.35
0.15
0.12
Gà
56.0
1.63
1.54
0.85
2.40
0.74
Vịt
56.0
1.00
1.40
0.62
1.70
0.35
Phân xanh: Phân xanh là loại phân hữu cơ, sử dụng các loại bộ phận trên mặt
11
đất của cây. Phân xanh thường được sử dụng tươi, không qua quá trình ủ. Vì vậy,
phân xanh chỉ phát huy hiệu quả sau khi được phân huỷ. Cho nên người ta thường
dùng phân xanh để bón lót cho cây hàng năm hoặc dùng để “ép xanh” (tủ gốc) cho cây
lâu năm. Tuy vậy, ở một số địa phương vùng Trung Bộ, phân xanh được chặt nhỏ và
bón cho ruộng lúa, người ta gọi là “bón bổi”.
Phân tích thành phần dinh dưỡng trong một số loài cây họ đậu được dùng làm
phân xanh thu được kết quả như sau:
Hàm lượng đạm và lân trong một số cây phân xanh (% chất khô)
Cây phân xanh
Đạm (N)
Lân (P2O5)
Muồng lá tròn
2,74
0,39
Điền thanh
2,66
0,28
Keo dậu
2,85
0,62
Cốt khí
2,43
0,27
Muồng sợi
1,22
0,17
Đậu đen
1,70
0,32
Bèo hoa dâu
4,75
0,64
Bèo tấm
2,80
0,39
* Phân than bùn:
Than bùn được tạo thành từ xác các loài thực vật khác nhau. Xác thực vật được
tích tụ lại, được đất vùi lấp và chịu tác động của điều kiện ngập nước trong nhiều năm.
Với điều kiện phân huỷ yếm khí các xác thực vật được chuyển thành than bùn.
Lượng các chất dinh dưỡng trong than bùn ở miền Đông Nam Bộ
Đơn vị %
% chất dinh
Địa điểm lấy than bùn
Tây Ninh
Củ Chi
Mộc Hoá
Duyên Hải
dưỡng
N
0,38
0,09
0,16 – 0,91
0,64
P2O5
0,03
0,1 – 0,3
0,16
0,11
K2O
0,37
0,1 – 0,5
0,31
0,42
pH
3,4
3,5
3,2
2,6
Số liệu của Hồ Thìn, Võ Đình Ngô – Trung tâm địa học, Phân viện khoa học
Việt Nam, TP Hồ Chí Minh
*Phân tro, phân dơi:Tro các loại được sử dụng làm phân bón rất có hiệu quả
ở những loại đất thiếu kali hoặc trong trường hợp bón quá nhiều phân đạm. Trong tro
có 1 – 30% K2O và 0.6 – 19% P2O5. Tro có thể dùng bón trực tiếp cho cây hoặc
dùng làm chất độn, chất trộn với phân chuồng, phân bắc, nước tiểu… Kali trong tro
dễ hoà tan. Trong tro còn có silic, lân, magiê, vi lượng với hàm lượng tương đối cao.
Tro có tính kiềm nên phát huy tác dụng tốt trên các loại đất chua
II. 8. Một số công trình nghiên cứu nông nghiệp hữu cơ trên cây lấy hạt
của thế giới.
12
Thực tế thì lịch sử nông nghiệp bắt đầu bằng nông nghiệp hữu cơ.
Théophrast (372 – 287TCN) đã nêu biện pháp độn chuồng để giữ và nâng cao
chất lượng phân chuồng. Théophrast đã sắp xếp phân hữu cơ theo chất lượng
giảm dần như sau: phân bắc > phân lợn > phân dê > phân cừu > phân bò đực >
phân ngựa. Điều đó chứng tỏ ngay từ trước công nguyên loài người không
những dùng phân gia súc mà đã dùng phân do mình thải ra
Columella lập danh sách nhiều cây bộ đậu có khả năng làm tốt đât: Lupin
(Lupinus sp.), đậu tằm (Phaseolus acutifolius), cây đậu lăng (Vicia faba), đậu
chick (Cicer ảietinum L.), cỏ ba lá (Trìollium sp.). Ông là người đã đặt nền
móng cho việc dùng cây bộ đậu làm phân xanh.
Ở Trung Quốc, ngay từ thế kỷ VI, trong Tề Dân Yếu Thuật viết đời Hậu
Ngụy, Giả Tư Hiệp đã ghi nhiều loại phân bón như phân tằm, phân bắc hoai, đất
vách, phân xanh, vùi tươi xác cây bộ đậu. Ông đã nêu tỷ mỉ phương pháp luân
canh cây bộ đậu ( Đậu xanh, đậu đen...) và xem biện pháp luân canh cây bộ đậu
làm đất tốt không kém gì bón phân bắc hoai, phân tằm. Đến thế kỷ XIV, trong
tác phẩm Vương Trịnh Nông Thư ở Phần Nông Tang Thông Quyết có ghi: Việc
canh nông lấy phân bón làm chính. Bón phân có thể biến ruộng xấu thành ruộng
tốt, biến đất cằn cỗi thành đất phì nhiêu. Khi kể các loại phân tác giả đã kể đến
phân chuồng, phân xanh, đất hun, xác các loài động thực vật, vôi và bùn ao. Tác
giả cũng đã nêu chế độ luân canh và hưu canh để làm đất tốt.
Ở Châu Mỹ, khi Christoph Colomb (1451 – 1506) đặt chân lên Châu Mỹ
cuối thế kỷ XV đầu thế kỉ XVI đã thấy thổ dân Châu Mỹ biết dùng cá chết bón
cho ngô.
Những người tiên phong đánh dấu sự ra đời của nông nghiệp hữu cơ là
Rudolf Steiner, Robert Rodale, Sir Albert Howard và bà Eva Balfour lần đầu
tiên xuất bản cuốn sách ý tưởng của họ về nông nghiệp hữu cơ vào những năm
1920, 1930, 1940, nó đã dần hoàn thiện và đã xác định được thế nào là phong
trào sinh học và nông nghiệp hữu cơ. Họ nêu ra sự quan tâm chú ý về cơ sở sinh
học của độ phì đất và mối liên hệ của nó với sức khỏe của người và động vật.
Ngày nay, nông nghiệp hữu cơ gọi là nông nghệp hữu cơ hiện đại. Nông
nghiệp hữu cơ hiện đại được Rudolf Steiner nêu ra đầu tiên năm 1924 với tên
gọi biodynamic agriculture.
- Theo tác giả Kevin M. Murphy thì khi nghiên cứu trên 35 mẫu giống lúa
mì thì một số giống có tính thích ứng với nông nghiệp hữu cơ, chỉ sai khác trong
2 – 3 năm đầu, những năm sau đó sự sai khác không có ý nghĩa thống kê.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Nền nông nghiệp thế kỉ 21 phải đi theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông
13
nghiệp bền vững. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tạo ra một nền nông nghiệp có năng
suất, sản lượng cao đáp ứng được đòi hỏi của an ninh lương thực, chất lượng nông sản
phải tôt và an toàn đảm bảo sức khỏe cho con người và vật nuôi, trong quá trình canh
tác chúng ta phải bảo vệ được môi trường sinh thái cho thế hệ sau.
Đối với Việt Nam là một nước đang phát triển hướng đi theo nông nghiệp bền
vững là hoàn toàn đúng đắn. Điều này sẽ giúp chúng ta vừa đảm bảo được an ninh
lương thực, tăng sản lượng để tạo nguồn lực cho quá trình phát triển kinh tế, lại vừa
bảo vệ được môi trường sinh thái, sức khỏe người tiêu dùng. Các sản phẩm nông
nghiệp an toàn hiện đang có một nhu cầu rất lớn trên thị trường trong nước và quốc tế,
người tiêu dùng hiện nay sẵn sàng trả một mức giá cao hơn để dùng các sản phẩm này.
Nông sản Việt Nam cần tiếp cận thị trường thế giới theo hường này, điều đó sẽ giúp
người nông dân nâng cao được hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, cũng như
tăng kim ngạch xuất khẩu của Viêt Nam lên. Muốn được như vậy các nhà quản lý cần
đẩy mạnh các mô hình canh tác an toàn như VietGAP, đẩy nhanh khâu cấp giấp
chứng nhận, hoàn thiện các tiêu chuẩn và ban bố khung pháp lý bảo vệ nông sản an
toàn để phân biệt thực phẩm an toan với các thực phẩm khác.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
I.Tiếng việt:
1. Cục trồng trọt 2010, Tiến bộ kỹ thuật và công nghệ phân bón.
2. TS. Lê Quốc Tuấn và ctv (20110, Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi
phục tài nguyên đất, Trường đại học Nông lâm TPHCM.
3. PGS.TS. Đào Châu Thu (2010) , Nông nghiệp hữu cơ với sử dụng đất hiệu
quả bền vững, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Bền vững - Đại học
Nông nghiệp Hà Nội.
4. Nguyễn Thanh Thủy(2011), Nghiên cứu mô hình sản xuất và tiêu thụ RAT
tại một số xã trên địa bàn huyện Gia Lâm, Hà Nội, Luận văn tốt nghiệp.
5 .PGS. TS Vũ Hữu Yêm (1995), Giáo trình phân bón và cách bón phân, NXB
Nông nghiệp Hà Nội.
II. Tiếng anh:
5. Beate Huber and Helga Willer (2010),The World of Organic Agriculture:
Statistics and Emerging Trends, www.FIBL.org.
6.Kevin M. Murphy 2007, Evidence of varietal adaptation to organic farming
systems
7. M. Velayutham, Integhated plant nutrition system-key to soil productivity
enhancenment and sustainable aghiculture production, Consultant, FAO Regional
Office for Asia and the Pacific, Bangkok.
8. Project report submitted to the Organic Farming Research Foundation 2002,
Evaluation of In-Row Weed Cultivators in Organic Soybeans and Corn
15