MỤC LỤC
Phần I: MỞ ĐẦU...................................................................................................3
Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................................4
2.1.Vài nét về đặc điểm cá Tràu tiến vua (Channa asiatica).............................4
2.1.1. Vị trí phân loại.....................................................................................5
2.1.2. Đặc điểm hình thái...............................................................................5
2.1.3. Phân bố................................................................................................5
2.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng..........................................................................6
2.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng..........................................................................6
2.1.6. Đặc điểm sinh sản................................................................................6
2.2. Tình hình nghiên cứu cá Tràu tiến vua trên thế giới..................................6
2.2.1. Trên thế giới........................................................................................6
2.2.2. Trong nước..........................................................................................7
2.3. Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng trên thế giới.......................................8
2.4. Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng trong nước.......................................12
2.5. Một số bệnh ký sinh trùng thường gây hại cho giống cá Trèo Đồi
(Channa)..........................................................................................................13
2.5.1. Trùng Bánh xe (Trichodinids)...........................................................13
2.5.2. Trùng Mỏ neo (Lernaeosis)...............................................................14
2.5.3. Bệnh Sán lá đơn chủ Monogenea......................................................15
2.5.4. Bệnh trùng Loa kèn Epistilis.............................................................16
2.5.5. Thành phần loài KST đã tìm thấy trên họ cá Trèo Đồi Channa .......18
2.5.6. Thành phần KST đã tìm thấy trên cá Lóc Bông Channa micropeltes
.....................................................................................................................19
Phần III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................22
3.1. Địa điểm nghiên cứu................................................................................22
3.2. Đối tượng nghiên cứu ..............................................................................22
3.3. Thời gian thực tập.....................................................................................22
3.4. Dụng cụ cần thiết để nghiên cứu..............................................................22
1
3.5. Phương pháp nghiên cứu KST.................................................................22
3.5.1. Sơ đồ định loại ký sinh trùng (V.A MUSSELIUS)...........................23
3.5.2. Phương pháp nghiên cứu KST đồng bộ của Viên Sỹ Dolgiel, có bổ
sung của Bychowsky Palopsky, 1968; Hà Ký, 1968...................................23
3.5.3. phương pháp quan sát bằng mắt ......................................................24
3.5.4. Phương pháp kiểm tra và thu mẫu KST............................................25
3.5.5. Phương pháp kiểm tra và thu mẫu KST............................................25
3.5.6. Phương pháp kiển tra và thu mẫu ở mang.........................................25
3.5.7. Phương pháp bảo quản, cố định và nhuộm màu làm tiêu bản...........26
2.5.8. Tính tỷ lệ nhiễm (TLN).....................................................................26
3.5.9. Tính cường độ nhiễm(CĐN).............................................................26
PHẦN IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN..........................................................27
4.1. Kết quả nghiên cứu...................................................................................27
4.1.2. Tình hình nuôi cá tràu tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1.27
4.1.3. Kết quả đo các chỉ tiêu môi trường...................................................28
4.1.4. Kết quả nghiên cứu về bệnh ngoại KST............................................31
4.2 Thảo luận...................................................................................................38
Phần V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT..................................................................43
5.1 Kết luận.....................................................................................................44
5.2. Đề xuất......................................................................................................45
Phần I: MỞ ĐẦU
2
Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất nước,
những năm qua ngành đã giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động, đảm bảo
nguồn lương thực thực phẩm dồi dào cho xã hội, góp phần quan trọng vào sự
tăng trưởng kinh tế của đất nước. Giá trị xuất khẩu năm 2007 đạt 3,75 tỉ USD.
Đặc biệt trong mấy năm gần đây lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản phát triển
rất nhanh cả về diện tích và đối tượng nuôi. Tuy nhiên sự tăng trưởng diện tích
nuôi một cách ồ ạt, tự phát không có quy hoạch, đã làm nảy sinh những vấn đề
bất cập: môi trường bị ô nhiễm, thức ăn, con giống, mật độ nuôi, chế độ chăm
sóc không đảm bảo làm cho động vật thuỷ sản yếu đi, các tác nhân gây bệnh
phát triển và lây lan nhanh.
Hàng năm một trong những bệnh gây hại cho động vật thuỷ sản là bệnh
ký sinh trùng. Bệnh ký sinh trùng (KST) gây hại cho động vật thuỷ sản ở mọi
giai đoạn phát triển của cá, nhưng nó gây hại lớn nhất ở giai đoạn cá hương và
cá giống. KST có thể gây hại nghiêm trọng, làm giảm năng suất và sản lượng.
Đã có nhiều báo cáo cho biết KST gây chết hàng loạt cho cá hương và cá giống
gây thiệt hại cho kinh tế người nuôi. Bệnh diễn ra khắp nơi trên thế giới
Velasyues (1975) ghi lại trường hợp Sán (Dactylogyrus sp) đã gây chết 1000 cá
trê tại Lam Bang, Canaba và Pampanga ở Phillipines. Ở Inđônêxia vào năm
1953 bệnh trùng Mỏ neo đã gây hại nghiêm trọng cho các loài cá kinh tế ở nước
này, làm thiệt hại 30% ở các trại giống, tổng thiệt hại là 140 tỉ cá bột tức hơn 10
triệu USD.
Ở nước ta đầu năm 1968 bệnh trùng Mỏ neo đã làm chết 30 vạn cá con ở
Nhật Tân (Hà Ký, 1986). Bệnh bào tử sợi làm chết hàng loạt cá chép giống nhập
nội (Hà Ký, Bùi Quang Tề và Nguyễn Văn Thành, 1992).
Cho đến nay ở nước mới nghiên cứu KST 86/544 loài cá trong khu hệ cá
nước ngọt. Riêng ở cá Lóc đã phát hiện 22 loài KST (Hà Ký, Bùi Quang Tề,
1999). Cá Tràu tiến vua và cá lóc là hai loài thuộc họ Channadae nên các bệnh
KST gây hại có thể cũng tương tự. Đối với cá Tràu tiến vua do loài này chỉ phân
3
bố ở Hoa Lư - Ninh Bình và là loài cá quý hiếm trong tự nhiên, nên cho đến nay
vẫn chưa có nghiên cứu nào về KST gây hại cho loài cá này.
Năm 2006 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I đã tiến hành cho sinh
sản nhân tạo và ương nuôi thành công. Tuy nhiên trong quá trình ương nuôi
bệnh tật đã xảy ra làm cho cá giống chết hàng loạt. Để góp phần cho sự thành
công của ương nuôi cá Tràu tiến vua tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu bệnh
ngoại ký sinh trùng trên cá Tràu tiến vua (Channa asiatica)”.
* Mục đích nghiên cứu:
- Làm quen với phương pháp nghiên cứu KST.
- Đánh giá mức độ nhiễm ngoại ký sinh trên cá bố mẹ, cá hương, cá giống cá
Tràu tiến vua.
* Nội dung nghiên cứu:
- Theo dõi các chỉ tiêu môi trường: Nhiệt độ, pH, oxy hoà tan trong ao
nuôi vỗ cá bố mẹ, cá hương, cá giống.
- Xác định thành phần loài và tỷ lệ và cường độ nhiễm ngoại KST trên cá
bố mẹ, cá hương, cá giống cá Tràu tiến vua.
Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.Vài nét về đặc điểm cá Tràu tiến vua (Channa asiatica)
4
2.1.1. Vị trí phân loại
Bộ cá Vược: Perciformes
Phân bộ cá Quả: Channoidei
Họ cá Quả: Channidae
Giống cá Trèo Đồi: Channa
Loài cá Tràu tiến vua: Channa asiatica
2.1.2. Đặc điểm hình thái
Mô tả: Cá có thân hình trụ tròn, phần từ vây hậu môn về đuôi dẹp bên.
Đầu dẹp bằng, Miệng rộng, rãnh Miệng kéo dài quá về viền sau mắt. Mõm ngắn
và dẹp, trên mõm gần mũi có một đôi râu, chiều dài râu bằng 1/2 đường kính
mắt. Mắt to, nằm trên lưng của đầu.
Hình 1: Cá bố mẹ cá Tràu tiến vua
Lưỡi bằng, rộng và khá dày, mút đầu lưỡi nhọn. Số đốt sống toàn thân 52
chiếc (đốt sống thân 50 và đốt sống đuôi 2). Khoang bụng kéo dài đến tận mút
đuôi tương đương với vảy đường bên đoạn 3 ở vảy thứ 32, ruột ngắn bằng 87%
chiều dài tiêu chuẩn (L0). Vây lưng và vây hậu môn không có gai đứng. Vây
lưng có 46 - 48 tia mền, vây hậu môn có 30 - 32 tia mền. Không có vây bụng.
Thân phủ vảy khó rụng. Đường bên không liên tục, hạ thấp xuống ở hai hàng ở
vảy thứ 19 hoặc vảy thứ 22. Vây lưng và vây hậu môn dài đến gốc vây đuôi.
Vây đuôi tròn. Cá có màu đen thẩm trên lưng, bụng trắng hồng. Phía sau ổ mắt
có 3 đường vân xanh nõn chuối kéo dài đến xương mang. Trên gốc cán đuôi có
một chấm xanh đen tròn lớn xung quanh là vân trắng hồng. Các vây màu đen,
vây lưng và vây hậu môn có nhiều chấm đen xếp thành hàng.
2.1.3. Phân bố
5
Ở nước ta cá Tràu tiến vua chỉ bắt gặp ở vùng Hoa Lư - Ninh Bình, ít gặp
loài này ở các nơi khác.
2.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá Tràu tiến vua là loài cá dữ, ở giai đoạn cá hương thức ăn chủ yếu là
động vật phù du (Copepodo, luân trùng, trùng chỉ). Giai đoạn cá giống và trưởng
thành thức ăn chính là cá con, tôm tép và ếch, nhái.
Tập tính bắt mồi của chúng là rình mồi trong các bụi cây thuỷ sinh, khi
phát hiện con mồi thì lao mình rất nhanh đớp lấy con mồi và dùng răng giữ chặt.
2.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng
Phương trình mối tưương quan giữa chiều dài và khối lượng cá Tràu tiến
vua là: W = 0,00202xL2,7539.
Hệ số thực nghiệm 2,7539 nằm trong khoảng 2 - 3 cho thấy sự tăng
trưởng của cá Tràu tiến vua gần như tăng đồng đều về khối lượng và chiều dài.
Sự tăng trưởng giữa cá đực và cá cái cùng tuổi cũng có sự khác nhau, cá cái có
kích thước ngắn hơn nhưng nặng hơn, con đực có thân dài, thon và nhẹ hơn con
cái (Ngô Sỹ Vân, 2006).
2.1.6. Đặc điểm sinh sản
- Cá Tràu tiến vua là loài cá phát dục sớm hơn một năm.
- Là loài cá sinh sản nhiều đợt trong năm.
- Mùa vụ sinh sản từ tháng 4 - 9 chia làm hai mùa vụ. Mùa vụ chính từ
tháng 4 - 6 và tái phát từ tháng 8 - 9.
- Sức sinh sản tuyệt đối từ 2.507 - 9.552 trứng tương ứng với cá có kích
thước từ 21,4 - 35,4cm. Sức sinh sản tương đối từ 18 - 34 trứng/g cá cái.
- Bãi đẻ thường là nơi kín gió, đáy cát hoặc bùn nơi có thực vật thuỷ sinh
nhiều, cá thường đẻ sau các trận mưa rào.
- Thời gian trứng nở dao động từ 30 - 36h tuỳ theo điều kiện nhiệt độ môi
trường cao hay thấp. Cá con mới nở dài từ 1,17 - 7,5mm (Ngô Sỹ Vân, 2006).
2.2. Tình hình nghiên cứu cá Tràu tiến vua trên thế giới
2.2.1. Trên thế giới
6
Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung trên các đối tượng cá Chuối
(Channa maculates), cá Trèo đồi (Channa asistis) và cá Sộp (Ophiocephalus
striatus). Chưa có công trình nào nghiên cứu trên cá Tràu tiến vua.
2.2.2. Trong nước
Đây là loài cá quý hiếm, gần tuyết chủng, chưa có một nghiên cứu cụ thể
nào. Năm 2005 Th.s Ngô Sỹ Vân mới tiến hành điều tra sơ bộ và đánh giá giá trị
kinh tế, xác định giống loài của cá Tràu tiến vua.
Về nghiên cứu bệnh cũng chưa có một nghiên cứu nào cụ thể, kể cả các
bệnh nói chung, cũng như bệnh ngoại KST nói riêng. Tuy nhiên về mặt kiểm tra
thì đã một đợt. Đó là đợt kiểm tra của Th.s Nguyễn Thị Hà thuộc Trung tâm
QTCB môi trường & Dịch bệnh - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I tiến
hành cách đây 2 năm. Phạm vi kiểm tra mới chỉ tiến hành trên cá giống, còn cá
bố mẹ và cá hương thì chưa. Kết quả đã xác định được một loài KST ngoại ký
sinh trên cá giống, đó là Trùng Bánh xe (Trichodinids), với tỷ lệ nhiễm 100%,
cường độ nhiễm ít 3trùng/TTKHV(10x10), nhiều 12 trùng/TTKHV(10x10).
Dưới đây là bảng kết quả kiểm tra bệnh của (Nguyễn Thị Hà)
Bảng 1: Kết quả nghiên cứu bệnh nấm, vi khuẩn và KST trên cá Tràu
giống của Nguyễn Thị Hà
Kí hiệu
mẫu
Tác nhân
Vi khuẩn
Nấm
7
Ký sinh trùng
Tên
Cường độ
- Cầu khuẩn
- Vi khuẩn dạng sợi
- Cầu khuẩn
- Vi khuẩn dạng sợi
- Cầu khuẩn
- Vi khuẩn dạng sợi
- Cầu khuẩn
- Vi khuẩn dạng sợi
- Cầu khuẩn
- Vi khuẩn dạng sợi
1
2
3
4
5
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
100
-
Trichodina sp
12trùng/TTKHV
Achlya sp Trichodina sp
8trùng/TTKHV
-
Trichodina sp
10trùng/TTKHV
-
Trichodina sp
5trùng/TTKHV
-
Trichodina sp
3trùng/TTKHV
20
100
2.3. Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng trên thế giới
Trên thế giới, nghiên cứu về KST đã xuất hiện từ thế kỷ 18, đầu tiên là
một số nghiên cứu có tính chất sơ khai của Linne (1707 - 1778. Đến thế kỷ 20,
ngành KST học cá mới thực sự phát triển. Các nhà khoa học của nhiều nước trên
thế giới đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Những thành công của họ đã từng
bước đánh dấu sự phát triển nghiên cứu về KST cá của mỗi quốc gia và thế giới.
Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu này là Viện Sỹ Dolgiel, một nhà
KST nổi tiếng của thế giới. Năm 1929, ông viết phương pháp nghiên cứu KST
cá, cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu KST cá vẫn áp dụng. Vào những năm đầu
của thế kỷ này không chỉ có Dolgiel mà còn có nhà KST học người Mỹ C.B
Wilson. Trong thời gian 2 năm 1926 - 1927, ông đã phát hiện 2 loài rận cá mới
trong khu hệ cá nước ngọt Thái Lan. Vào năm 1928, C.B Wilson lại có những
mô tả về một loài rận cá mới ở cá Trê tại đây. Ở Phillipine, nghiên cứu về KST
học cũng được phát triển vào những giai đoạn sớm trong quá trình phát triển
chung của thế giới. Năm 1947, M.A.Tubangi đã nghiên cứu phát hiện một số
loài Sán lá đơn chủ (Monogenea), Sán lá song chủ (Digenea), Giun Tròn và
Giun Đầu móc, góp phần làm phong phú thêm những phát hiện về khu hệ KST
cá nước này. Năm 1951, Velasquez đã phát hiện mô tả về một loài Giáp xác ký
sinh trên da cá (Velasquez, 1951). Ông cũng có hơn 30 công trình phân loại 8
nghiên cứu vòng đời của giun Sán ký sinh (Lumalan và Arthus, 1992). Ngành
KST học của Inđônêxia thực sự phát triển là nhờ M.Sachlan, năm 1952 ông viết
cuốn “Notes on the parasites of freshwater fish in Inđônêxia”, đây là cuốn sách
có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứư khu hệ KST cá nước ngọt tại
Phillipine sau này.
Giai đoạn từ những năm 60 đến những năm 70 của thế kỷ 20, có thể nói
đây là giai đoạn phát triển nhất của ngành KST học cá. Giai đoạn này ở Liên Xô,
Bychowsky và ctv, 1962 đã giới thiệu bảng phân loại KST cá nước ngọt ở Liên
Xô, trong đó bổ sung 1.211 loài. Bảng phân loại này sau được tái bản và bổ sung
bởi Bauer Schulman và Gussev (1984;1985) với hơn 2.000 loài.
Tại Ấn Độ, năm 1965 I Lan Parperna đã công bố 116 loài KST trên cá
nước ngọt, trong đó 20 loài Sán đơn chủ, 13 loài Sán song chủ, 43 dạng ấu
trùng, 7 loài Sán dây cả ở giai đoạn non và giai đoạn trưởng thành, một loài giun
đầu móc, một loài Đỉa, 1 loài móc lông và 6 loài Giáp xác. Theo tổng kết của
Thapar, 1976 thành phần loài trong khu hệ KST của Ấn Độ ngày một phong
phú: Tính riêng loài Sán lá đơn chủ, đến năm 1972 là 80 loài, nhưng đến năm
1973 thì con số này đã thay đổi lên tới 100 loài.
Trung Quốc là một quốc gia có ngành thuỷ sản phát triển vào bậc nhất thế
giới, theo ông Ms Cen Feng (1998) thì sản lượng thuỷ sản của nước này chiếm
50% sản lượng thuỷ sản thế giới. Trong những năm gần đây chính phủ Trung
Quốc đã đầu tư hơn 1 tỷ USD để phục vụ công tác nghiên cứu và kiểm soát
bệnh. Về vấn đề nghiên cứu KST ở Trung Quốc, đến năm 1975 Chen Chinleu và
ctv đã tổng kết và cho biết Trung Quốc đã nghiên cứu 50 loài cá nước ngọt, đã
phát hiện 382 loài KST, trong đó 159 loài nguyên sinh động vật, 7 loài giun đầu
móc, 2 loài Đỉa, 29 loài giáp xác, 10 Sán dây, 21 loài giun tròn, 33 loài Sán song
chủ và 1 nhuyễn thể. Các loài cá đã phát hiện có KST nhiều nhất là cá Mè Trắng
75 loài; cá Diếc 75 loài; Trắm Cỏ 71 loài; cá Chép 61 loài; Trắm Đen 53 loài,
tuy nhiên đây chỉ là con tổng kết của những năm trước. Đến những năm sau này,
việc nghiên cứu về KST vẫn tiếp tục được phát triển.
9
Từ sau những năm 70 đã có hàng loạt những nghiên cứu về khu hệ KST
cá ở Trung Quốc, phát hiện nhiều giống loài mới làm phong phú thêm khu hệ
KST cá nước này. Công trình nghiên cứu của Wu Zhaohe và Chen Chin Leu
(1987) trong khu hệ cá nước ngọt hồ Wuhu (Hồ Vũ) đã phát hiện 9 loài mới đối
với khoa học, chúng đều thuộc Myxospordia, các tiêu bản hiện vẫn được lưu giữ
tại Viện sinh thái. Nghiên cứu khu KST trong hệ thống sông Trường Giang từ
tháng 12 năm 1918 đến tháng 4 năm 1984, qua thu mẫu kiểm tra 766 cá của 72
loài cá nước ngọt tìm thấy 10 loài Acanthocephala, trong đó có 3 loài mới (Yu
Yi và Wu Huisheng, 1989). Bốn loài mới thuộc Myxospordia tiếp tục được tìm
thấy trên cá nước ngọt ở Danjiang (Đơn Giang) (Feng Shujuan và Wang
Jianguo, 1990).
Nghiên cứu của Xie Xiengren trên 2 loài cá (Leiocassis longirostris và
Saurrogobio Dabryi) tại Trung lưu sông Trường Giang từ tháng 7 năm 1984 đến
tháng 4 năm 1985. Xie Xiengren nhận thấy rằng các loài thuộc giống
Myxospordia như Myxidium, Macrocapsulare và Chloromyxum sp, tỷ lệ nhiễm
trên hai loài cá này rất khác nhau, các loài KST này nhiễm trên hai loài cá có
tính chất mùa vụ khác nhau (Xie Xiengren, 1988).
Từ tháng 1 - 1987 đến 1 - 1988, 192 mẫu cá Mystus macropterus đã được
thu từ sông Fujiang (Giang Phố) phát hiện 10 loài KST đơn bào thuộc 4 lớp, 7
họ và 7 giống. Trong 7 giống này có 3 giống mới: Trypanosoma hemibagri sp,
Crytobia cheni sp và Henneguya hemibagri sp. Các tiêu bản hiện đang được lưu
giữ tại Phòng sinh học - Trường Đại học Sư Phạm Tây Nam Trung Quốc (Zhang
Qizhong và Ms Chenglun, 1993).
Li Lianxiang, 1990 đã có những nghiên cứu và mô tả về một loài mới
thuộc Trichdinids, Trichdina carassii ký sinh ở mang, da và vây của cá Diếc,
một loài mới Trichophrya bivacuola sp cũng được phát hiện, chúng ký sinh trên
mang cá Megalobrama amblycephala. Khi nghiên cứu về quần thể giáp xác
Ergasilus anchoratus, ký sinh ở mang cá Oriental sheatfish, Silurus asotus. Nie
Pin nhận thấy rằng tỷ lệ nhiễm các loài giáp xác này thay đổi theo mùa. Tỷ lệ
10
cảm nhiễm thường cao ở đầu mùa Hè, thấp hơn vào mùa Thu và mùa Đông (Nie
Pin, 1998).
Mới đây khi nghiên cứu về Centrocestus formosanus (Trematoda), Zeng
Bo-Ping và Liao Xiang - Hua (2000) cho thấy sự nhiễm của loài Sán này trên
mang cá Trắm Cỏ không mang tính mùa vụ, không ảnh hưởng bởi sự thay đổi
của nhiệt độ môi trường. Nghiên cứu giun Sán trong khu hệ cá sông Pearl, tỉnh
Quảng Đông, Phan Hongle cũng đã phát hiện và mô tả 6 loài Sán thuộc họ
Bucepbedae, trong đó có 2 loài có tên mới với khoa học. Còn nhiều những
nghiên cứu khác về bệnh cá nói chung và KST nói riêng tại Trung Quốc, điều đó
càng làm sáng tỏ rằng tại sao lại có sự phát triển mạnh mẽ trong nuôi trồng thuỷ
sản như vậy.
Không chỉ ở Trung Quốc, Liên Xô, Ấn Độ, Phillipine hay Inđônêxia mà
còn nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, Malaysia, Bangladesh… cũng có nhiều
tác giả nghiên cứu KST cá. Yamaguti (1894 - 1976), nghiên cứu về giun Sán
trong số những loài ông tìm thấy trong khu hệ KST ở Nhật Bản là 90 loài và 14
giống có tên mới đối với khoa học. L.H.Lim và J.I.Furtado trong giai đoạn
nghiên cứu từ năm 1983 - 1987 phát hiện 54 loài trong khu hệ cá nước ngọt
vùng bán đảo Malaysia. Khu hệ cá nhiệt đới Bangladesh cũng tìm thấy 69 loài
giun Sán ký sinh trong đó (1 Monogenean, 24 Digeneans, 10 Caryophyllid
cestodes, 28 Nematodes và 6 Acanthocephalans) (Ahmed và Eaz, 1997). Chín
loài Monogenean (không thấy có loài Gyrodactylus) cũng được tìm thấy trên
mang của 7 loài cá nước ngọt Thái Lan (Theo Theerawoot Lerssutthichawal và
Lim, 1997).
Theo Arthus, 1992 ở Phillipine, giữa tháng 7 năm 1986 và tháng 2 năm
1990 đã kiểm tra 41 thùng hàng gồm 560 cá nước ngọt nhập khẩu vào nước này
thì 82,9% số thùng bị nhiễm từ một hoặc nhiều loài KST như Trichdina
Ichthyophthyrius, Trypanosoma, Myxobolus, Dactylogyrus, Gyrodactylus
ascocotyle, Bothriocephalus, Lernaea và Argulus.
11
Subasinghe và Sommerville (1992) đã nghiên cứu về sự nhạy cảm của
trùng quả dưa Ichthyophthyrius multifiliis đối với cá Rô phi Oreochromis
mossambicus ở giai đoạn cá hương. Pathiratne (1992) đã có những nghiên cứu
về sự ảnh hưởng của loài Rận cá Ergasilus ceylonensis tới nồng độ oxy của cá.
Từ tháng 5 - 1986 đến tháng 1 - 1988, một cuộc điều tra về KST trên cá Hồi đã
phát hiện nhiều giống loài KST (RegiDas và Arthus, 1992).
Mới đây Hoffman và ctv (1998) tái bản 2 cuốn “Ký sinh trùng Bắc Mỹ”
qua đó tổng kết thành phần loài khu hệ KST này gồm 75 giống KST đơn bào, 69
giống Trematoda trưởng thành và 34 dạng ấu trùn̜của nó. Acanthocephala có
19 giống, Crustacea là 18 giống với số lượng loài của nó là rất lớn.
2.4. Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng trong nước
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về KST ở cá nước ngọt được bắt
đầu từ năm 1960 ở miền Bắc và từ sau 1975 thì công việc đó tiếp tục được làm ở
các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu từ sau năm 1960. Công trình nghiên
cứu đầu tiên về KST và bệnh cá của TS Hà Ký (1986 - 1975), đối với nhiều loài
cá kinh tế miền Bắc. Tiếp theo là điều tra giun Đầu Móc ký sinh ở một số loài cá
nước ngọt đồng bằng Bắc Bộ của Nguyễn Thị Muội và Nguyễn Văn Thành
(1976). Rồi đến công trình nghiên cứu KST và bệnh cá của 6 loài cá Chép đồng
bằng Bắc Bộ của Bùi Quang Tề, 1977. Hà Ký và ctv (1975) có công trình
nghiên cứu KST một số loài cá ở Tây Nguyên. Với khu hệ cá nước ngọt miền
Trung, Nguyễn Thị Muội và ctv (1981 - 1985) đã có một cuộc điều tra về KST ở
đây.
Từ năm 1986 - 1989, O.Sey và Moravec thu mẫu KST của một số loài cá
nước ngọt ở sông Hồng, mẫu vật được cố định và bảo quản tại Viện bảo tàng
Động Vật trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Tại khu hệ cá nước ngọt các tỉnh phía Nam, Bùi Quang Tề và ctv (1984 1996) đã điều tra nghiên cứu KST 41 loài cá nước ngọt Đồng Bằng Sông Cửu
Long và biện pháp phòng trị bệnh do chúng gây ra.
12
Gần đây nhất là công trình nghiên cứu KST trên cá Chép Ấn Độ (Mrigal
và Rôhu) nuôi tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 1 của Nguyễn Văn
Thành (1998) phát hiện 12 loài KST. Cũng trong cùng thời gian này Bùi Quang
Tề đã có công trình nghiên cứu KST trên cá Rô phi vằn (Oreochromis niloticus)
nuôi ở đồng bằng Bắc Bộ, kết quả nghiên cứu trên 1070 con, tìm thấy 22 loài
KST.
Khu hệ cá nước ngọt nước ta theo thống kê có 544 loài, thuộc 238 giống,
97 họ. Nghiên cứu về KST, chúng ta đã làm được trên 86 loài, công việc điều tra
nghiên cứu mới chỉ đạt 16% (86/544). Tuy nhiên, đã xác định được 333 loài
KST, thuộc 112 giống, 74 họ, 19 lớp. Trong đó có 58 loài, 3 giống, 1 họ mới đối
với khoa học. Công việc nghiên cứu về KST nước ta chưa phải là nhiều nhưng
kết quả đạt được đã cho thấy thành phần KST là rất phong phú. Thành phần loài
lớn nhất là Sán lá đơn chủ, 98 loài (29.4%); tiếp theo là Myxosporidia và
Trematoda đều gặp 43 loài (12.9%); Nematoda gặp 38 loài (11.4%); lớp
Crustacea gặp 25 loài (8.4%); lớp Oligolig menophorea gặp 25 loài (7.5%). Lớp
Cestoda và Acanthcepphala đều gặp 16 loài (4.8%). Còn 11 loài khác số lượng
loài tổng cộng 26 loài, gặp ít hơn. Hầu hết các loài KST trong tổng số 333 loài
có chu kỳ phát triển trực tiếp, không thông qua ký chủ trung gian, (218 loài)
chiếm 65.5% (Bùi Quang Tề, 1999).
2.5. Một số bệnh ký sinh trùng thường gây hại cho giống cá Trèo Đồi
(Channa)
2.5.1. Trùng Bánh xe (Trichodinids)
Tìm thấy hầu hết trên da và mang cá nhưng một số thấy trong bọng nước
tiểu (Lom và HalDar, 1976). Có một số loài được tìm thấy trong ruột cá (Cunha
và Pinto, 1928), có những loài còn ký sinh trên nòng nọc và Copepoda (Migala
và Grygierek, 1972). Yin và Sposton (1948) phát hiện 1 loài trên Gyrodactylus,
một loài giống như nội ký sinh ở cá Chình (MeArthuus, 1976). Một số loài có
xu hướng ký sinh trên những ký chủ đặc biệt (Kazubski, 1965; Lom, 1961;
Wellborn, 1967). Sự nhiễm trùng Bánh xe có tính mùa vụ cao, ở nhiệt độ cực
13
thuận, KST phát triển với số lượng lớn hơn, nhất là khi thời tiết mát (Kazubski
và Migala, 1968; F.Minger, 1970). Dưới những điều kiện nào đó một số loài lại
là tác nhân gây bệnh cao (Mc.Ardle, 1984). Trùng bính xe gây hại cho nhiều cá
nuôi ở nước ta, gây tác hại chủ yếu ở cá hương và cá giống (Hà Ký , 1968; Bùi
Quang tề , 1990). Trong ao, hồ ương nuôi cá bệnh phát triển quanh năm, phổ
biến nhất vào mùa Xuân, đầu mùa Hạ và mùa Thu ở miền Bắc, vào mùa mưa ở
miền Nam (Bùi Quang Tề, 1997). Theo Hà Ký (1968) mật độ thả quá dày thì
cường độ nhiễm trùng báng xe tăng gấp 4 - 5 lần.
Đây là một loại bệnh KST khá phổ biến, trên thế giới đã dùng 21 loại hoá
chất khác nhau để trị bệnh này: Axit axetic, Formalin, Muối ăn NaCl,
Acriflavine A, Chlormin (pyrdyl Mecuric Acetate), Dichromat Kali K 2CrO7,
thuốc tím KMnO4, .....(Hoffman và Meger, 1974).
Riêng ở Việt Nam thường dùng phương pháp đơn giản, hoá chất dễ kiếm: Dùng
NaCl 2 - 3 % tắm cho cá từ 5 - 15 phút. Dùng CuSO4 nồng độ 3 - 5 ppm tắm cho
cá từ 5 - 15 phút hoặc phun xuống ao với nông độ 0,5 - 0,7 ppm (Bùi Quang Tề,
1997).
2.5.2. Trùng Mỏ neo (Lernaeosis)
Trùng Mỏ neo thuộc lớp giáp xác có số lượng loài không lớn lắm, nhưng
tác hại của chúng gây ra cũng đáng phải quan tâm. Hoffman (1998) vừa tổng kết
21 loài trùng Mỏ neo thường gây bệnh cho cá ở Bắc Mỹ. Ở Việt Nam các tác giả
nghiên cứu về KST: Hà Ký, 1968; Nguyễn Thị Muội, 1968; Bùi Quang Tề
(1990 – 1999). Tổng kết lại chúng ta đã phát hiện 6 loài trùng Mỏ neo ký sinh
trên 7 loài cá.
Tid, 1974 đã ghi lại trường hợp xảy ra ở Bắc Mỹ, trùng Mỏ neo làm thiệt
hại 18 tấn cá chép trong vòng 2 tuần lễ, cường độ nhiễm là 1.246 trùng/cơ thể
cá. Năm 1953 phát hiện thấy trùng Mỏ neo ở Inđônêsia gây bệnh nghiêm trọng
14
cho các loài cá kinh tế nước này. Bệnh lan nhanh tới các vùng khác làm thiệt hại
30 % ở các trại sản xuất chính.
Ở nước ta trong một số cơ sở sản xuất và nuôi cá trùng Mỏ neo ký sinh
trên các loài cá nuôi với tỷ lệ và cường độ nhiễm cao, gây thiệt hại cho người
sản xuất. Đặc biệt là đối với các trại ương cá hương và cá giống. Tháng 5 năm
1969 hàng loạt cá mè trắng cỡ 12 - 15cm ở hợp tác xã Tứ Hiệp Hà Nội đã bị
chết do Lernaea ký sinh. Năm 1982, 100 ao ương nuôi cá mè tỉnh Đắc Lắc, Bình
Định bị chết do Lernaea ký sinh, với cá trắm cỏ bị nhiễm Lernaea, tỷ lệ từ 70 80 %, cường độ nhiễm 5 - 20trùng/cơ thể cá thậm chí có con đếm được 80trùng.
Các loài thường gây hại cho họ cá Channidae là: Ergasilus sp;
Lamproglena chinensis; Argulus chinensis.
Theo Bùi Quang Tề (1992), để phòng và trị bệnh trùng Mỏ neo cho cá cần
tiến hành theo 3 bước.
Bước 1. Dùng vôi bột liều cao 10 - 15 kg/100m 2 tẩy ao để diệt ấu trùng
sống trong bùn đáy ao.
Bước 2. Lọc kỹ nước khi cho vào ao tránh ấu trùng xâm nhập vào ao nuôi.
Bước 3. Kiểm tra cá trước khi cho vào ao nuôi, nếu thấy cá bị nhiễm trùng
Mỏ neo thì tiến hành tắm KMnO4 nồng độ 10 – 25 ppm trong vòng 1 – 1,5 giờ.
Ở nước ta, người dân thường trị bệnh trùng Mỏ neo bằng lá Xoan với
lượng dùng 4 - 5 g/100m3 nước bón vào ao cá bị bệnh.
2.5.3. Bệnh Sán lá đơn chủ Monogenea
Lớp Sán lá đơn chủ Monogenea có khoảng 1.500 loài tuyệt đại giống loài
đều ngoại ký sinh, chúng thường ký sinh trên da, mang cá nước ngọt, cá biển, số
ít ký sinh trên giáp xác, lưỡng thê, ba ba… Lớp Sán lá đơn chủ không xen kẽ thế
hệ và cũng không thay đổi ký chủ. Sán lá đơn chủ ký sinh trên nhiều loài cá
nước ngọt ở nhiều lứa tuổi, nhưng gây bệnh nghiêm trọng nhất đối với cá
hương, cá giống, bệnh phát triển mạnh trong các ao nuôi mật độ dày, chất lượng
nước kém, với các móc răng có thể phá huỷ mang cá hút máu qua lớp biểu bì
15
của ký chủ, kết quả là cá có thể chết vì thiếu máu, hệ thống hô hấp bị hoại tử
làm cho cá gầy và chết.
Ở Việt Nam đã phát hiện gần 40 loài thuộc 10 giống của họ
Ancyrophalidae ký sinh ở cá nước ngọt thuộc các họ: Notopteridae, Sluridae,
Bagridae, Ophiocephalidae, Eleotridae, Cichlidae, mức độ nhiễm của các loài
cá khá cao tỷ lệ nhiễm từ 30 – 60 %.
Theo Bauer (1965; 1977) cho biết trường hợp một con cá mè trắng 2 tuổi
có 10.047 Dactylogyrus, cá chép cỡ 3 - 4 cm Dactylogyrus ký sinh với cường độ
nhiễm 20 - 30 có thể làm chết, tại Nepal Dactylogyrus lần đầu được tìm thấy ở
cá chép năm 1965 (Shresth, 1978). Tại Philipines Dactylogyrus đã xâm nhập và
gây tử vong 1.000 con (trong số 5.000 cá trê) trong vòng 2 ngày ở Lambang,
CanaDaba và Pampanga (Velasguez, 1975). Tỷ lệ nhiễm Dactylogyrus của các
loài cá trong hệ thống ương cá giống tại Banglades là 0 - 77 %.
Cách phòng trị: đối với bệnh Sán lá đơn chủ để trị bệnh, cá giống trước
khi thả xuống ao, hồ dùng formalin 20 ppm tắm cho cá trong thời gian 15 - 30
phút hoặc dùng NaCl tắm trong vòng 5 phút, nếu nhiệt độ cao trên 25 0C thì giảm
2% nồng độ (Bùi Quang Tề, 1997).
2.5.4. Bệnh trùng Loa kèn Epistilis
Trùng Loa kèn ký sinh ở động vật thuỷ sản Việt Nam thường gặp 4 giống
thuộc 2 họ, nhìn chung hình dạng cơ thể phía trước lớn phía sau nhỏ, có dạng
hình Loa kèn, hình chuông lộn ngược, nên có tên gọi là trùng Loa kèn. Trùng
Loa kèn bám trên Da, vây, mang cá, trên cơ mang phần phụ của tôm, trên các
chi của ếch, ba ba làm ảnh hưởng đến hô hấp sinh trưởng, ở giai đoạn ấu trùng
của tôm cá trùng Loa kèn cản trở hoạt động của ấu trùng và gây chết rải rác.
Trùng Loa kèn phân bố ở nước ngọt, mặn chúng ký sinh ở tất cả các động
vật thuỷ sản, mùa vụ xuất hiện vào mùa xuân, mùa thu, mùa đông ở miền Bắc,
mùa mưa ở miền Nam.
16
Cách phòng trị: đối với bệnh trùng Loa kèn cách phòng trị tốt nhất là giữ
vệ sinh cho các ao nuôi cá nhất là các ao ương cá hương, cá giống trước khi nuôi
phải tẩy ao, tiêu độc, mật độ cá không nên thả quá dày.
Để trị bệnh trùng Loa kèn. Theo Bùi Quang Tề, 1990 sử dụng một số hoá
chất sau: nước muối NaCl 2 - 3 % tắm cho cá 5 - 15 phút, dung CuSO 4 nồng độ
3 - 5 ppm tắm cho cá 5 - 15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao với nồng độ 0,5 0,7 ppm.
17
2.5.5. Thành phần loài KST đã tìm thấy trên họ cá Trèo Đồi Channa
Bảng 1:Thành phần loài KST trên cá Lóc (Quả) Channa striata
STT Loài KST
CQ KS
TLN
(%)
CĐN Tác giả
Lớp Myxosporea (Shulman, 1959)
1
Myxobolus oblogus Gurley,
1893
Da
21,91 1 - 3
Bùi Quang Tề,
1990
2
Apiosoma minutum (Chen,
1961)
Mang
2,17 1-5
Bùi Quang Tề,
1990
3
Trichodina nigra
Mang
36,84 1-3
Bùi Quang Tề,
1990
30,98 1-5
Bùi Quang Tề,
1990
2,81 1-8
Bùi Quang Tề,
1990 Nguyễn Thị
Muội, 1986
Lớp Monogenea
1
Trianchoratus ophiocephali
Lim, 1986
Mang
2
Gyrodactylus ophiocephali
Agussev, 1955
Mang,
Da
3
Gyrodactylus Elegans Nord
mann, 1832
Mang
Nguyễn Thị Muội,
1986
Lớp Cestoidea
1
Polyonchobothrium
Ruột,
ophiocephalina (Tseng, 1933) gan
2
Polyonchobothrium malayana
3
Proteocephalus Sagettus
(Grimm, 1872)
Gan
7,04
2-9
1-3
15,50 2-8
Bùi Quang Tề,
1990, Nguyễn Thị
Muội, 1986
Bùi Quang Tề,
1990
Lớp Trematoda
1
Asymphylodora Markewitschi
(Ergents, 1966)
Bùi Quang Tề,
1990
2
Azygiahwaygtsi yui Tsin, 1933 Ruột
7,04 1-5
Bùi Quang Tề,
1990
3
Matacercaria Exochissp
4,4
Bùi Quang Tề,
Ruột
Cơ
18
1-2
2005
4
Matacercaria Haplorchis
pumilio Looss, 1896
5
Metacercaria Clornochis
sinénes Sinensis Cobboldo,
1875
6
Metacercaria Bolboforuscon
fusus
Vây, cơ
Hà Duy Ngọ, 2003
Lớp Nematoda
1
Spinitectus ophiocepholi Hà
Ký, 1986
2
Contra caeum Spiculi
Gan,
gerumlavvae (Rudolphi, 1919) xoang
3
Neo camallnus ophiocephali
(Peurse, 1933)
Dạ dày
2,80 1-10
7,84
2-3
1-3
Bùi Quang Tề,
1990
Bùi Quang Tề,
1990
Dạ dày, 21,12 1-3 Bùi Quang Tề,
ruột
14,08 1-20 1990
Lớp Ancanthocephala
1
Pallisentis ussuriensis
(Kostylew, 1941)
Ruột
2
Pallisentis ophiocephali
(Thapar, 1930)
Ruột
3
Metachinorhynchus truttae
(Schararki, 1786)
Ruột
Nguyễn Thị Muội,
1986
11,30 1-2
2
Bùi Quang Tề,
1990
Nguyễn Thị Muội,
1990
Lớp Maxillopoda Dahl, 1956
1
Ergasilus sp
Mang
11,30 1-6
Bùi Quang Tề,
1990
2
Lamproglena chinensis Yin,
1937
Mang
5,61 2-10
Bùi Quang Tề,
1990
3
Lernaea lophiara Harding,
1950
Thân
4,22 2-7
Bùi Quang Tề,
1990
4
Argulus chinensis Ke et Yang,
Thân
1955
14,22 1-6
Bùi Quang Tề,
1990
2.5.6. Thành phần KST đã tìm thấy trên cá Lóc Bông Channa micropeltes
19
Bảng 2: Thành phần KST trên cá Lóc Bông Channa micropeltes
STT
Tên loài KST
CQKS TLN
CĐN Tác giả
Lớp Protozoa
1
Cryptopia branchiolis Nie
Da
(Inchen, 1956)
6,66
1-2
Bùi Quang Tề, 1990
2
Myxobolotus sp Te, 1990
Vây
9,76
1-3
Bùi Quang Tề, 1990
3
Myxobolus
Gurley, 1893
Da
21,91
4
Henneuga
ophiocephali Mang,
66,67
(Chakrawarty, 1938)
mật
5
Chilodonella piscicola
6
Epistylis kronwera
Da
14,6
1-5
Bùi Quang Tề, 1990
7
Trichodina
G.Stein, 1967
Mang
39,02
1-3
Bùi Quang Tề, 1990
8
Trichodina
mutabilis
Mang
Kazubski et Migala, 1968
39
1-2
Bùi Quang Tề, 1990
9
Trichodina nigra
Bùi Quang Tề, 1990
10
Trichodina nobilis
Bùi Quang Tề, 1990
11
Tripartiella
(Davis, 1947)
oblongus
gasterostei
bulbosa
1-3
1
Bùi Quang Tề, 1990
Te, 1990
Bùi Quang Tề, 1990
Mang
7,32
1-2
Bùi Quang Tề, 1990
Lớp Monogenea (Vanbeneden, 1858) By Chowsky, 1937
1
Sundanonchusmicropdeltis
Mang
(Lim et Futado, 1985)
33,92
1-90 Bùi Quang Tề, 1990
2
Sundanonchus folia cues
Mang
(Lim et Furtado, 1990)
8,92
1
3
Sundanonchus sp
1,78
1-15 Bùi Quang Tề, 1990
4
Gyrodactylus
ophiocephalia
1955
26,78
1-30 Bùi Quang Tề, 1990
Mang
Gussev, Da
Lớp Cestoidea Ruldophi, 1808
20
Bùi Quang Tề, 1990
1
Polyonchobothrium parra
Gan,
ruột
2
Proteocephalus
Grimm, 1872
Gan,
xoang
bụng
sagettus
1
12
69
1115
12,50
2-8
1,78
3
3,57
1-3
Bùi Quang Tề, 1990
1
Bùi Quang Tề, 1990
1-3
Bùi Quang Tề, 1990
1
Bùi Quang Tề, 1990
Bùi Quang Tề, 1990
Bùi Quang Tề, 1990
Lớp Trematoda Rudolphi, 1808
1
Larvaetrematodogen sp Hà
Cơ
Ký, 1986
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
1
Gnathostoma hispidum
Dạ dày 1,78
2
Larvae
contracaecum
Cơ
spiculigeram
3
Capilloiria sp Hà Ký, 1986 Dạ dày 1,78
3,57
Lớp Acanthocephala
1
Pallisentis
ophiacephali
Ruột
Thapar, 1930
11,30
1-2
Bùi Quang Tề, 1990
2
Larvae
ophiocephali
1,88
1
Bùi Quang Tề, 1990
26,78
1-25 Bùi Quang Tề, 1990
pallisentis
Gan
Lớp Maxillopoda Dahl, 1956
1
Argulus chinensis Ku et
Thận
Yang, 1955
21
Phần III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm nghiên cứu
- Viên Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 1 - Đình Bảng - Từ Sơn - Bắc
Ninh
- Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Cá bố mẹ, cá hương, cá giống cá Tràu tiến vua ương, nuôi tại phòng giống
- Viện Ngiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 1.
3.3. Thời gian thực tập
Từ 15/01 - 30/07/2008
3.4. Dụng cụ cần thiết để nghiên cứu
- Kính lúp, kính giải phẫu, thị kính x 7, X 10, vật kính, x 2, x 4, x 10, kính
Hiển vi, thị kính, x 7, x 10, x 15,Vật kính, x 4, x 10, x 40, x 100.
- Bộ đồ giải phẩu gồm các dụng cụ:
+ Dao liền cán cỡ vừa để cạo nhớt, pinxet các Loaị, loại có răng và loại
không răng, dùi nhọn giải phẩu, kéo các loại ( các loại cỡ mũi nhọn, mũi cong,
mũi bằng ), cân điện tử.
- Ngoài ra cần các loại đồ đựng khác như: Khay men, đĩa petri, các loại
cốc thuỷ tinh, ống thuỷ tinh nhỏ, túi nylon, lam kính, lamen, và các hoá chất cần
thiết khác.
- Dụng cụ đo môi trường: Nhiệt kế, Test Oxy, Test pH.
3.5. Phương pháp nghiên cứu KST
22
3.5.1. Sơ đồ định loại ký sinh trùng (V.A MUSSELIUS)
BỆNH KÝ SINH TRÙNG CỦA CÁ
BỆNH KÝ SINH ĐƠN BÀO
Bệnh nguyên
sinh động vật
Bệnh do
Sán
Bệnh do tiêm
mao trùng
Bệnh do Sán
lá đơn chủ
Bệnh do bảo
tử trùng
Bệnh do Sán
dây
Bệnh do thích
bào tử
Bệnh do Sán
lá song chủ
Bệnh do vi
bào tử
Bệnh do giun
tròn
Bệnh do trùng
lông
Bệnh do giun
đầu
BỆNH KÝ SINH ĐA BÀO
Bệnh giáp xác
Bệnh khác
Bệnh do giáp
xác chân chèo
Bệnh do nhuyễn
thể
Bệnh do giáp
xác đuôi mang
Bệnh do trùng
xoang tràng
Bệnh do giáp
xác chân đều
Bệnh do
đỉa
3.5.2. Phương pháp nghiên cứu KST đồng bộ của Viên Sỹ Dolgiel, có bổ sung
của Bychowsky Palopsky, 1968; Hà Ký, 1968.
23
Thu mẫu cá
(n = 30)
Thu mẫu
KST
Cố định và bảo quản
Làm tiêu bản
Phân loại KST
Xử lý số liệu
SƠ ĐỒ TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU KÝ SINH TRÙNG
3.5.3. phương pháp quan sát bằng mắt
Trong quá trình chăm sóc quản lý cá thì thường xuyên quan sát các hoạt
động của cá, bao gồm các hoạt động bình thường và không bình thường, khi cá
24
có biểu hiện không bình thường ghi lại biểu hiện đó rồi tiến hành thu mẫu kiểm
tra.
3.5.4. Phương pháp kiểm tra và thu mẫu KST
Thu mẫu ngẫu nhiên và thu mẫu từ những con có biểu hiện không bình
thường, và cá bị chết. Số lượng thu mẫu mỗi giai đoạn là 30 con. Tuy nhiên nếu
khi nào cá có biểu hiện không bình thường thì tiến hành thu mẫu ngay.
- Mẫu được vận chuyển bằng túi nylon chứa nước hiện trường, nếu có
mẫu cá chết thì thu riêng ra. sau khi thu mẫu vận chuyển ngay về phòng thí
nghiệm tránh KST rời khỏi ký chủ. Ghi lại thời gian thu mẫu, lý do thu mẫu.
3.5.5. Phương pháp kiểm tra và thu mẫu KST
Đầu tiên quan sát hình dạng bên ngoài, ghi lại biểu hiện tình trạng của cá,
dùng kính lúp để quan sát các KST đa bào như trùng Mỏ neo, Rận cá, và các
loài giáp xác. Đếm số lượng ghi lại sau dùng kẹp nhỏ thu lấy và cố định trong
cồn 70o C. Sau đó cạo toàn bộ nhớt trên thân cá, cạo riêng từng bộ phận để riêng
ra (với cá bố mẹ và cá giống). Riêng cá hương thì để cả con ép lên lam kính, nhỏ
thêm một giọt nước cất rồi đậy nhẹ lamen lại cho lên kính Hiển vi quan sát. khi
quan sát kính hiển vi thi nên quan sát từ mức độ phóng đại 4 X 10, 10 X 10, 10
X 40. Đếm số lượng KST quan sát được, số lượng ít thì đếm toàn bộ, nhiều thì
đếm trên các thị trường.
3.5.6. Phương pháp kiển tra và thu mẫu ở mang
Sau khi cạo nhớt trên da thì tiến hành cân trọng lượng và đo chiều dài rồi
kiểm tra mang cá. Lật nắp mang của cá để lộ ra các lá mang, dùng kéo nhỏ cắt
nắp mang sau đó cắt hai đầu của cung mang, dùng kẹp nhỏ kẹp lấy các lá mang
cho lên lam kính, cạo nhớt trên các lá mang, có thể bỏ các phần xương trục của
lá mang. Nếu là cá hương và cá giống nhỏ thì có thể để cả con ép lên lam kính
sau đó nhỏ vài giọt nước cất vào đậy lamen lại, đè nhẹ làm dàn Mỏng phần nhớt
đều dưới lamen sao cho không có bọt khí.
Đếm số lượng trùng quan sát được trên các thị trường hoặc toàn bộ số
trùng quan sát được, ghi chép lại trong phiếu điều tra KST.
25