Tải bản đầy đủ (.pdf) (194 trang)

Vấn đề tiếp nhận thơ nôm hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 194 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG PHONG TUẤN

VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN
THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 62.22.32.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Huỳnh Như Phương

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2014


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG I ............................................................................................... 13
LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN HIỆN ĐẠI VÀ VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN
THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
1.1. LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN HIỆN ĐẠI: KHÁI NIỆM VÀ
PHƯƠNG PHÁP ..................................................................................... 13
1.1.1. Chân trời nhận thức đời sống và chân trời hiểu văn bản............... 14
1.1.2. Hiểu văn bản trong trò chơi ngôn ngữ ......................................... 26
1.1.3. Logic của câu hỏi và câu trả lời của các trò chơi ngôn ngữ… . .…32
1.1.4. Phương pháp trò chơi ngôn ngữ trong nghiên cứu tiếp nhận văn học . .39


1.2. VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG .............. 45
1.2.1. Vấn đề văn bản thơ Nôm Hồ Xuân Hương từ góc độ tiếp nhận . ..45
1.2.2. Phạm vi tiếp nhận phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương …… .. ….47
1.2.3 Ảnh hưởng thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong sáng tác nghệ thuật . .51
CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 53
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG: PHÊ BÌNH
ĐẠO ĐỨC
2.1. CHÂN TRỜI PHÊ BÌNH ................................................................. 53
2.1.1. Nho giáo và phê bình đạo đức ..................................................... 53
2.1.2. Đặc điểm của phê bình đạo đức ................................................... 58
2.2. CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI ......................................................... .61
2.2.1. Song đề của nghệ thuật và đạo đức ............................................. 67
2.2.2. Đạo đức cá nhân và trách nhiệm xã hội ...................................... 75
CHƯƠNG 3 .............................................................................................. 84


VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG:
PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC
3.1. CHÂN TRỜI PHÊ BÌNH .................................................................. 84
3.1.1. Sự khám phá cái cá nhân ............................................................ 85
3.1.2. Đặc điểm của phê bình phân tâm học ......................................... 90
3.2. CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI .......................................................... 99
3.2.1. Sự viện dẫn phương pháp khoa học .......................................... 102
3.2.2. Nỗi đau từ vô thức ..................................................................... 120
CHƯƠNG 4 ............................................................................................ 128
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG:
PHÊ BÌNH VĂN HỌC MÁC-XÍT
4.1. CHÂN TRỜI PHÊ BÌNH ................................................................ 128
4.1.1. Ngôn ngữ chính trị trong phê bình văn học Mác-xít .................. 128
4.1.2. Đặc điểm của phê bình văn học Mác-xít .................................... 139

4.2. CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI……………………………………...141
4.2.1. Vũ khí đấu tranh giai cấp ........................................................... 144
4.2.2. Sự viện dẫn đại tự sự ................................................................. 160

PHẦN KẾT LUẬN ...…………………………………………………….176
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 180


1

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.1.

Lý do chọn đề tài

Thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học độc đáo. Thứ
nhất, những bài thơ này tồn tại trong xã hội phong kiến nho giáo, nhưng thể
hiện cảm nhận thế giới với cái nhìn thấm đẫm tính dục và nhục thể. Nếu so
với các tác phẩm thơ của Hoàng Chân Y ở Triều Tiên, Hàn Ốc ở Trung
Quốc, Louise Labé ở Pháp thì thơ nữ sĩ thể hiện vẻ đẹp nữ tính ở góc độ
nhục thể một cách táo bạo nhất. Hơn nữa, góc độ này còn được hội tụ thành
một nhãn kiến, một cách nhìn thế giới và con người, một cách tự nhìn mình
và nhìn người khác. Thứ hai, nội dung trữ tình trong những bài thơ này thể
hiện một ý thức cá nhân mạnh mẽ. Đó là cá tính của tâm trạng trữ tình thể
hiện trong những khao khát rất con người, vượt ra ngoài phạm vi “ngôn chí”;
là cá tính trong cách nhìn nhận đánh giá cuộc sống, con người và thiên nhiên,
vượt ra ngoài quan niệm nho giáo. Nhưng tiêu biểu hơn cả là cá tính trong
nghệ thuật ngôn từ, qua sự sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật, và qua một quan

niệm mới về ngôn ngữ như là một phương diện hình thức thẩm mĩ, không có
sự phân giới nhã/tục, vượt ra ngoài phạm vi quan niệm ngôn ngữ thẩm mĩ
của nho giáo.
Nghiên cứu lịch sử một hiện tượng có những đặc trưng thuộc về quan niệm
văn học, quan niệm thẩm mỹ như nêu trên gợi mở nhiều vấn đề của hiện đại hóa ý
thức văn học, ý thức thẩm mỹ trong phê bình văn học.
Trong thực tiễn văn học Việt Nam hiện nay, vấn đề tiếp nhận các tác
phẩm văn học có yếu tố tính dục và nhục thể, hay vấn đề đánh giá giá trị văn
học của các tác phẩm này vẫn là vấn đề có tính thời sự. Hiện còn tồn tại


2

những tranh luận, bất đồng giữa các nhà phê bình, nghiên cứu khi đánh giá
các hiện tượng thơ, văn hiện đại có yếu tố tính dục .Vì vậy, nghiên cứu tiếp
nhận hiện tượng thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một cách trở về với kinh
nghiệm lịch sử của quá khứ để tìm hướng tiếp cận những hiện tượng này;
đồng thời góp phần hướng đến một góc nhìn đánh giá cởi mở, hợp lý hơn đối
với các hiện tượng văn học đương đại khác.
Thực tiễn tiếp nhận phê bình văn học là một phần của lịch sử văn học,
cũng là một phần của ý thức văn học, hay nói như Belinski, là “mỹ học đang
vận động”. Nghiên cứu trường hợp tiếp nhận một hiện tượng độc đáo như
thơ Nôm Hồ Xuân Hương là một con đường để tiếp cận sự vận động hiện đại
hóa của phê bình văn học, của quan niệm thẩm mỹ, trong biểu hiện lịch sử cụ
thể của nó qua các khuynh hướng phê bình.
Lựa chọn đề tài này, luận án ứng dụng hướng nghiên cứu lịch sử chức
năng của tác phẩm văn học; cụ thể, luận án vận dụng phương pháp nghiên
cứu lịch sử tiếp nhận của Hans Robert Jauss, dựa trên cơ sở những gợi ý của
ông trong giai đoạn hậu kỳ của hành trình nghiên cứu. Do đó, ở bình diện lý
luận, luận án lần đầu tiên khai triển và vận dụng những khái niệm được phát

triển và gợi ý trong mỹ học tiếp nhận và thông diễn học văn học của Hans
Robert Jauss: ‘logic của câu hỏi và câu trả lời’, ‘chân trời’ và ‘trò chơi ngôn
ngữ’.
1.2.

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm phân tích trường hợp tiếp nhận
thơ Nôm Hồ Xuân Hương qua ba khuynh hướng phê bình phê bình đạo đức,
phê bình phân tâm học, phê bình văn học Mác-xít. Luận án vận dụng khái
niệm “logic của câu hỏi và câu trả lời” để phân tích sự chuyển hướng và tiến
triển giữa chúng. Trong mỗi hướng phê bình cụ thể, luận án phân tích làm rõ
mối quan hệ giữa chân trời tiếp nhận và ý nghĩa của văn bản thơ được tiếp


3

nhận trong chân trời đó. Luận án cũng phân tích những quy ước và quy tắc
của phê bình, tiếp nhận văn học trong một giai đoạn văn học, cụ thể là các
văn bản phê bình của Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu, Trần Thanh Mại và
Xuân Diệu.
2. PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.

Phạm vi đề tài

Tuy cho đến nay đã có nhiều khuynh hướng phê bình khác nhau tiếp
cận, lý giải thơ Nôm Hồ Xuân Hương; nhưng vận dụng phương pháp logic
của câu hỏi và câu trả lời, luận án chỉ giới hạn phạm vi đề tài trong những
khuynh hướng phê bình có tác động nổi bật đến lịch sử tiếp nhận hiện tượng

văn học này tại Việt Nam. Cụ thể, luận án phân tích sự tiếp nhận của các
khuynh hướng: phê bình đạo đức, phê bình phân tâm học, phê bình của chủ
nghĩa Marx.
Sự lựa chọn các khuynh hướng và các công trình tiêu biểu chỉ có tính
tương đối, vì bản thân một số những công trình cụ thể vẫn có sự đan xen nhất
định các khuynh hướng phê bình khác nhau. Mặt khác, phạm vi của luận án
không bao gồm một số công trình có giá trị nhưng chưa tạo thành hay nằm
trong phạm vi khuynh hướng tiếp nhận tiêu biểu và có ảnh hưởng. Có thể kể
ra ở đây một số công trình như trên: Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương
của Đỗ Long Vân, Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Đỗ Đức Hiểu…
Luận án tiến hành khảo sát, phân tích vấn đề trên cơ sở những kết quả
phê bình, tiếp nhận thể hiện qua các văn bản phê bình, nghiên cứu. Những
văn bản trong phạm vi của đối tượng nghiên cứu được tuyển chọn dựa trên
tính tiêu biểu của chúng đối với khuynh hướng phê bình, tính tiên phong
trong việc vận dụng một góc nhìn mới của phê bình, và tầm ảnh hưởng đối
với những công trình phê bình đến sau.


4

Trong quá trình phân tích, luận án xem toàn bộ những phương diện
khác nhau của các ý kiến phê bình như là hệ quả từ những cơ sở tất yếu trong
chân trời tiếp nhận. Luận án chú ý giải thích cơ sở này và làm rõ mối liên hệ
nhân quả giữa chân trời và ý nghĩa văn học có từ góc độ chân trời ấy. Chẳng
hạn như vấn đề về phương pháp phê bình phân tâm học vận dụng cho thơ Hồ
Xuân Hương trong ý kiến của Nguyễn Văn Trung, hay vấn đề xã hội học
nghiêng về mặt dung tục của phương pháp phê bình Mác-xít.
Cuối cùng, bản thân thơ Nôm Hồ Xuân Hương là hiện tượng văn học
vẫn còn nhiều phương diện chưa có sự thống nhất cơ bản: vấn đề tác giả, vấn
đề tác phẩm, số lượng tác phẩm, các vấn đề văn bản học của tác phẩm….. Dù

bản thân những vấn đề này là một phần của lịch sử tiếp nhận, do phạm vi
mục đích đề tài, nên luận án không đưa vào phạm vi nghiên cứu.
2.2.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân
Hương qua các khuynh hướng phê bình phê bình đạo đức, phê bình phân tâm
học, phê bình văn học Mác-xít, với các công trình phê bình tiêu biểu của Ngô
Tất Tố, Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu, Hoài Thanh, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn
Lộc, Trần Thanh Mại, Xuân Diệu…; và các ý kiến tiếp nhận của Vũ Trọng
Phụng, Dương Quảng Hàm, Phan Kế Bính….

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Cho đến nay, trừ các luận văn có tính chất thực hành nghiên cứu, chưa
có một công trình nào chính thức đặt vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân
Hương như một đối tượng nghiên cứu, mà chỉ có những công trình đề cập
đến một số phương diện nhất định của vấn đề này. Có thể tạm sắp xếp các
công trình này vào ba loại, dựa trên mức độ tiếp cận và giải quyết vấn đề.
a) Mô tả các tài liệu phê bình về thơ Nôm Hồ Xuân Hương


5

Hiện có một công trình thuộc loại này. Đó là bài viết “Sức sống thơ
Hồ Xuân Hương và việc tiếp nhận” của Nguyễn Hữu Sơn và Vũ Thanh, in
trong quyển Hồ Xuân Hương, tác gia và tác phẩm, năm 2007 [62]. Trong bài
viết, tập thể tác giả liệt kê các tài liệu và hướng tiếp cận vấn đề về tác giả,
văn bản và phê bình thơ trong lịch sử. Ưu điểm của bài viết này là nó cung
cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quan toàn bộ các chặng đường phê bình

nghiên cứu trong lịch sử vấn đề và một số lượng tư liệu khá đầy đủ về mặt
phê bình, tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Bài viết có một số nhận định gợi ý về những trường hợp phê bình tiếp
nhận hiện tượng thơ này. Nhận định về bài phê bình của Trần Thanh Mại, tập
thể tác giả cho rằng: “Tác giả có nhiều ý kiến sắc sảo, song vẫn bộc lộ cách
phân loại và đánh giá thơ có phần cơ giới ấn tượng – điều này chứng tỏ các
phương hướng nghiên cứu cũ đã đi đến tận cùng biên giới trước hiện tượng
thơ Hồ Xuân Hương” [62; tr.26]. Nhận định này nêu lên được giới hạn của
phê bình theo quan niệm của chủ nghĩa Marx. Tuy nhiên, trong phạm vi một
bài giới thiệu tổng quát, bài viết mới dừng ở phương diện nhận xét, chưa đi
sâu phân tích, đánh giá những công trình phê bình cụ thể.
b) Nghiên cứu liên quan đến phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Hiện có hai công trình thuộc loại này. Công trình thứ nhất là quyển
Lược khảo văn học, Tập 3: Nghiên cứu và phê bình văn học của Nguyễn Văn
Trung, Nam Sơn xuất bản, tại Sài Gòn, năm 1968. Trong mục trình bày về
phê bình phân tâm học, Nguyễn Văn Trung đã điểm lược hai công trình phê
bình phân tâm học của Nguyễn Văn Hanh và Trương Tửu. Trong công trình,
Nguyễn Văn Trung có một luận điểm quan trọng về vấn đề tiếp nhận hiện
tượng thơ này từ góc độ phân tâm học tại Việt Nam: “Hễ nói đến cái tục
trong thơ Hồ Xuân Hương là phải nghĩ ngay đến ẩn ức của Freud. Nhưng
thực ra, đó là một ngộ nhận lớn về cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương và về


6

khái niệm ẩn ức của Freud. Ngộ nhận đã gắn liền cái tục với hiện tượng ẩn
ức. Do đó ngộ nhận đã áp dụng phương pháp phân tâm học của Freud vào
Hồ Xuân Hương vì sự thực lại trái ngược hẳn. Nếu muốn áp dụng phân tâm
học vào văn chương, thì không phải thứ văn chương tục, mà là thứ văn thanh
bề ngoài không dính líu gì đến cái tục”[84; tr.163,164]. Ông cũng cho rằng

nếu coi Hồ Xuân Hương như là nhà thơ khuyết danh, vì chưa xác thực được
tác giả, thì không thể áp dụng phân tâm học khi chưa biết rõ tiểu sử người bị
bệnh để có thể phân tích tâm lý. Đây là những phản biện quan trọng, có cơ sở
và có ý nghĩa đối với cả phạm vi nghiên cứu tiếp nhận; vì nó gợi ý một góc
nhìn thuộc về phương pháp và hướng tiếp cận.
Tuy nhiên, cần có một nhìn nhận sâu hơn về nguyên nhân dẫn đến
cách thức vận dụng phương pháp như vậy. Đây không chỉ là sự vận dụng sai,
mà có nguyên nhân sâu xa thuộc về xu hướng hiện đại hóa, khoa học hóa của
văn học và văn hóa đấu thế kỷ XX nói chung và mục đích cá nhân của nhà
phê bình nói riêng.
Công trình thứ hai là Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy, của Đỗ
Lai Thúy, nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, năm 2010 [73]. Trong phần
trình bày về phê bình phân tâm học, Đỗ Lai Thúy đã điểm qua những vận
dụng phân tâm học vào nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Nguyễn
Văn Hanh, Trương Tửu, và của chính ông, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy. Khái
quát công trình của Nguyễn Văn Hanh, ông cho rằng chúng có một sơ đồ lý
thuyết “dồn nén -> ẩn ức -> thăng hoa” [73; tr.221]. Trao đổi với ý kiến của
Nguyễn Văn Trung về việc không thể vận dụng phân tâm học vào nghiên
cứu hiện tượng thơ này, Đỗ Lai Thúy cho rằng quan điểm của Nguyễn Văn
Trung “chưa hẳn đã đúng” vì thơ Nôm Hồ Xuân Hương là đố thanh giảng
tục và do các lý thuyết mới về phân tâm học vẫn có khả năng phân tích văn
bản từ góc độ phân tâm mà không cần viện dẫn đến tiểu sử tác giả.


7

c) Nghiên cứu các hướng phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Đây là hình thức tiệm cận nhất với đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Trong hình thức này, có giá trị hơn cả là chương 1 trong quyển Hồ Xuân
Hương, hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai Thúy, nhà xuất bản Văn hóa Thông

tin ấn hành, năm 1999. Sau đó, sách này được in lại lần thứ hai có sửa chữa,
tại nhà xuất bản Văn học, năm 2010 [72]. Trong chương 1, tác giả điểm lại
các khuynh hướng tiếp cận: tiếp cận xã hội học, tiếp cận phân tâm học Freud,
tiếp cận từ nguyên lý hội hóa trang, đường đến nhân học văn hóa. Ngoài
phần mô tả các công trình phê bình theo từng hướng tiếp cận, tác giả có
những kết luận có giá trị về lịch sử phê bình hiện tượng thơ này.
Nhận định về phương pháp phê bình văn học theo khuynh hướng xã
hội học Mác-xít, tác giả viết: “Trước hết, các nhà nghiên cứu thấy cái dâm
cái tục là vũ khí để nhà thơ đấu tranh chống lại tầng lớp thống trị. Đồng thời
qua đó thấy được chế độ phong kiến thời Hồ Xuân Hương sống đã đi vào
thối nát, suy đồi. Nhân dân lao động nhất là phụ nữ, đã đứng lên đòi quyền
sống của họ, đòi quyền được hạnh phúc, được yêu, kể cả tình yêu thể xác”
[72; tr.30,31]. Ông cũng chỉ ra những hạn chế của phương pháp này: “Tiếp
cận từ quan điểm xã hội học tuy vậy rất dễ sa vào phương pháp diễn dịch. Từ
những định đề có trước do xã hội học cung cấp, đôi khi, người ta chỉ tìm
trong tác phẩm các tư liệu minh họa cho những kết luận có sẵn” [72; tr.33].
Nhìn chung, Đỗ Lai Thúy đã có những nhận xét hợp lý về thành công, hạn
chế của phương pháp phê bình Mác-xít, tuy ông chưa đi vào phân tích sâu
vấn đề bản thân khuynh hướng phê bình vận hành và để lại những tác động
như thế nào. Ông cũng chưa đặt nó vào bối cảnh văn hóa xã hội để làm rõ
một số đặc điểm riêng của nó.
Nhận định về hướng tiếp cận phê bình phân tâm học, tác giả viết: “Sự
tiếp cận dâm tục từ quan điểm phân tâm học của Freud đã mở ra một không


8

gian mới trong nghiên cứu hiện tượng thơ này. Như vậy, việc giải thích yếu
tố dâm tục đã được chuyển dịch từ bình diện xã hội học sang bình diện tâm
lý học sáng tạo. Con người trong thơ Hồ Xuân Hương, và cả bản thân nhà

thơ nữa, không chỉ là con người kinh tế đơn thuần, mà là một con người tâm
lý, có tâm hồn, tư tưởng, khát vọng, có những điều hiển nhiên, duy lý và có
cả những điều bí ẩn, phi lý. Nhờ đó, con người trở nên phong phú, đa diện và
có tính vô tận. Tuy nhiên, trong lối tiếp cận này còn có những nhược điểm do
cách hiểu chưa sâu, hoặc chưa đúng về học thuyết Freud. Thậm chí, có khi
nhà nghiên cứu chỉ theo nó như một thứ mốt như bác sĩ Trực Ngôn trong Số
đỏ, hoặc chưa hiểu rõ phê bình tâm phân học, nên cứ tưởng rằng con đường
đi từ ẩn ức tình dục của tác giả đến sự thăng hoa thành thơ văn là thẳng băng,
trực tiếp, cũng như trên kia người ta hiểu con đường từ đàn áp kinh tế đến
làm thơ phản kháng vậy” [72; tr.40]. Nhận xét trên của Đỗ Lai Thúy là có sơ
sở. Tuy vậy, do mục đích nghiên cứu, ông cũng chưa đi đến tận cùng trong
phân tích của mình để chỉ ra nguyên nhân do đâu lại có sự vận dụng như vậy.
Vấn đề ở đây không chỉ là “lối tư duy đại khái, thực dụng” của người Việt
Nam trong cách vận dụng những học thuyết từ bên ngoài, như kết luận của
ông. Mà vấn đề nằm ở nguyên nhân sâu xa hơn đến từ tiến trình hiện đại hóa
văn học, từ mục đích biện minh cho thơ Nôm Hồ Xuân Hương của những
nhà phê bình.
Do yêu cầu của hướng nghiên cứu, nên Đỗ Lai Thúy chưa có điều kiện
phân tích tính lịch sử của tiến trình tiếp nhận từ một phương pháp thích hợp.
Mặt khác, trong việc khái quát các hướng tiếp cận, ông cũng chưa chú ý
đúng mức đến hướng tiếp cận phê bình đạo đức truyền thống. Theo chúng
tôi, phê bình theo quan điểm đạo đức truyền thống là một khuynh hướng tuy
biểu hiện không rõ và có những hạn chế trong việc tìm hiểu ý nghĩa thơ nữ sĩ
vì các nhà phê bình theo khuynh hướng này có khen ngợi tài thơ, nhưng hầu


9

như hoàn toàn phê phán và phủ nhận giá trị thơ; nhưng xét về mặt ảnh
hưởng, mặt lịch sử tác động, chính thái độ phê phán, phủ nhận của họ đã tạo

ra những tác động để các nhà phê bình giai đoạn sau tìm kiếm câu trả lời hợp
lý hơn. Mặt khác, bản thân câu hỏi về giá trị của hiện tượng văn học này do
phê bình đạo đức gợi ra luôn là câu hỏi cơ bản, thách thức ranh giới của mọi
chân trời tiếp nhận. Tuy vậy, nhìn chung, công trình của Đỗ Lai Thúy đã
phác họa những nét chính yếu và cơ bản cho việc nghiên cứu nói chung, và
nghiên cứu vấn đề tiếp nhận hiện tượng thơ này nói riêng.
Tóm lại, những công trình đã nêu, dù đã có những gợi ý quan trọng
cho luận án về mặt tư liệu và góc nhìn, đánh giá, nhưng vẫn chưa có những
phân tích xuyên suốt, hệ thống, làm rõ mối quan hệ giữa văn bản và ý nghĩa,
giữa chân trời chờ đợi của văn bản và chân trời chờ đợi của khuynh hướng
phê bình. Đây là những tiền đề để luận án tiếp nối, bổ sung, sử dụng phương
pháp nghiên cứu thích hợp để làm rõ sự chuyển tiếp lịch sử giữa các khuynh
hướng phê bình, trong phạm vi trò chơi ngôn ngữ của hình thức cuộc sống.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận án là phương pháp lịch sử
chức năng, được vận dụng để phân tích, mô tả tiến trình mở rộng ý nghĩa thơ
Nôm Hồ Xuân Hương trong những chân trời tiếp nhận khác nhau theo tiến
trình lịch sử. Luận án vận dụng các thao tác phân tích, so sánh để phân tích
kết quả tiếp nhận trong mối quan hệ với bối cảnh xã hội, lý giải mối quan hệ
giữa quan điểm phê bình trong chân trời tiếp nhận và kết quả phê bình trong
văn bản phê bình.
Về mặt phương pháp đặc thù cho đối tượng nghiên cứu, luận án vận
dụng các khái niệm chủ chốt của lý thuyết tiếp nhận được khai triển và gợi ý
trong các công trình của Hans Robert Jauss. Cụ thể, luận án vận dụng bình
diện bao quát của khái niệm “chân trời” của hiểu và lý giải để phân tích


10

những điều kiện, tiền đề của tiếp nhận (chương 2, 3, 4). Trên cơ sở quan

niệm này cùng với mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích sự tiếp nhận
chung của khuynh hướng phê bình, không phải là sự tiếp nhận của cá nhân
một người đọc, nên luận án dựa trên bình diện rộng nhất của khái niệm chân
trời để phân tích sự tạo thành từ quá khứ của mỗi hướng tiếp cận phê bình.
Lựa chọn này cho phép luận án phân tích lịch sử tác động của vấn đề nghiên
cứu trong một diễn trình văn hóa. Cụ thể là hướng phân tích này cho phép
nhìn nhận sự tạo thành của các vấn đề quan niệm thẩm mỹ nho giáo, lịch sử
sự biểu hiện của cái cá nhân, và sự tạo thành của quan niệm về mối quan hệ
giữa văn học và chính trị xã hội.
Mặt khác, chân trời luôn bao hàm những thành tố mới được hình thành
trong bối cảnh hiện tại của văn hóa xã hội. Phân tích chân trời phê bình cần
phải xem xét cả những thành tố mới này. Cụ thể, luận án xem xét những điều
kiện của văn hóa, xã hội hiện tại hình thành nên các khuynh hướng hay đặc
điểm của các khuynh hướng phê bình đạo đức, phê bình phân tâm học và phê
bình Mác-xít. Để làm rõ hơn đặc trưng chân trời phê bình, luận án cũng trình
bày một số khía cạnh của từng khuynh hướng phê bình cụ thể, chủ yếu là
những khía cạnh mang những đặc thù riêng trong bối cảnh Việt Nam.
Luận án vận dụng xuyên suốt khái niệm “logic của câu hỏi và câu trả
lời” để phân tích tiến trình tiếp nhận và mở rộng ý nghĩa của thơ Nôm Hồ
Xuân Hương được chuyển tiếp trong những chân trời cụ thể: phê bình đạo
đức, phân bình phân tâm học, phê bình Mác-xít (chương 2, 3, 4). Dựa trên
quan điểm này, luận án phân tích những câu hỏi đặc trưng trong thơ Nôm Hồ
Xuân Hương vốn thách thức các chân trời lý giải (chương 2).
Trong chương 3, 4, luận án sử dụng khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” để
phân tích trường hợp tiếp nhận phê bình phân tâm học và phê bình Mác-xít
trong những bối cảnh xã hội đặc thù: hiện đại hóa và cách mạng hóa.


11


5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Về mặt lý luận, luận án bước đầu khai triển và vận dụng gợi ý của
Jauss về mối liên hệ giữa các khái niệm: “chân trời”, “trò chơi ngôn ngữ”,
“logic của câu hỏi và câu trả lời” để làm rõ những chuyển hướng trong lịch
sử tiếp nhận phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương tại Việt Nam thông qua các
khuynh hướng phê bình tiếp nhận tiêu biểu. Luận án cũng trình bày, phân
tích những khía cạnh chính của những khái niệm chủ chốt trong lý thuyết
tiếp nhận.
Về mặt nghiên cứu vận dụng, luận án phân tích, miêu tả một số hướng
tiếp nhận tiêu biểu về thơ Nôm Hồ Xuân Hương tại Việt Nam trong giai
đoạn hiện đại hóa đầu thế kỷ XX, giai đoạn cách mạng hóa 1945 – 1975: phê
bình đạo đức, phê bình phân tâm học, phê bình Mác-xít. Trên cơ sở phân tích
những khuynh hướng này, luận án rút ra một số kinh nghiệm tiếp nhận tác
phẩm văn học có yếu tố tính dục và nhục thể.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án có ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung chính có bốn chương.
Chương 1: Lý thuyết tiếp nhận hiện đại và vấn đề tiếp nhận thơ Nôm
Hồ Xuân Hương. Đây là chương cơ sở lý thuyết của luận án. Chương này
trình bày sự hình thành và nội dung của các khái niệm lý thuyết chủ chốt
được vận dụng trong luận án: “chân trời”, “trò chơi ngôn ngữ”, “logic của
câu hỏi và câu trả lời”. Luận án cũng trình bày phương pháp nghiên cứu tiếp
nhận do Jauss gợi ý trong sự lien hệ giữa khái niệm “chân trời” và khái niệm
“trò chơi ngôn ngữ”. Phần còn lại của chương trình bày khái lược phạm vi
các vấn đề của tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Chương 2: Vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương: phê bình đạo
đức. Chương này phân tích chân trời tiếp nhận và sự lý giải ý nghĩa của phê


12


bình đạo đức về thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Chân trời ấy có nguồn gốc từ bề
sâu trong văn hóa nho giáo thời trung đại, tác động đến những quan điểm
tiếp nhận của các nhà nho đầu thế kỷ XX.
Chương 3: Vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương: phê bình phân
tâm học. Chương này phân tích chân trời tiếp nhận và sự lý giải nghĩa của
phê bình phân tâm học. Chân trời ấy có cơ sở từ sự khám phá và biểu hiện
cái cá nhân trong truyền thống văn hóa Việt Nam, có bước chuyển biến
mạnh mẽ từ giai đoạn tiếp xúc văn hóa phương Tây, nhằm nỗ lực biện minh
cho tiếng nói cá nhân trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Chương 4: Vấn đề tiếp nhận thơ Nôm Hồ Xuân Hương: phê bình văn
học của chủ nghĩa Marx. Chương này phân tích chân trời tiếp nhận và sự lý
giải ý nghĩa thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong phê bình văn học Mác-xít. Bắt
nguồn từ bối cảnh chính trị xã hội đặc thù của Việt Nam, hướng tiếp nhận
này trở thành một khuynh hướng chủ đạo chi phối sự tiếp nhận thơ Nôm Hồ
Xuân Hương trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XX.


13

CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN HIỆN ĐẠI VÀ
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG

1.1. Lý thuyết tiếp nhận hiện đại: khái niệm và phương pháp
Lập trường của mỹ học tiếp nhận về tác phẩm văn học có nguồn
gốc từ lập trường của Husserl về nhận thức. Theo đó, vấn đề không phải là
người sáng tác thực sự gởi gắm tư tưởng gì trong tác phẩm, tác phẩm phản
ánh hiện thực thời đại của nó ra sao, tác phẩm có cấu trúc bất biến như thế
nào, mà vấn đề là tác phẩm xuất hiện cho người đọc như thế nào. Ở đây,

trong phạm vi đề xuất lý thuyết, mỹ học tiếp nhận lần đầu tiên nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của người đọc, và vai trò của họ đối với lịch sử văn học.
Cũng như hiện tượng học của Husserl, mỹ học tiếp nhận tạm thời đặt sang
một bên vấn đề sáng tác, vấn đề phản ánh hiện thực, vấn đề cấu trúc hình
thức của tác phẩm, để đi vào tìm hiểu vấn đề tiếp nhận, hiểu và lý giải tác
phẩm. Điều đó không có nghĩa là mỹ học tiếp nhận không biết đến vai trò
của sáng tác, hay bác bỏ mối liên hệ giữa tác phẩm và hiện thực đời sống,
hay phủ nhận tầm quan trọng của cấu trúc tác phẩm; mà chỉ đơn giản có
nghĩa là, mỹ học tiếp nhận tạm đặt sang một bên các vấn đề ấy, để ưu tiên
cho việc tìm hiểu tiến trình tiếp nhận, và xem xét tiến trình này có tác động
ngược lại, cũng như có quan hệ tương tác như thế nào với vấn đề sáng tác,
vấn đề phản ánh hiện thực và vấn đề cấu trúc tác phẩm. Trong lập trường
này, mỹ học tiếp nhận đã kế thừa và khai triển một số quan niệm của Husserl
trong hiện tượng học, của Gadamer trong thông diễn học triết học, trong đó
có khái niệm và quan niệm về “chân trời” 1. Nói một cách giản đơn, tác
1

Có những cách dịch khác nhau cho khái niệm “horizont” trong khái niệm “Erwartungshorizont”
(tiếng Đức) của Hans Robert Jauss: tầm đón đợi, tầm đón nhận, chân trời chờ đợi. Khác nhau là


14

phẩm không xuất hiện cho người đọc từ chân không, mà trong một không
gian, bối cảnh ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử, tức là trong chân trời của nó,
chân trời ở đó nó có ý nghĩa; cũng vậy, người đọc đến với tác phẩm không
như một sinh thể không ký ức, không ngôn ngữ, hoàn toàn trống rỗng, mà
có một không gian văn hóa và kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đọc, tức là có
chân trời của riêng mình. Việc đọc không đơn thuần là việc tiếp nhận, lý giải
nghĩa, mà là sự hòa trộn, sự đối thoại giữa các chân trời: chân trời hiện tại và

cá nhân của người đọc với chân trời quá khứ và lịch sử của tác phẩm. Do đó,
vấn đề tương tác, đối thoại, hòa trộn và biến đổi chân trời trở thành những
vấn đề trung tâm của thông diễn học và mỹ học tiếp nhận.
1.1.1. Chân trời nhận thức cuộc sống và chân trời hiểu văn bản
Khái niệm “chân trời” (tiếng Đức: Horizont; tiếng Anh: horizon) xuất
phát từ động từ tiếng Hi Lạp: horizō, có nghĩa là đánh dấu các ranh giới, hạn
định không gian hay sự vật nào đó. Đây là một khái niệm vừa có nét nghĩa
hẹp vừa có nét nghĩa rộng. Theo nghĩa thông thường, chân trời giới hạn tầm
nhìn của mỗi người; nhưng khi họ đi tiếp hoặc lên cao hơn thì có thể mở
rộng chân trời quan sát của chính mình; theo nghĩa rộng hơn, chân trời là
giới hạn kinh nghiệm của mỗi người trong một thời điểm nhất định; nhưng
họ luôn có thể mở rộng giới hạn kinh nghiệm này bằng hành trình sống hiện
tại của mình. Nhìn nhận khái niệm “chân trời” trong hoạt động hiểu nói
chung, Nicholas Bunnin và Jiyuan Yu viết: “Một chân trời là một khuôn khổ
hay một trường của nhãn quan trong đó ta hiểu. Mỗi người với tư cách một
tồn tại lịch sử bị điều kiện hóa bởi một truyền thống và văn hóa, và vì vậy,
cư ngụ trong một chân trời nào đó. Một chân trời là một thế giới cuộc sống
của con người. Một sự hiểu khách quan thuần túy, và vì thế, thoát ly khỏi

do sự lựa chọn từ cho khái niệm “horizont”. Chúng tôi chọn cách dịch được Huỳnh Như Phương,
Bùi Văn Nam Sơn đề nghị: chân trời.


15

chân trời cụ thể của một người là không thể có được. Nghĩa của văn bản
được xác định trong một chân trời nào đó. Để đạt đến sự hiểu lịch sử, ta phải
đạt được một chân trời lịch sử và lý giải dựa vào bản thân tồn tại lịch sử và
chân trời truyền thống quá khứ, hơn là dựa vào tiêu chuẩn đương thời và
những tiên kiến của ta. Bản thân một chân trời luôn trong quá trình tạo thành.

Hiện tượng những chân trời là nền tảng cho vòng tuần hoàn thông diễn. Điều
này cũng gợi ra rằng vì lẽ mọi sự hiểu có thể đạt được dựa vào bối cảnh của
một chân trời khả nghiệm, nên không có việc hiểu nào là hoàn tất hoặc thoát
khỏi sai lầm. Đặc tính viễn tượng của khái niệm chân trời bị giam hãm bởi
khái niệm điểm nhìn, vì chính khái niệm khiêm tốn hơn này, dù sao đi nữa,
làm rơi mất một vài phương diện sâu sắc hơn của khái niệm chân trời” [98;
tr.311]. Đây cơ bản cũng là quan niệm mà Jauss chấp nhận, ông viết: “Chân
trời là cái gì đặt định giới hạn tầm nhìn của ta, tuy nhiên [chân trời] có thể
hoặc là cố định và vững bền, tức là xét như giới hạn luôn khép kín giữa nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính; hoặc là biến đổi và mở rộng, được hiểu
với tính cách như phạm vi lịch sử đơn nhất và hiện thời, tự mở ra khi kinh
nghiệm được biến đổi và không thể đoán trước khi các chân trời mới được tái
lập liên tục” [149; tr.661].
Quan niệm về chân trời như là ranh giới và giới hạn nhận thức được
nêu ra đầu tiên trong triết học Kant. Triết học Kant đặt cơ sở trên sự phân
biệt giữa vật tự thân và hiện tượng. Vật tự thân là đối tượng nằm ngoài phạm
vi chân trời nhận thức của mỗi người. Nhận thức của mỗi chúng ta nằm trong
phạm vi của một chân trời tương đối. Điều này có nghĩa rằng nhận thức của
mỗi chúng ta là hữu hạn, phụ thuộc vào kinh nghiệm cảm tính, kinh nghiệm
mà mỗi chúng ta có thể có được. Với Kant, chân trời tuyệt đối là những ranh
giới mà mỗi chúng ta không thể vượt qua được, nhưng luôn mời gọi mỗi


16

người tiến lên phía trước. Nằm trong chân trời tương đối và luôn hướng đến
chân trời tuyệt đối chính là những phương diện của thân phận con người.
Nietzsche đem lại cho vấn đề nhận thức kích thước nhân loại học. Con
người có khả năng lý giải mọi thứ trong chân trời của mình. Vì không còn
một bối cảnh siêu hình học nào sau lưng, tất cả những gì trong tầm mắt con

người thì con người có thể lý giải được. Ông viết: “Và đây là quy luật phổ
biến: mọi đời sống chỉ có thể trở nên khỏe khoắn, mạnh mẽ và sinh sôi trong
một chân trời nhất định; nếu nó không có khả năng phác họa xung quanh nó
một chân trời, và nếu nó quá ích kỷ, không mở ra viễn tượng của riêng nó
trong một chân trời xa lạ, thì nó sẽ hư hao yếu ớt và nhanh chóng kết thúc
cuộc sống của chính mình” [130; tr.127]. Một cá nhân chỉ có thể nhận thức
và hiểu ý nghĩa của thế giới trong một phạm vi chân trời hạn định gắn liền
với “viễn tượng” xuất phát từ điểm nhìn của cá nhân ấy 1. Vì vậy, một cá
nhân hay một nền văn hóa cần phải có sự mở rộng chân trời thế giới sống
của chính nó, giao tiếp, tiếp xúc với những cá nhân hay nền văn hóa khác để
vun bồi sức sống cho mình; nếu không, nó mãi là một Robinson Crusoe –
như sự ví von của Gadamer - cô độc, buồn tẻ, héo tàn. Quan niệm này sẽ
được Gadamer, Jauss và Iser kế thừa ở góc độ sự tiếp xúc với chân trời xa lạ
của văn bản trong quá khứ sẽ đem đến sự chuyển biến trong chân trời nhận
thức cuộc sống trong hiện tại của cá nhân mỗi người.
Husserl đi tiếp con đường của Kant, con đường triết học siêu nghiệm,
để đặt vấn đề về điều kiện khả thể của nhận thức. Husserl đề cập đến hai mặt
trong quan niệm về chân trời: “ý thức chân trời” và “chân trời ý hướng tính”.
1

Triết học Nietzsche phân biệt hai khái niệm: “chân trời” (Horizont) và “viễn tượng”
(Perspekstive). Khái niệm “chân trời”, như trên đã nói, liên quan đến giới hạn và sự mở rộng giới
hạn của các ranh giới nhận thức. Khái niệm “viễn tượng” chỉ một trường nhìn lý giải xuất phát từ
góc nhìn cá nhân. Triết học Nietszche cho rằng “siêu nhân” (Übermensch) là con người luôn biết
vượt qua (über-) viễn tượng của một con người (Mensch) cá biệt để liên tục mở rộng và thay đổi
chân trời nhận thức và lý giải của riêng mình. Sự phân biệt hai khái niệm này rất quan trọng trong
triết học, thông diễn học và mỹ học tiếp nhận.


17


Ý thức chân trời là phạm vi của kinh nghiệm có thể có. Sự quen thuộc của
mỗi chúng ta với những quan hệ quy chiếu lẫn nhau giữa các sự vật làm điều
kiện cho sự trải nghiệm. Chúng ta không thể nhận thức được nếu đứng ngoài
phạm vi kinh nghiệm quen thuộc này. Chân trời có vai trò quan trọng trong
cấu trúc “ý hướng tính”, vì nếu ý thức của mỗi chúng ta không nhắm đến đối
tượng thì không có chân trời. Mặt khác chúng ta không có ý thức về chân trời
thì cũng không có chân trời, vì, xét cho cùng, phạm vi kinh nghiệm quá khứ
chỉ trở thành tiền đề nhận thức khi nó được đưa vào trong hiện tại của quá
trình nhận thức.
Husserl phân chia chân trời ra làm ba loại: chân trời bên trong, chân
trời bên ngoài và chân trời thời gian. Chân trời bên trong nhờ liên hệ với kí
ức về những gì tương tự, chính là những dấu hiệu gợi nên tính tổng thể của
đối tượng khi đối tượng xuất hiện cho ta. Chân trời bên ngoài chính là mối
quan hệ giữa đối tượng với các đối tượng tương tự trong ký ức, và với bối
cảnh xung quanh mà đối tượng xuất hiện. Chân trời thời gian chính là tính
chất hiện tại của sự xuất hiện sự vật, một hiện tại hữu hạn và có thể biến đổi,
đối sánh với tính chất quá khứ của những sự vật xuất hiện trước đó, từ điểm
nhìn của một cái tôi đồng nhất mình trên trục thời gian. Vì mỗi chúng ta luôn
là cái tôi đồng nhất trước đó và bây giờ, nên mỗi chúng ta có thể nắm bắt và
đối chiếu các đặc điểm của đối tượng hiện ra trước mắt mình với các đối
tượng đã từng hiện ra trước đó, để biết chúng là gì. Con người luôn có đặc
tính là tri giác sự vật trong dòng chảy thời gian, và trong chân trời kinh
nghiệm và trải nghiệm trong quá khứ và trong hiện tại. Nghĩa là mỗi chúng
ta luôn nhận thức sự vật trong phạm vi chân trời kinh nghiệm sống trải của
mình. Nói ngắn gọn như Vessey, “chân trời không nhằm đến các giới hạn
của việc hiểu, mà nhằm đến các điều kiện của việc hiểu luôn định hướng cho
ta hướng đến các việc hiểu mới” [140].



18

Với Martin Heidegger, toàn bộ chân trời nhận thức gắn liền với con
người bình thường, cá nhân thường nghiệm. Phê phán Husserl rằng quan
niệm về nhận thức của ông thoát ly khỏi con người cụ thể, Heidegger cho
rằng chân trời của Dasein không chỉ là sự vật, mà là thế giới sống của con
người, trong đó con người quan hệ với sự vật để sử dụng. Chân trời trở thành
cấu trúc tồn tại của Dasein. Chúng ta bị ném vào trong hiện tại này mà không
thể khước từ được; với tính cách là một tồn tại, chúng ta bị quăng ném vào
trong một “cảnh trạng” (Befindlichkeit). Một người Việt Nam, được/ bị kế
thừa lịch sử và văn hóa Việt Nam. Điều này không những bắt buộc họ phải
nỗ lực hiểu thế giới hiện tại mà còn quy định toàn bộ hoạt động hiểu của họ
về thế giới hiện tại này. Chẳng hạn họ sẽ hiểu lịch sử triều Nguyễn như thế
này hoặc như thế kia chủ yếu là do cách lý giải kế thừa từ những lý giải trước
đó về triều Nguyễn. Mà những cách lý giải đó, xét cho cùng, là do lịch sử
quy định (chính trị, văn hóa…).
Nhưng con người còn là một tồn tại tự do và mang tính dự phóng. Mỗi
người tự do chọn lựa và dự phóng tương lai, những mơ ước và khát vọng của
họ vào việc hiểu. Nghĩa là bản thân mỗi người đã có một chân trời của mơ
ước, khát vọng, niềm tin… của con người để họ có thể hiểu con người. Đó là
tính chất dự phóng trong tồn tại của riêng mỗi người. Người đọc hiểu nhân
vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều như thế này hoặc như thế khác vừa là do tri
thức của họ về đời sống văn hóa triều Nguyễn – một bộ phận của chân trời
mà trong đó Truyện Kiều tồn tại, vừa là do những ý thức và vô thức của riêng
họ, những mơ ước và khát vọng của riêng họ với tư cách là những mơ ước và
khát vọng của con người hữu hạn, tồn tại để đi đến cái chết. Nếu như tính
chất bị quăng ném làm cho việc hiểu của con người mang tính thụ động, thì
tính chất dự phóng làm cho việc hiểu của con người mang tính chủ động.



19

Gadamer kế thừa tư tưởng này đồng thời khẳng định cả hai tính chất này đều
tạo nên những tiên kiến, hay là chân trời hiện tại của riêng mỗi người.
Nếu như trong hiện tượng học của Husserl, các chân trời là điều kiện
để một người có thể tri giác về đối tượng, thì trong thông diễn học triết học
của Gadamer, chân trời là điều kiện để một người có thể hiểu văn bản trong
truyền thống. Gadamer mượn ý niệm về chân trời cuộc sống và văn hóa lịch
sử của Nietzsche để làm mới lại quan niệm chân trời của Husserl, đồng thời
đưa nó vào lĩnh vực nhận thức văn bản. Văn bản tồn tại trong chân trời văn
hóa lịch sử của riêng nó, người đọc đến với nó từ chân trời văn hóa lịch sử
của riêng họ và việc hiểu văn bản là một sự hòa trộn chân trời giữa chân trời
hiện tại của người đọc và chân trời lịch sử của văn bản.
Trong phần Các yếu tố của một lý thuyết về kinh nghiệm thông diễn,
mục Nguyên lý lịch sử tác động của quyển Chân lý và phương pháp,
Gadamer xem chân trời là bản chất của tình thế thông diễn [144]. Như
Nietzsche, Gadamer hiểu chân trời như cái gì vừa giới hạn vừa có khả năng
mở rộng theo tiến trình kinh nghiệm sống của mỗi người, đồng thời nó là
một phương diện cơ bản, bản chất của cuộc sống con người. Có được một
tình thế thông diễn nghĩa là có được một thế đứng nhất định để từ đó người
đọc đặt câu hỏi cho ý nghĩa của văn bản trong truyền thống. Một văn bản chỉ
mở ra một phương diện ý nghĩa nào đó trong một chân trời văn hóa lịch sử
phù hợp. Chính trong bối cảnh hiện đại hóa văn hóa và văn học của đầu thế
kỷ XX mà tiếng nói của con người cá nhân trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
có được sự đồng cảm, tiếp nhận rộng lớn hơn. Tiếng nói ấy không thể được
cất lên và được thấu hiểu trong chân trời văn hóa của quan niệm nho giáo
truyền thống.
Trong hoạt động tiếp nhận văn bản, kinh nghiệm đọc, kinh nghiệm
sống của mỗi người không độc lập và khép kín, mà luôn luôn được chỉnh sửa



20

và biến đổi khi tiếp xúc với văn bản; và nhờ có sự tiếp xúc như vậy, văn bản
văn học cũng mở rộng không ngừng các ý nghĩa của nó. Hoạt động hiểu, do
vậy, là sự hòa trộn các chân trời lịch sử trên cơ sở chân trời trong hiện tại,
làm cho các chân trời luôn luôn đổi mới; và cũng do đó, hoạt động hiểu
không bao giờ hoàn tất và kết thúc, mà là một tiến trình hòa trộn liên tục.
Gadamer viết: “Do đó, chân trời của hiện tại không thể được tạo thành mà
không có quá khứ. Không có một chân trời hiện tại tự mình [độc lập, tách
rời] nào cả, cũng như không có những chân trời lịch sử để ta phải đạt được.
Đúng hơn, việc hiểu bao giờ cũng là tiến trình hòa trộn những chân trời bị
nhầm tưởng là tồn tại độc lập, tự mình ấy” [144; tr.311,312].
Nhưng hòa trộn không có nghĩa là xếp chồng một cách đơn giản các
chân trời này vào trong nhau, cũng không có nghĩa là hợp nhất nó vào một
chân trời duy nhất của truyền thống. Hiểu văn bản trong quá khứ không phải
là việc người đọc đồng nhất kinh nghiệm của mình với quá khứ. Hiểu thơ
Nôm Hồ Xuân Hương, không có nghĩa là người đọc trở thành chủ thể trữ
tình, mà tiếp xúc và có những trải nghiệm thẩm mỹ mới lạ về nó từ điểm
nhìn trong hiện tại của họ, và từ đó, văn bản thơ cũng sống lại trong họ
những ý nghĩa mới mẻ hơn. Đó là lý do Gadamer phân biệt giữa “sự hòa trộn
các chân trời” (Horizontverschmelzung) và “sự tạo thành của một chân trời
quy nhất” 1. Ông viết: “Nếu các chân trời này giờ đây không tách biệt với
nhau, tại sao ta lại nói đến “sự hòa trộn các chân trời”, mà không đơn giản
nói đến sự tạo thành của một chân trời quy nhất (der Bildung des einen
Horizontes), hợp nhất trở lại các ranh giới của nó vào chiều sâu của truyền
thống?” [144; tr.311,312]. Theo ông, không thể hiểu “sự hòa trộn các chân
trời” theo nghĩa các chân trời khác nhau quy về một chân trời truyền thống.
1


Khái niệm “Horizontverschmelzung” có nhiều cách dịch khác nhau, Bùi Văn Nam Sơn đề nghị
dịch là “sự hòa trộn chân trời”. Chúng tôi chọn cách dịch của Bùi Văn Nam Sơn vì chính
Gadamer đã cho rằng các chân trời không quy nhất vào nhau, nghĩa là không hợp nhất, hòa đồng.


21

Vì việc mỗi người đọc đến với văn bản trong truyền thống dưới góc độ ý
thức lịch sử liên quan đến việc trải nghiệm “mối quan hệ căng bức”
(Spannungsverhältnis) giữa văn bản trong quá khứ và chân trời hiện tại của
riêng họ. Và nhiệm vụ thông diễn học không phải là bao bọc mối quan hệ
này bằng việc “đồng nhất hóa” (Angleichung) chúng vào nhau, mà là triển
khai (entfalten) mối quan hệ này một cách có ý thức. Người đọc đọc thơ
Nôm Hồ Xuân Hương nhưng họ luôn ý thức được sự khác biệt giữa thế giới
hiện tại mà họ đang sống và thế giới văn hóa truyền thống của quá khứ nơi
các tác phẩm thơ ấy đã ra đời. Khoảng cách thời gian này không thể và
không cần thiết phải được lấp đầy, mà nó là cơ sở để người đọc hiểu thêm
những ý nghĩa mới của văn bản thơ, và do đó, văn bản thơ được hiện đại hóa
trong cảm nhận của riêng họ.
Theo Gadamer, để hiểu văn bản văn học trong lịch sử bao giờ người
đọc cũng phải đứng từ vị thế hiện tại, nhưng hiện tại của họ cũng được định
hình bởi cả một truyền thống văn hóa lịch sử từ trong quá khứ. Gadamer cho
rằng cần phải tránh cách hiểu sai lầm rằng chân trời của lịch sử văn hóa hiện
tại là một tập hợp cứng nhắc các quan điểm và các giá trị, và quá khứ như là
một hệ thống cứng nhắc và khép kín; thực ra thì cả hai đều luôn biến chuyển
theo nhau một cách biện chứng. Quá khứ luôn hiện ra trong giới hạn giải
thích và nhận thức của hiện tại, mà giới hạn này thì không ngừng mở ra, nên
quá khứ không cố định mà biến chuyển cùng với hiện tại.
Để hiểu một văn bản trong quá khứ thì người đọc phải đứng trong một
chân trời của bối cảnh văn hóa lịch sử hiện tại, nhưng chân trời hiện tại này

luôn trong quá trình tạo thành, nghĩa là luôn trong sự thẩm tra, đánh giá để
chỉnh sửa. Để có một sự thẩm tra đánh giá để chỉnh sửa, thì chân trời hiện tại
luôn phải tiếp xúc với truyền thống, nghĩa là tiếp xúc và va chạm với các
chân trời lịch sử trong hoạt động hiểu. Nhận thức của người đọc trong hiện


22

tại về hình ảnh và số phận người phụ nữ sẽ được bổ sung, mở rộng, khi họ
hiểu được số phận của Thúy Kiều, của hình tượng người phụ nữ trong thơ
Hồ Xuân Hương, và của những người phụ nữ trong văn học thời trung đại.
Quan niệm về sự hòa trộn các chân trời và việc thoát ly khỏi truyền
thống từ chân trời hiện tại của Gadamer trong việc hiểu có ảnh hưởng lớn
đến mỹ học tiếp nhận và thông diễn học văn học của Hans Robert Jauss. Tuy
nhiên, nếu như Gadamer nhấn mạnh đến khía cạnh hòa trộn các chân trời thì
Jauss nhấn mạnh vai trò quyết định của sự thoát ly lẫn nhau giữa các chân
trời trong tiếp nhận văn học.
Theo Jauss, trong việc tiếp nhận văn bản văn học, người đọc phải có ý
thức tách biệt chân trời quá khứ ra khỏi chân trời hiện tại để đến được với
“tính khác biệt” (Alterität) của văn bản và để tránh một sự đồng nhất hóa
ngây ngô văn bản trong quá khứ vào các tiên kiến và chờ đợi ý nghĩa của
hiện tại [149; tr.821]. Đọc là một hành trình đối thoại với “cái khác”, để mở
rộng chân trời hiện tại của chính mỗi người đọc. Để đạt được điều đó, Jauss
cho rằng trong quá trình thông diễn, người đọc phải có một hành vi đọc tái
cấu tạo có tính lịch sử, nghĩa là “tìm kiếm lại các câu hỏi mà văn bản đã trả
lời trong thời đại của nó”. Mặt khác người đọc cũng phải thoát ly chân trời
quá khứ từ chân trời hiện tại để đưa vào văn bản những ấn tượng, những trải
nghiệm mới mẻ từ kinh nghiệm sống của mình. Cho rằng Gadamer còn xem
nhẹ tiềm năng sáng tạo của người đọc khi quá chú trọng đến sự hòa trộn chân
trời, Jauss nhấn mạnh đến một sự “thoát ly chân trời” (Horizontabhebung)

đòi hỏi sự tiếp nhận sáng tạo của người đọc. Theo Jauss, trong tiến trình đọc,
tất nhiên văn bản điều khiển người đọc, thế nhưng những gì hiện ra một cách
có ý nghĩa đối với người đọc thì lại “thoát ly” khỏi văn bản. Nói cách khác,
qua kinh nghiệm cá nhân của việc đọc, người đọc làm sống lại văn bản và
tạo ra ý nghĩa vượt ra khỏi văn bản. Chính điều này cho phép ta hiểu văn bản


×