Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Điều tra bệnh truyền nhiễm trên đàn lợn ở địa bàn huyện can lộc tỉnh hà tĩnh năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.53 KB, 50 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành nông nghiệp, cung
cấp một phần lớn thực phẩm cho nhân dân và phân bón cho sản xuất cây
trồng. Ngày nay, chăn nuôi lợn có một tầm quan trọng nữa là kim ngạch xuất
khẩu, đây cũng là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
Tuy vậy một trong những trở ngại lớn nhất của chăn nuôi lợn đó là dịch
bệnh. Trong mấy năm gần đây (2005-2010) dịch bệnh có chiều hướng gia
tăng và diễn biến rất phức tạp, ngoài những bệnh thường gặp như: Dịch tả
lợn, tụ huyết trùng, phó thương hàn, phân trắng lợn con … đã xuất hiện
những bệnh có tính chất lây lan mạnh và tạo thành dịch như : lở mồm long
móng, bệnh tai xanh….Làm thiệt hại đáng kể về kinh tế và gây nguy hại tới
sức khỏe cộng đồng.
Năm 1997, Việt Nam phát hiện bệnh tai xanh trên đàn lợn được nhập
về từ Mỹ. Đến năm 2007, thì dịch tai xanh chính thức xuất hiện tại 324 xã
phường của 19 tỉnh trên cả nước khiến 70.577 con mắc bệnh với số lợn chết
và tiêu huỷ hơn 20.000 con.
Năm 2008, dịch tai xanh thực sự là cơn bão dữ đối với Việt Nam vì
mức độ lây lan nhanh và thiệt hại lớn trên địa bàn 956 xã của 26 tỉnh trên cả
nước. Số lợn bị bệnh hơn 260.000 con, số lợn bị tiêu huỷ trên 255.000 con.
Tổng thiệt hại hơn 500 tỷ đồng.
Năm 2009, dịch không mạnh nhưng vẫn lẻ tẻ xuất hiện tại 69 xã,
phường trên cả nước . Năm 2010, dịch lợn tai xanh lại quay lại và bùng phát
trên diện rộng. Đầu năm xảy ra ở 16 tỉnh, thành phố phía Bắc và tấn công các
tỉnh phía Nam. Chỉ riêng đợt 2 ở 20 tỉnh thành phía Nam đã có 121.115
con/148.314 tổng đàn mắc phải. Thống kê thấy tỷ lệ lợn nái chết là 9,46%,
lợn thịt chết là 63,96% và tỷ lệ lợn con chết là 26,57%.

1


Theo khuyến cáo của Cục thú y (Bộ NN-PTNT), nguy cơ tái phát dịch


bệnh tai xanh ở nước ta trong mùa nóng là rất lớn. Nếu loại dịch này bùng
phát, tốc độ phát tán và lây lan sẽ rất nhanh, hậu quả rất khó lường.
Điều đáng lo ngại hiện nay là phần lớn các tỉnh chưa xây dựng các
điểm giết mổ gia súc, gia cầm tập trung cho từng địa phương; vài địa phương
đã xây dựng nhưng cũng không hoạt động được. Tình trạng mua bán, giết mổ
gia súc, gia cầm không đảm bảm vệ sinh thú y đang diễn ra phổ biến, rất dễ
lây lan dịch bệnh. Ngoài ra, một số bộ phận người chăn nuôi còn có thói quen
vứt xác gia súc, gia cầm chết xuống sông, rạch… nên dịch bệnh luôn là nguy
cơ tiềm ẩn.
Cũng giống như các tỉnh khác, Hà Tĩnh được xem là một trong những
tỉnh có ngành chăn nuôi phát triển mạnh, lại nằm ở khu vực miền trung, có
thể coi là trung tâm vận chuyển buôn bán gia súc giữa hai đầu Nam- Bắc, cho
nên khả năng lây lan và tích trữ nguồn bệnh rất lớn, khả năng tái phát dịch là
rất cao.
Vì vậy, chúng tôi những cán bộ trong ngành nông nghiệp tương lai cần
phải hiểu biết sâu rộng hơn về tình hình chăn nuôi và dịch bệnh cả nước nói
chung, cũng như tỉnh Hà Tĩnh nói riêng. Nhưng thời gian dành cho một đồ án
tốt nghiệp có hạn nên tôi chỉ thực hiện: “Điều tra bệnh truyền nhiễm trên
đàn lợn ở địa bàn Huyện Can Lộc - Tỉnh Hà Tĩnh năm 2010” nhằm củng
cố kiến thức về bệnh học thú y và phương pháp nghiên cứu khoa học.

2


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.TÌNH HÌNH CÔNG TÁC THÚ Y TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
1.1. Công tác thú y trên thế giới [11]
Thú y trên thế giới nói chung và Thú y Việt Nam nói riêng đang đứng
trước những thử thách lớn trong thời kỳ toàn cầu hóa, do diễn biến phức tạp

của các dịch bệnh nguy hiểm, dịch bệnh lây giữa động vật và người, như cúm
A/H5N1, A/H1N1, Dại, Bò điên (BSE), SARS, EBOLA, HP, West Nile
Fever, Hendra và Nipah Virut, … trong số này, nhiều bệnh có thể gây ra thảm
họa sinh học. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm giảm bớt
kinh phí và sự quan tâm đối với việc phòng chống dịch bệnh động vật ở các
nước; sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thiếu an toàn vệ sinh thực
phẩm đang là mối lo ngại không chỉ đối với Việt Nam mà đối với nhiều tổ
chức quốc tế, nhiều nước trên thế giới.
Theo OIE nhiệm vụ của ngành thú y là giám sát sức khỏe động vật phát
hiện sớm và ứng phó nhanh đối với các bệnh dịch động vật. Cơ quan thú y
trung ương, trung tâm của hệ thống thú y, sẽ không hoàn thành được nhiệm
vụ này nếu như không có hệ thống văn bản pháp lý phù hợp và các công cụ
cần thiết để thực thi pháp luật. Đây chính là cơ sở của việc quản lý tốt thú y.
Một hệ thống thú y quốc gia phù hợp phải đảm bảo: Phát hiện dịch bệnh sớm
và thông báo ngay các ổ dịch một cách minh bạch, không dấu dịch; ứng phó
nhanh để dập tắt dịch, kể cả việc sử dụng tiêm phòng nếu cần thiết và phù
hợp; áp dụng các biện pháp an toàn sinh học và phòng ngừa sinh học; và có
chiến lược đền bù cho người chăn nuôi.
1.2. Công tác thú y trong nước[11]
Đối với Việt Nam, sau ba năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), nhiệm vụ của ngành Thú y ngày càng nặng nề do chăn nuôi phát
triển, du lịch và giao lưu hàng hóa, xuất nhập khẩu động vật và sản phẩm

3


động vật ngày một tăng, đã làm lây lan dịch bệnh, kể cả bệnh chung giữa
người và động vật, trong đó có nhiều dịch bệnh nguy hiểm như cúm A/H5N1,
A/H1N1 … Bên cạnh đó, sự thiếu ổn định về tổ chức của hệ thống thú y,
nhiều cán bộ chuyên môn đặc biệt là thú y thủy sản cùng với sự ảnh hưởng

của các yếu tố khách quan, chủ quan như sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi
trường, khủng hoảng về tài chính, khủng hoảng kinh tế thế giới kéo theo sự
biến động của giá cả về vật tư nông nghiệp, về thị trường; thiên tai, dịch bệnh
liên tiếp xảy ra đã ảnh hưởng không ít tới hoạt động của ngành thú y.
Hiện nay, tổ chức ngành từ trung ương đến cơ sở được tăng cường và
củng cố. Cơ sở vật chất kỹ thuật thú y phát triển rất mạnh. Các cơ sở nghiên
cứu khoa học, trường đào tạo cán bộ thú y được mở rộng. Các công ty sản
xuất thuốc thú y đã chế tạo được nhiều loại thuốc phòng và chữa bệnh cho
gia súc, gia cầm rất hiệu quả.
Tuy nhiên, nước ta có những đặc điểm riêng về tự nhiên, xã hội, kinh tế
và kỹ thuật có liên quan mật thiết tới tình hình dịch tễ. Những yếu tố tạo điều
kiện cho bệnh phát sinh và lây lan chưa khắc phục được triêt để. Những bệnh
thổ nhưỡng, những bệnh có nguồn dịch thiên nhiên đòi hỏi một thời gian dài
mới dập tắt được. Một số bệnh mới từ nước ngoài có thể xâm nhập vào nước
ta. Mật độ chăn nuôi ngày càng cao, trong khi đó nhân dân chưa thực hiện tốt
vệ sinh phòng bệnh và các biện pháp thú y khác, đó là nhân tố làm cho dịch
bệnh vẫn có thể xảy ra [3].
1.3. Công tác thú y ở tỉnh Hà Tĩnh
Ngày 7/8/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ban hành Quyết định số
1917/2006/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức mạng lưới
thú y cơ sở.
Quyết định này được đưa ra trên cơ sở Nghị định số 33/2005/NĐ-CP
ngày 15/3/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Thú y với mục tiêu phấn đấu tổ chức mạng lưới thú y cơ sở đến tận

4


xã, phường, thôn, làng cơ sở chăn nuôi nhằm củng cố và tăng cường hệ thống
giám sát, phát hiện và báo cáo dịch bệnh cũng như tham gia thực hiện công

tác phòng chống dịch bệnh từ cơ sở.
Đây thực sự là một nỗ lực đáng ghi nhận của tỉnh Hà Tĩnh trong công
tác tổ chức mạng lưới thú y cơ sở. Đề án này phù hợp định hướng phát triển
chung của toàn ngành, hòa nhập với cố gắng của các tỉnh, thành phố khác, để
từ đó củng cố hệ thống thú y ngày càng hoàn thiện, có đủ năng lực ứng phó
với các tình huống dịch bệnh khẩn cấp, đặc biệt là đối với các bệnh mới xuất
hiện như: dịch tai xanh, lở mồm long móng, cúm gia cầm H5N1 …
Theo khảo sát của Chi cục Thú y tỉnh (20/8/2009), ở một số chợ trên
địa bàn tỉnh, tình trạng buôn bán gia súc, gia cầm sống và các sản phẩm gia
súc, gia cầm chưa qua kiểm dịch, hoặc không có giấy phép kiểm dịch vẫn còn
diễn ra. Mặt khác, một bộ phận người chăn nuôi còn chủ quan, chưa thực hiện
nghiêm túc các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Khi phát hiện gia súc, gia
cầm bị mắc bệnh, một số hộ không báo cáo với ngành chức năng mà tự chữa
trị hoặc tự xẻ thịt để bán; có người còn vứt xác con vật bị chết xuống sông,
suối gây ô nhiễm môi trường và rất dễ lây nhiễm dịch bệnh [13].
Thực hiện phương châm: “Tăng cường giám sát, chủ động phòng ngừa,
nhanh chóng dập tắt các ổ dịch mới phát sinh”, Chi cục Thú y đã thành lập
đội cơ động phòng chống dịch bệnh; luôn cung ứng đủ lượng vacxin, thuốc
hóa chất thú y và các trang thiết bị cần thiết để phục vụ công tác phòng chống
dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm.
Bên cạnh đó, Chi cục thú y còn phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
thông tin đại chúng, các hội đoàn thể tăng cường tuyên truyền các biện pháp
phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm; vận động nông dân tham gia
phòng chống dịch; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình
vận chuyển, mua bán, giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn; xử lý nghiêm các
đối tượng vi phạm Pháp lệnh Thú y. Chi cục cũng đã điều cán bộ thú y phối

5



hợp với lực lượng Cảnh sát giao thông tỉnh túc trực tại các chốt kiểm dịch
động vật tại đường Hà Tĩnh-Vinh, đèo Ngang… khi có dịch xảy ra để kiểm
tra, phát hiện và xử lý các đối tượng mua bán, vận chuyển trái phép gia súc,
gia cầm ra vào tỉnh.
1.4. Công tác thú y ở huyện Can Lộc
Mạng lưới thú y huyện được phân bố đều, khắp nông thôn, từng xã, thị
trấn. Do vậy việc tiêm phòng, kiểm dịch, kiểm soát giết mổ ở các mổ được sự
chỉ đạo của Trạm nên việc thực hiện rất thuận lợi, và được sự hưởng ứng
nhiệt tình của bà con nông dân.
Tổng số thú y hành nghề trên địa bàn huyện là 132 người, trong đó đại
học có 3 người chiếm 2,27%, trung cấp chăn nuôi có 32 người chiếm 24,24%,
sơ cấp và tập huấn có 72 người chiếm 54,54%, y tá làm nghề thú y có 25
người chiếm 18,93%.
Bên cạnh đó cũng có những thú y chưa thực hiện đúng chuyên trách
của mình, tay nghề còn yếu, thiếu trách nhiệm trong công việc.
Do vậy việc tuyên truyền, tổ chức tiêm phòng còn nhiêu hạn chế, bởi
vậy Trạm thường xuyên đôn đốc giám sát, và kỹ luật thích đáng những ai vi
phạm.
2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – XÃ HỘI CỦA HUYỆN CAN LỘC
2.1. Vị trí địa lý
Huyện Can Lộc là một huyện đồng bằng nằm ở trung tâm tỉnh Hà Tĩnh có vị
trí địa lý như sau:
-

Phía đông giáp với huyện Lộc Hà

-

Phía tây giáp với huyện Đức Thọ và Hương Khê


-

Phía nam giáp với huyện Thạch Hà

-

Phía bắc giáp với huyện Nghi Xuân và thị xã Hồng Lĩnh

2.2. Khí hậu
Huyện Can Lộc thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt:

6


Mùa khô: Từ tháng 5 đến tháng 10 mang đặc tính khí hậu nhiệt đới ít
hơi ẩm, khô nóng. Vào tháng 06, 07 thường có gió Lào hầu như không có
mưa.
Mùa mưa: Từ tháng 11 đến tháng 4 với đặc trưng của khí hậu miền
Bắc có mùa đông lạnh.
+ Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm 23-24 oC. Tháng nóng nhất
là tháng 7 với nhiệt độ trung bình 25,4 oC; tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt
độ trung bình là 10,8 oC.
+ Độ ẩm: Độ ẩm không khí tương đối cao. Trung bình trong năm từ
85-86%, có tháng độ ẩm trên 90% (tháng 1). Độ ẩm lớn nhất và nhỏ nhất
không chênh lệch nhiều.
+ Lượng mưa: Lượng mưa trung bình hằng năm 2000 – 2500 mm,
lượng mưa phân bố không đều, mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 11 chiếm
khoảng 75% lượng mưa cả năm.
+ Nắng: Hàng năm có khoảng 220 ngày nắng. Tổng số giờ nắng từ
1700 – 2210 giờ. Mùa khô có giờ cao khoảng 1430 – 1750 giờ, chiếm 70% số

giờ nắng trong năm.
+ Gió: Hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa, tốc độ gió trung bình
cả năm là 2,5 -3 m/s. Hướng gió thịnh hành là gió Đông Nam với tần suất 50
– 70%, tốc độ gió trung bình 2 – 2,3 m/s, tốc độ gió cực đại (khi có bão) là 40
m/s, mùa hạ xuất hiện các đợt gió Tây khô nóng gây tác động xấu đến cây
trồng.
+ Bão lũ: Do nằm trong vùng Bắc Trung Bộ, nên hàng năm thường
chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân từ 4 – 8 đợt/năm.
Tần suất lũ lụt, lũ quét những năm gần đây trung bình 2-3 lần/năm.
2.3. Trình độ văn hóa
Can Lộc là một huyện đồng bằng bao gồm thị trấn Nghèn và 22 xã.

7


Tổng số dân trên toàn huyện tính từ 2009 là: 128.004 người, trong đó
9014 người sống ở thành thị và 118990 người sống ở nông thôn.
Tổng số học sinh trên toàn huyện là 27.234 em trong đó tiểu học:
10.040 em, trung học cơ sở : 9.125 em, trung học phổ thông: 7.684 em và
mẫu giáo có: 2.231 cháu. Số thanh niên đến độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ
tương đối cao làm với nhiều ngành nghề khác nhau.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và chính
quyền, nên đời sống nhân dân ngày càng nâng cao. Nhưng các xã miền núi vì
trình độ dân trí còn thấp, việc tiếp cận thông tin chậm, nên việc tiêm vaccin
phòng bệnh cho gia súc, gia cầm ở các xã miền núi còn gặp nhiều khó khăn.
Do vậy chăn nuôi đạt hiệu quả không cao, dịch bệnh thường xuyên xảy ra,
làm cho đời sống bà con các xã miền núi gặp nhiều khó khăn.
3. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHỮNG BỆNH THƯỜNG GẶP Ở LỢN
3.1. Bệnh dịch tả lợn
Bệnh dịch tả lợn là một bệnh truyền nhiễm do virut Pestiviruts, thuộc

họ Togaviridae, gây sốt cao, xuất huyết ở da và các cơ quan phủ tạng.
Bệnh xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp và làm bề mặt bị tổn
thương. Bệnh xảy ra quanh năm và xuất hiện mạnh lúc giao mùa. Bệnh xảy ra
trên tất cả các giống lợn, lứa tuổi nhưng mạnh nhất là lợn con theo mẹ và lợn
sau cai sữa [1].
* Triệu chứng [7]
Thời gian ủ bệnh từ 4-8 ngày, bệnh xuất hiện ở 3 thể chính: quá cấp
tính, cấp tính và mãn tính.
Thể quá cấp tính
Bệnh phát ra nhanh chóng, lợn bị bệnh chết đột ngột, không có triệu
chứng lâm sàng đặc trưng. Con vật đang khỏe tự nhiên bỏ ăn, ủ rũ, thân nhiệt
tăng cao (41-420C) nôn mửa. Da mỏng, phía trong đùi dưới bụng có chỗ đỏ
ửng lên rồi tím lại. Bệnh tiến triển trong 1-2 ngày, tỷ lệ chết 100%.

8


Thể cấp tính
Lợn bỏ ăn, ủ rủ, chui ẩn dưới rơm hoặc tìm nơi tối để nằm. Thân nhiệt
tăng 41-420C trong suốt 4-5 ngày liền, sau đó thân nhiệt giảm xuống là lúc
con vật gần chết. Các vùng da mỏng như da phía trong đùi, chóp tai, sườn…
xuất hiện những chấm, vết đỏ bằng đầu đinh ghim, hạt đậu hoặc đám xuất
huyết lớn.
Lúc đầu đi táo bón vào lúc thân nhiệt cao, sau đó ỉa chảy nặng, phân
loãng màu xám có mùi khắm, hôi thối đặc biệt. Lợn ho, khó thở, co giật hoặc
bại liệt và chết sau 1-2 ngày.
Thể mãn tính
Lợn gầy, lúc táo bón, lúc tiêu chảy, uống nước nhiều.
Ho, khó thở, trên da lưng, sườn có vết đỏ có khi loét ra từng mảng.
Bệnh kéo dài vài tuần, lợn chết do kiệt sức, những lợn khỏi bệnh gầy

còm có miễn dịch nhưng là nguồn virus gây bệnh.
* Bệnh tích
Trên da xuất hiện những nốt xuất huyết nhỏ màu đỏ, có khi những nốt
xuất huyết tập trung lại thành đám như cơm cháy.
Hạch: Tất cả các hạch đều sưng, tụ huyết, xuất huyết.
Lách, thận, phổi, niêm mạc ruột non, ruột già và bàng quang có hiện
tượng tụ huyết, xuất huyết. Nhiều vùng gan hóa, hoại tử.
* Phòng bệnh [14]
Đây là bệnh do virus vì thế tiêm phòng vaccin là biện pháp hữu hiệu
nhất. Cách ly lợn mới mua về theo dõi 15-30 ngày, nếu lợn chưa tiêm phòng,
phải tiêm phòng xong mới thả chung đàn, mua lợn ở vùng không có dịch. Cho
lợn ăn tốt, khẩu phần đầy đủ. Chuồng trại sạch sẽ, hợp vệ sinh, tiêu độc
thường xuyên. Hạn chế ra vào trại chăn nuôi.
Tiêu hủy lợn bệnh, cách ly lợn nghi mắc bệnh.
* Điều trị: Bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu.

9


3.2. Bệnh tụ huyết trùng
* Nguyên nhân [5]
Do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra với tính chất dịch lẻ tẻ. Đặc
điểm của bệnh là gây nhiễm trùng máu, xuất huyết và gây xáo trộn hô hấp
(chủ yếu gây viêm phổi). Bệnh thường ghép với bệnh dịch tả, suyễn lợn do
Mycoplasma.
Lợn từ 3-6 tháng tuổi là dễ mắc bệnh nhất.
* Triệu chứng
Thời gian nung bệnh tối đa 2 ngày có khi vài giờ thường có 3 thể bệnh.
Thể quá cấp tính
Bệnh diễn biến rất nhanh trong vòng 12-24 giờ, lợn sốt cao 410C, nằm

yên một chỗ, bỏ ăn và xuất hiện những vết đỏ (nâu, tím) ở cuống tai, cổ, da
bụng, lưng…Sau vài giờ lợn khó thở rồi bị kích thích thần kinh, chạy lung
tung, kêu la và lăn ra chết.
Thể cấp tính
Lợn mắc bệnh phổ biến ở thể này, bệnh diễn biến nhanh từ vài giờ đến
vài ngày. Lợn mắc bệnh ăn ít hay bỏ ăn, ủ rũ, lười vận động, lợn bị sốt cao
40,50C-410C. Chảy nhiều nước mũi, lúc đầu loãng, sau đặc dần, có thể có mủ
hoặc đôi khi có máu, rất khó thở.
Sưng hầu có khi lan rộng ra cổ và cằm. Xuất huyết ở tai, vùng da cổ,
bụng, lưng.
Lợn chết do nhiễm trùng máu kết hợp với phổi bị viêm nặng, không
thở được.
Thể mãn tính
Bệnh kéo dài 3-6 tuần. Thể này thường kéo theo thể cấp tính nhưng
nhẹ hơn. Lợn khó thở, ho từng hồi (ho liên miên khi vận động nhiều). Tiêu
chảy liên miên và kéo dài. Có khi viêm khớp, da bong vảy, đi đứng không
vững. Sau 5-6 tuần lợn chết vì suy nhược.

10


* Bệnh tích [9]
Thể quá cấp tính
Lợn chết đột ngột, xung huyết và xuất huyết khắp cơ thể.
Thể cấp tính
Xuất huyết niêm mạc, các cơ quan phủ tạng bên trong, xuất huyết điểm
trên da, phù nề dưới da vùng cổ, vùng ngực rất nặng, tích nhiều nước trong
xoang ngực và xoang bụng. Viêm nặng ở phổi, xơ và hoại tử trong phổi. Đôi
khi màng phổi dính vào sườn và bao tim.
Thể mãn tính

Viêm phổi, màng phổi dính vào lồng ngực hoặc có những abcess phổi.
Hạch bạch huyết phổi bị bã đậu có mủ. Khí quản và phế quản tụ máu,
xuất huyết.
* Phòng bệnh [10]
Vệ sinh sát trùng chuồng trại thường xuyên bằng Pividine hoặc
Antivirus-FMB (dùng 2-3 ml thuốc hoà trong 1 lít nước, phun thuốc mỗi tuần
1-2 lần).
Tiêm phòng vacxin tụ huyết trùng lợn hoặc dùng kháng sinh Gentaseptryl hòa 4g/1 lít nước cho uống, 2-4 tuần dùng 1 lần.
* Điều trị
Có thể dùng một trong các loại kháng sinh sau đây liên tục 3 ngày.
Genta-clenro: 1ml/10kg P/ngày.
Tylogen: 1ml/10kg P/ngày.
Ampiseptryl: 1ml/6-10kg P/ngày.
Kết hợp với thuốc trợ sức, các thuốc hạ sốt.
3.3. Bệnh viêm phổi địa phương [5]
Bệnh viêm phổi địa phương còn gọi là bệnh suyễn. Bệnh do
Mycoplasma suineumoniae và Mycoplasma hyopneumoiae gây ra, tác động

11


chủ yếu trên bộ máy hô hấp. Lợn con từ 3-4 tháng tuổi dễ mắc bệnh. Bệnh
xảy ra quanh năm nhưng nghiêm trọng nhất là lúc trời lạnh và ẩm.
* Triệu chứng
Thời kỳ ủ bệnh kéo dài 10 ngày, lợn thường tách đàn nằm ở góc
chuồng, sốt nhẹ, kém ăn. Triệu chứng chung là chậm lớn, thở bụng, ho vào
buổi tối hay sáng sớm, ho khan từng tiếng hoặc từng chuỗi dài, nhất là sau khi
vận động nhiều. Lợn có thể ho từ 1-3 tuần rồi thôi hoặc có khi ho kéo dài
trong suốt thời gian nuôi cho đến khi giết thịt.
Bệnh thường xuyên dạng mãn tính, trong đa số các trường hợp bệnh

lợn vẫn ăn bình thường nhưng một số trường hợp lợn nhiễm ký sinh trùng
như giun đũa, giun phổi thì bệnh viêm phổi trở nên trầm trọng, lợn hắt hơi
từng hồi, chảy nước mũi, ho liên tiếp, thở khó, thở nhanh và gây chết nhất là
lợn giai đoạn 3-4 tháng tuổi.
* Bệnh tích
Lợn có thân nhiệt gần như bình thường, ho dai dẳng, ho từng hồi, thở
khó, thở khò khè về đêm, gầy còm, da nhợt nhạt, lông xù. Mổ khám thấy phổi
viêm đối xứng ở phần trên phần rìa của các thuỳ dưới.
Bệnh do Mycoplasma chỉ gây viêm mãn tính, tuy nhiên nếu bị phụ
nhiễm các loại vi khuẩn như: Pasteurella, Haemophillus, Streptococcus hoặc
Actinobacillus sẽ gây viêm cấp tính với triệu chứng sốt cao, khó thở, chảy
máu mũi, phổi xuất huyết nặng hoặc viêm phổi dính sườn.
* Phòng bệnh
Vệ sinh chuồng trại bằng Pividine hoặc Antivirus-FMB (dùng 2-3 ml
thuốc hoà trong 1 lít nước, phun thuốc mỗi tuần 1-2 lần), chăm sóc nuôi
dưỡng tốt, cho ăn đủ dinh dưỡng.
Phòng bệnh bằng vacxin Respisure hoặc dùng kháng sinh SG.Linpec,
Tiatetra: 2g/1kg thức ăn, dùng liên tục trong 4-5 ngày.

12


Cách ly lợn mới nhập trong thời gian 30 ngày để theo dõi tình trạng sức
khỏe trước khi nhập đàn.
* Điều trị
Có thể dùng một trong các loại kháng sinh sau đây liên tục 3-5 ngày.
Terravet:. 1ml/10kg P/ngày
Mabocin: 1ml/10kg P/ngày.
SG.Tylo-S: 1ml/7-10kg P/ngày.
Kết hợp với thuốc kháng viêm như: Ana-Dexa, trợ sức bằng B.Complex-C,

trợ hô hấp bằng SG.Bromhexin.
3.4. Bệnh phó thương hàn [1][5]
* Nguyên nhân
Bệnh do vi khuẩn Salmonella Choleraesuis và Salmonella typhisuis gây
ra với đặc điểm nhiễm trùng máu, viêm dạ dày ruột, viêm phổi trên lợn sau
cai sữa, lợn thịt. Gây xáo trộn sinh sản trên lợn nái.
* Triệu chứng
Thể cấp tính
Sốt cao từ 400C-410C, kém ăn, táo bón, phân lợn có màu đen, màng
nhầy bao quanh phân. Con vật thở khó và nhanh, tim đập yếu.
Da xuất huyết thành từng nốt đỏ ửng rồi chuyển sang tím xanh ở tai,
bụng, mặt trong đùi. Sau 1-2 tuần con vật suy kiệt dần, tiêu chảy nặng và có
thể chết.
Thể mãn tính
Lúc đầu không có triệu chứng điển hình, con vật biếng ăn, gầy yếu,
xanh xao, trên da có những mảng đỏ hoặc tím bầm. Lợn táo bón, đi phân
thường phải rặn nhiều, thể mãn tính thường xảy ra ở lợn lớn. Lợn nái mang
thai bị bệnh có thể sẩy thai, nếu sinh lợn con cũng gầy yếu.
* Phòng bệnh
Tuân thủ qui trình tiêm vacxin phòng bệnh phó thương hàn.

13


Mua lợn về nuôi cần rõ nguồn gốc, cách ly trước khi nhập đàn.
Chú ý vệ sinh chuồng trại, tiêu độc định kỳ nhất là vào mùa mưa.
Tăng cường khẩu phần tăng sức đề kháng cho lợn.
* Trị bệnh
Có thể dùng một trong các loại kháng sinh đặc trị sau:
+ Vime Sone: 1ml/5-10kg thể trọng, tiêm bắp,1 lần/ ngày, liên tục 5-7

ngày.
+ Vimetry 100: 1ml/7-15kg thể trọng, tiêm bắp, 1 lần/ngày, liên tục 5-7
ngày.
+ Vimefloro F.D.F: 1ml/5-10kg thể trọng, tiêm bắp, 1 lần/ngày, liên
tục 5-7 ngày.
+ Urotropin: 1ml/5-10kg, ngày 1-2 lần, B.Complex 1ml/10kg thể trọng,
1 lần/ tuần. Bổ sung men tiêu hóa, lợn sẽ mau phục hồi sau bệnh.
3.5. Bệnh phân trắng lợn con [5]
Bệnh phân trắng ở lợn con là một hội chứng tiêu chảy phân trắng của
lợn con đang theo mẹ, đặc biệt từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi. Bệnh xảy ra
quanh năm, nhưng hay gặp nhất khi thời tiết thay đổi: nóng lạnh thất thường,
mưa nhiều, độ ẩm cao…
* Nguyên nhân gây bệnh
Do điều kiện vệ sinh dinh dưỡng: sữa mẹ thiếu chất, đặc biệt thiếu sắt.
Khi còn bú mẹ, lợn con rất cần nước, thiếu nước chúng sẽ uống nước
bẩn…
Do đặc điểm sinh lý lợn con: khi mới sinh, cơ thể lợn con chưa phát
triển hoàn chỉnh về hệ tiêu hóa và miễn dịch. Trong dạ dày lợn con thiếu axit
HCL, men Pepsin hoạt động được nên không tiêu hóa được sữa mẹ. Hơn nữa
lượng mỡ dưới da của lợn con lúc mới sinh chỉ có khoảng 1%. Lúc khí hậu
thay đổi lợn con mất cân bằng giữa hai quá trình sản nhiệt và thải nhiệt.

14


Do vi khuẩn đường ruột thường là kế phát. Khi sức đề kháng của lợn
con giảm, E.coli, Salmonella phát triển nhanh chóng gây bội nhiễm.
* Triệu chứng
Thể gây chết nhanh: chủ yếu ở lợn từ 4-15 ngày tuổi, sau 1-2 ngày đi
phân trắng lợn con gầy sút rất nhanh, kém bú rồi bỏ bú hẳn, đi đứng xiêu vẹo,

niêm mạc mắt nhợt nhạt, bốn chân lạnh. Có con hay đứng riêng một chỗ và
thở nhanh, tiêu chảy phân lỏng. Màu phân từ xanh đen biến thành màu xám
(màu tro bếp), rồi màu trắng đục, trắng hơi vàng. Mùi tanh, khắm. Phân dính
vào mông, đuôi, bệnh kéo dài 2-4 ngày. Lợn suy nhược, trước khi chết có
hiện tượng co giật hoặc run.
Thể kéo dài: lợn từ 20 ngày tuổi trở lên hay mắc thể này, bệnh kéo dài
từ 7 - 10 ngày, lợn bú kém, phân màu trắng đục, trắng hơi vàng. Có con mắt
có ghèn, có quầng thâm quanh mắt, niêm mạc nhợt nhạt. Nếu không lành, lợn
suy nhược rồi chết sau hàng tuần bị bệnh.
* Bệnh tích
Cơ thể mất nước, ốm, phân dính bết vào hậu môn.
Mạch máu ruột và hạch ruột xung huyết cấp tính.
* Phòng bệnh
- Lợn con sau khi sinh nên cho bú đủ sữa đầu, úm liên tục đến 2 tuần.
Tiêm sắt đầy đủ (Iron Dextran 10% hoặc Iron Dextran B12: 1 ml/ con vào
ngày thứ 3 và 1 ml/ con vào ngày thứ 10).
- Vệ sinh chuồng trại bằng thuốc sát trùng Pividine hoặc AntivirusFMB (dùng 2-3 ml thuốc hoà trong 1 lít nước, phun thuốc mỗi tuần 1-2 lần).
- Giữ ấm cho lợn con.
- Tập lợn con ăn bằng thức ăn dễ tiêu hoá như Swine milk.
- Tiêm Vitavet AD3E: 1 ml/ con, mỗi tuần tiêm 1 lần.
* Trị bệnh
Dùng kháng sinh, thuốc trợ sức và cấp chất điện giải cho lợn.

15


- Kháng sinh: Chọn 1 trong các loại kháng sinh sau:
+ C.F.G, SG.Anti-E.Coli, NEO-PEC: 1-2 ml/con/ lần, cho uống trực
tiếp ngày 2 lần, liên tục 2-3 ngày.
+ Sapectyl: 2 ml/ 5-7 kg thể trọng/ lần, cho uống trực tiếp ngày 2 lần,

liên tục trong 3-5 ngày.
+ Nếu bệnh kéo dài nên kết hợp kháng sinh tiêm: Coligen hoặc
SG.Enro-Colistin (1 ml/ 5 kg thể trọng, ngày 1 lần trong 2-3 ngày).
- Trợ sức: B.Complex-C: 1 ml/ 5-10 kg thể trọng, ngày tiêm 1 lần cho
đến khi hết bệnh.
- Cấp nước: SG.Glucose5% tiêm vào xoang bụng 200 ml/con/ ngày.
- Cấp chất điện giải: Electrolyte-C: hoà tan 1g/ 2 lít nước, cho uống tự
do.
3.6. Bệnh đóng dấu lợn [7]
* Nguyên nhân gây bệnh
Do vi khuẩn Erysipelothrix rhusiopathiae gây nên. Thường xẩy ra ở lợn
từ 3-12 tháng tuổi. Trên lợn không tiêm phòng tỷ lệ mắc bệnh 10-30%, tỷ lệ
chết có thể lên đến 70%.
* Triệu chứng
Thể quá cấp tính: Bệnh phát triển nhanh, có khi lợn có biểu hiện triệu
chứng thần kinh, sốt cao 41-420C, sau đó dãy dụa rồi chết, các triệu chứng
bệnh tích hầu như chưa xuất hiện.
Thể cấp tính: Thời gian ủ bệnh 1-7 ngày, sốt cao 420C , tiết dịch ở mắt
và kết mạc.
- Giảm ăn, khát nước, nôn mửa, phân bón đen, kiệt sức.
- Trong đàn bệnh thường thì đầu tiên có một vài con chết, sau 2-4 ngày
xuất hiện những dấu đỏ hình tứ giác, vuông, chữ nhật… đặc biệt có ở hông,
da dụng, lưng. Khi hết bệnh những dấu đỏ trên da sẽ trở thành vẩy.
Thể mãn tính.

16


- Thường tổn thương khớp khuỷu, đầu gối, mắt cá, hông, lúc đầu khớp
sưng, đau, sau đó cứng lại, sưng nhưng không viêm làm cho lợn đi lại

khó khăn.
- Viêm nội tâm mạc, viêm nội tâm mạc + viêm khớp.
- Lợn gầy, thở khó và bị tím xanh khi dùng sức quá nhiều hoặc có thể
chết đột ngột do kiệt sức, mệt.
* Bệnh tích
Lợn chết nhanh .Lách, thận sưng to, tụ máu màu đỏ nâu. Mặt lách sần
sùi, nổi phồng từng chỗ.
Phúc mạc viêm có nước chảy ra. Ruột và dạ dày viêm đỏ.
Tim, phổi : tụ huyết, xuất huyết.
* Phòng bệnh
Tiêm vaccine nhược độc đóng dấu chủng VR2 của Rumani.
Vệ sinh chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Sử dụng thức ăn và nước uống hợp vệ sinh.
Mật độ nuôi thích hợp.
* Điều trị
- Dùng một trong các loại sản phẩm sau: Best Sone, Tylo-D.C Gold,
SG.Speclin, Lincocin 10%, Peni G, SG.Peni-4T, Peni-Strep.
- Dùng kết hợp các sản phẩm cung cấp chất bồi dưỡng, tăng sức kháng
bệnh, giúp lợn mau hồi phục. Sử dụng một trong các sản phẩm sau:
SG.Vitamin C-2000, Taluto, ADE.B.Complex, B.Complex-C.
Trường hợp lợn bị sốt dùng thêm một trong các sản phẩm sau để giảm
sốt: Analgine+C, Para-C, Analgine 250, ANA-Dexa.
- Vệ sinh sát trùng chuồng trại định kỳ (2-3 lần/1 tuần): Pividine hoặc
Antivirus-FMB.
3.7. Bệnh phù thủng ở lợn con sau cai sữa [8]
* Nguyên nhân gây bệnh

17



Do E.coli có sẵn trong cơ thể kết hợp với stress bầy. Thay đổi thức ăn
đột ngột, tách mẹ, không còn kháng thể truyền từ mẹ.
Do chuồng trại vệ sinh không tốt, ẩm thấp. Thiếu vitamin PP, B5, sắt.
Bệnh thường xảy ra trên lợn cai sữa hoặc sau cai sữa 1-3 tuần tuổi.
Bệnh thường xảy ra trên những con lớn nhất đàn sau lây qua những con
khác. Tỷ lệ chết khá cao (65-100%).
* Triệu chứng
- Lúc mới nhiễm bệnh, lợn tiêu chảy màu phân vàng hoặc vàng nhạt,
phân bết vào hậu môn, đuôi. Da nhăn nheo do mất nước, lông xù, dựng. lợn
bệnh chỉ nằm và ngồi co tư thế kiểu chó.
- Phù thủng xuất hiện chủ yếu ở vùng đầu như: mí mắt, vùng hầu, gốc
tai, đôi khi sưng cả mặt
- Phù não, não bị chèn ép gây nhũn não dẫn đến triệu chứng thần kinh
như: co giật kiểu bơi chèo, đi xiêu vẹo, hay đâm đầu vào tường, đi lại không
định hướng.
- Do thủy thủng ở thanh quản nên hay kêu khàn giống tiếng chim.
- Bệnh diễn biến nhanh trong 24h, lợn chết đột ngột.
- Nhiệt độ không tăng, lợn khó thở, xuất huyết ở niêm mạc và xanh tím
ở tai, mõm, chóp đuôi...
* Bệnh tích
- Mất nước, ruột sưng to, xuất huyết, phù nề. Khúc cuối ruột già chứa
nhiều dịch thủy thủng.
- Hạch vùng bẹn, hạch ruột bị thủy thủng.
- Có thể thủy thủng mí mắt, lỗ tai, ở quanh tim, thanh quản.
- Xuất huyết da ở phần thân gây: tím da, đớm đớm đỏ.
* Phòng bệnh
- Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng, giữ chuồng khô ráo, ấm áp, sạch
sẽ. Thức ăn và nước uống phải chất lượng hợp vệ sinh.

18



- Sát trùng chuồng trại bằng chế phẩm: Pividine hoặc Antivirus-FMB.
- Tập cho lợn con ăn sớm để tránh yếu tố stress, cải thiện hệ vi sinh
đường ruột, cung cấp chất dinh dưỡng. Sử dụng một trong các sản phẩm sau:
Swine Milk, Multi-20U, Multi-Bio-40.
- Lợn con sau cai sữa khẩu phần phải giảm tinh bột và đạm. Cung cấp
thêm vitamin C, A, D, E, H, PP, B5 … và kháng sinh để phòng bệnh :
+ Cung cấp vitamin: chọn 1 trong các sản phẩm sau: SG.B.Complex,
ADE.Solution, ADE.B.Complex, B.Complex-C.
+ Kháng sinh phòng bệnh: chọn 1 trong các sản phẩm sau: Ampi-Sep,
Genta-Septryl.
+ Tiêm Iron Dextran10% hoặc Iron Dextran Complex-B12 vào ngày
tuổi thứ 3 và ngày thứ 10.
* Điều trị
- Vệ sinh chuồng trại định kỳ (2-3 lần/ngày): Pividine hoặc AntivirusFMB.
- Sử dụng kháng sinh bơm uống trực tiếp: C.F.G, NEO-PEC, SG.AntiE.Coli, Sapectyl, Specticol.
- Có thể sử dụng các loại dung dịch kháng sinh tiêm cho lợn:
SG.Colistin-D, SG.Gentasone, Bactrim, NEO-Coli-D.
- Bổ sung thêm chất điện giải: Amilyte, Electrolyte-C, SG.Oresal.

19


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG-THỜI GIAN-ĐỊA ĐIỂM-NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Lợn nuôi ở gia đình và trang trại ở mọi lứa tuổi của huyện Can Lộc năm
2010.

2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Địa điểm nghiên cứu: đề tài được tiến hành trên toàn huyện nhưng trọng tâm
là 3 xã: Kim Lộc, Thanh Lộc, Tiến Lộc.
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài được tiến hành từ 1/1/2010 đến 31/12/2010.
3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1.1. ĐIỀU TRA
- Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở huyện Can Lộc năm 2010.
- Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở các xã thuộc huyện Can Lộc năm 2010.
- Tỷ lệ nhiễm bệnh theo mùa của lợn ở 3 xã Kim Lộc, Thanh Lộc,
Tiến Lộc và loại bệnh đã nhiễm năm 2010.
- Mùa phát dịch cho từng loại bệnh ở 3 xã Kim Lộc, Thanh Lộc, Tiến
Lộc.
3.1.2. Nghiên cứu
- Bệnh tích.
- Phác đồ điều trị có hiệu quả cho từng bệnh.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Phỏng vấn trực tiếp những người có chuyên môn của thôn, xã, huyện.
-Sử dụng phiếu điều tra theo mẫu và được sự kiểm chứng của cán bộ
thú y xã, huyện.

20


- Thu thập số liệu thứ cấp từ phòng thống kê huyện, trạm thú y huyện
và đơn vị thú y xã Kim Lộc, Thanh Lộc, Tiến Lộc.
3.2.2. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê toán học:
Số lợn bị bệnh × 100

* Tỉ lệ (%) lợn bị bệnh =
Tổng số lợn
* So sánh nhiều tỷ lệ theo công thức:
Giả thiết: H: các tỷ lệ như nhau; K: các tỷ lệ khác nhau; α = 0,05
n ×nj

 nij − i
2
S
n
χ 2 = ∑∑ 
ni × n j
i =1 j =1





2

n

Trong đó:
n: Tổng số lợn bị bệnh và không bị bệnh của 4 mùa
ni: Tổng số lợn bị bệnh và không bị bệnh vào từng mùa
nj: Tổng số lợn bị bệnh hoặc không bị bệnh vào từng mùa
nij: Số lợn bị bệnh và không bị bệnh vào từng mùa
Với α đã cho tra bảng tìm χ 2(2-1)(s-1)(α)= χ 2(s-1)(α)
Nếu χ 2≥ χ 2(s-1)(α) ta bác bỏ giả thiết các tỷ lệ như nhau.


21


CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
1.1. Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở huyện Can Lộc năm 2010
Kết quả điều tra tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở huyện Can Lộc được trình
bày ở bảng 3.1
Bảng 3.1. Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở huyện Can Lộc năm 2010

Số con nhiểm

Loại bệnh

Tổng số lợn

Dịch tả lợn
Tụ huyết trùng
Viêm phổi địa

65717
65717

1335
1836

2,03
2,79


phương

65717

11990

18,24

Phân trắng lợn con
Phó thương hàn
Bệnh phù thủng

65717
65717

11025
1683

16,78
2,49

trên lợn cai sữa

65717

618

0,94

Bệnh đóng dấu lợn


65717

243

0,37

bệnh

Tỷ lệ (%)

So sánh với tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn 2009 qua bảng sau
Bảng 3.2. Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở huyện Can Lộc năm 2009
Loại bệnh

Tổng số lợn

Tỷ lệ (%)

22


Sốcon nhiểm bệnh
Dịch tả lợn
Tụ huyết trùng
Viêm phổi địa

58649
58649


1126
1507

1,92
2,57

phương

58649

9507

16,21

Phân trắng lợn con
Phó thương hàn
Bệnh phù thủng

58649
58649

8850
1783

15,09
3,04

trên lợn cai sữa

58649


499

0,85

Bệnh đóng dấu lợn
Bệnh sẩy thai

58649

229

0,39

truyền nhiễm

58649

35

0,06

Kết quả bảng 3.1 cho thấy năm 2010 lợn cũng nhiễm những bệnh
thường gặp từ trước tới nay như: dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn, bệnh
phù thủng trên lợn sau cai sữa, bệnh đóng dấu lợn…trong đó bệnh viêm phổi
địa phương, và phân trắng lợn con chiếm tỷ lệ cao nhất ( 18,24% và 16,78%) .
Từ kết quả trình bày ở hai bảng trên cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh năm 2010 cao
hơn so với năm 2009.
Riêng bệnh dịch tả năm 2008 không thấy xuất hiện nhưng đến năm
2009 lại bùng phát và năm 2010 bệnh lại tạo thành dịch lớn trên 3 xã Tiến

Lộc, Thanh Lộc và Kim Lộc, một vài xã nữa cũng xuất hiện nhưng số lượng
mắc chưa đáng kể thì các cơ quan thú y đã kịp thời ngăn chặn dịch. Tỷ lệ mắc
chung toàn huyện năm 2010 là 2,03%.
Năm 2010 dịch bệnh xảy ra rất nhiều và một số bệnh chiều hướng tăng
như bệnh phân trắng lợn con năm 2009 chiếm 15,09% nhưng đến năm 2010
lên đến 16,78%. Tương tự, bệnh tụ huyết trùng cũng vậy từ 2,57% năm 2009
tăng lên 2,79% năm 2010.

23


Riêng bệnh viêm phổi địa phương có chiều hướng gia tăng cao. Theo
số liệu của trạm thú y huyện, năm 2008 bệnh viêm phổi địa phương chiếm
14,86% nhưng đến năm 2009 lên đến 16,21%, năm 2010 là 18,24%. Đây là
một bệnh rất khó điều trị triệt để, khả năng tái phát rất cao, tỷ lệ chết thấp
nhưng lợn còi cọc, chậm lớn gây thiệt hại lớn về kinh tế. Hiện nay đã có
vaccine phòng bệnh viêm phổi địa phương nhưng giá rất cao khoảng 20000
đồng/liều/con, nên rất ít bà con sử dụng để phòng bệnh cho đàn lợn của mình,
hơn nữa việc phòng bệnh chỉ có hiệu quả khi đàn lợn chưa nhiễm mầm bệnh
vì vậy bệnh có chiều hướng gia tăng là điều có thể lý giải được.
Bệnh phù thủng trên lợn sau cai sữa xuất hiện rải rác trong toàn huyện
với tỷ lệ thấp khoảng 0,94%. Nhưng một khi bệnh đã xảy ra thì thường ở thể
cấp tính hoặc quá tính nên tỷ lệ chết rất cao, khoảng 95%.
Bệnh đóng dấu lợn xảy ra rải rác trong toàn huyện với tỷ lệ 0,37% thấp
hơn so với năm 2009(0,39%).
Tỷ lệ nhiễm từng bệnh ở huyện Can Lộc năm 2010 được thể hiện qua
biểu đồ 3.1.

Tỷ lệ nhiễm bệnh (%).


24


Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở huyện Can Lộc năm 2009
1.2. Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở các xã thuộc huyện Can Lộc năm 2010
Tổng cộng trong huyện có 22 xã trong đó thị trấn Nghèn và các xã
miền núi có số đầu lợn thấp.
Kim Lộc, Thanh Lộc và Tiến Lộc là 3 xã chăn nuôi lợn nhiều nhất và
thường xuyên xảy ra dịch bệnh. Trong đó Tiến Lộc luôn là điểm nóng của
dịch bệnh trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
Số liệu cụ thể về tình hình bệnh tật trên từng xã được biểu hiện ở bảng 3.3

Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm bệnh của lợn ở các xã năm 2010

25


×