Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Trống đồng đông sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.6 KB, 7 trang )

Trống Đồng Đông Sơn

Trống Đồng Đông Sơn
Bởi:
Wiki Pedia

Công dụng trống đồng
* Trong lễ mai táng các quan lang Mường và các ngày hội hè của người Mường tỉnh
Hòa Bình.
* Trong cuộc tế "thần sấm" của người Lê ở đảo Hải Nam, Trung Quốc
* Theo bài dân ca H'Mông "Hồng thuỷ hoành lưu" thì trống đồng đã cứu sống tổ tiên
người H'Mông trong thời kỳ có nạn lụt lớn
* Trống được diễn tấu với dàn nhạc trong vương triều phong kiến thời nhà Hậu Lê, được
ghi ở trong sách "Cương mục"
* Trống đồng đã được sử dụng trong quân đội thời nhà Trần theo một bài thơ của Trần
Phu, sứ thần nhà Nguyên tại nước Đại Việt thuở ấy.
* Trống biến thành vật chôn theo người chết như ở khu mộ táng Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hóa.
Nhìn chung chức năng chủ yếu của trống đồng vẫn là chức năng của một nhạc khí. Đánh
vào vành 1-3 được nốt Si giáng; ở vành 4-5 được nốt Mi và Fa; ở vành 7 cũng được nốt
Si giáng. Từ vành 9 trở ra lại trở lại nốt Mi (theo kết quả ghi âm của Cao Xuân Hạo)
Trống Đồng còn tượng trưng cho quyền lực của các vị thủ lĩnh ngày xưa. Các vị vua
thưởng cho các tù trưởng người dân tộc những chiếc trống đồng. Điều đó thể hiện uy
quyền của nhà nước đối với các vùng tự trị, tự do tương đối. Theo Hậu Hán thư (??? một cuốn chính sử của Trung Quốc), Mã Viện, tướng nhà Hán đã dập tắt cuộc nổi dậy
của Hai Bà Trưng vào khoảng năm 40-43, đã thu và nấu chảy trống đồng của các thủ
lĩnh địa phương. Điều đó cũng cho thấy ý nghĩa chính trị của trống đồng.

Tên gọi theo phân loại
Trong năm 1902, nhà nghiên cứu người Áo F. Heger đã xuất bản tập sách "Những trống
kim khí ở Đông Nam Á" đã chủ trương chia trống đồng thành 4 loại chính, gọi tắt là
1/7




Trống Đồng Đông Sơn

HI, HII, HIII và HIV, theo thứ tự từ cổ nhất đến gần đây nhất. (Xem bài chính Hệ thống
phân loại trống). Trống đồng Đông Sơn của Việt Nam được xếp vào loại HI.

Đặc điểm trống đồng Đông Sơn
* Giữa mặt trống là hình ngôi sao, phần nhiều là sao 12 cánh, xen giữa các cánh sao là
họa tiết lông công hoặc những đường vạch chéo có hình tam giác lồng vào nhau.
* Bao quanh các ngôi sao có hình người, vật, động vật và hoa văn hình học. Hoa văn
hình học thường thấy là: đường chấm nhỏ, vành chỉ trơn, vòng tròn chấm giữa tiếp
tuyến, vòng tròn đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến, hoa văn hình chữ \int_{\,}^{\,} gẫy
khúc, hoa văn răng cưa và vạch ngắn song song
* Thân trống thường có hình thuyền, hình vũ sĩ, hình một số chim, thú thông thường thì
chỉ có hoa văn hình học.
* Quai trống thường làm theo hình dây thừng bện.

Phân loại trống
Trống đồng Đông Sơn được phân loại theo sự phân bố của những hình khắc và hoa văn
trên trống:
Nhóm A
Tiểu nhóm A1
Gồm 6 trống: Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ, Sông Đà, Khai Hóa, Bản Thôm và Quảng Xương.
1. Đặc điểm:
* Hình khắc phong phú, gồm hình người và động vật, trong đó hình người đóng vai trò
chủ đạo
* Tang trống khắc 6 chiếc thuyền và ở giữa thân trống có hình vũ sĩ đứng trong các ô
chữ nhật.
2. Hoa văn:

* Hoạ tiết lông công xen giữa các cánh sao, hoa văn hình chữ \int_{\,}^{\,} gãy khúc và
có hoa văn răng cưa

2/7


Trống Đồng Đông Sơn

Tiểu nhóm A2
Gồm 8 trống: Miếu Môn, Vũ Bị, Đồi Ro, Làng Vạc I, Làng Vạc II, Pha Long, Phú
Xuyên và Hoà Bình.
1. Đặc điểm:
* Giống tiểu nhóm A1 là tang trống cũng có cảnh đua thuyền, nhưng số lượng thuyền
thay dổi, nhưng trên mặt trống không có cảnh sinh hoạt như ở nhóm A1. Ngoài ra có
thêm những động vật kỳ dị như con vật đầu chim, có 4 chân và đuôi dài như đươi cáo
hoặc là hình con vật 4 chân, có bờm, đuôi cuộn, mõm há. Thay vào hình vũ sĩ là hình bò
hay hình chim.
2. Hoa văn:
* Hoa văn chủ đạo là hoạ tiết tam giác lồng nhau xen giữa các cánh sao và hoa văn răng
cưa.
Nhóm B
Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất, gồm 26 trống: Duy Tiên, Yên Tập, Ngọc Lũ II,
Phú Duy, Núi Gôi, Việt Khê, Làng Vạc III, Làng Vạc IV, Định Công I, Định Công II,
Định Công III, Cửu Cao, Mật Sơn, Thiết Cương, Phương Tú, Pắc Tà, Giải Tất, Bình
Phủ, Hà Nội, Hoằng Vinh, Vĩnh Ninh, Đông Sơn I, Đông Sơn II, Đông Sơn II, Đông
Sơn IV, Đào Thịnh.
Đặc điểm:
* Hình ngôi sao trên mặt trống phần nhiều là 12 cánh, ngoài ra có một ít là hình sao 8
cánh và 10 cánh.
* Vành chim trên mặt trống thường khắc 4 con, một vài trống là 6 con.

* Hoạ tiết lông công đã có biến thể, hình tam giác phủ vạch chéo, hình chữ gẫy khúc và
vạch ngắn song song.
Nhóm C
Gồm 11 trống: Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Phú Phương I, Phú Phương II, Nông
Cống, Thôn Bùi, Chợ Bờ, Đắc Glao, Thôn Mống, Hàng Bún.
Đặc điểm:

3/7


Trống Đồng Đông Sơn

* Trên mặt trống xuất hiện 4 khối tượng cóc và vành hoa văn hình chim cách điệu bao
quanh ngôi sao. Ngôi sao phần nhiều có 12 cánh, vành chim có từ 4 đến 10 con. Trên
mặt trống có 6 dạng văn chủ yếu sau: hình tam giác lồng nhau, vòng tròn đồng tâm chấm
giữa và có tiếp tuyến, vạch ngắn song song, chữ M lồng nhau, đường gấp khúc liên tiếp
tạo thành những ô hình quả trám và hoa văn có hình trâm.
Ngoài ra còn có nhiều trống minh khí có kích thước nhỏ, trên trống lại có rất ít hoa văn
trang trí nên không được đưa vào hệ thống phân loại trên.
Tháng 8 năm 2004, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tổ chức kỷ niệm 80 năm văn hóa
Đông Sơn xuất lộ với nhiều hoạt động trưng bày hiện vật, trong đó có việc trưng bày các
loại trống đồng Đông Sơn.

Văn hóa, xã hội Lạc Việt theo hình thức trống
Kinh tế và văn hoá vật chất
Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp phát triển. Việc phát
hiện ra những lưỡi cày đồng và những hình bò được khắc trên thân trống chứng tỏ thời
kỳ này đã biết sử dụng sức kéo động vật vào canh tác nông nghiệp. Ngoài ra, các nghề
đánh cá, săn bắn, chăn nuôi gia súc và sản xuất thủ công cũng phát triển trong thời kỳ
này.

Phần lớn những nơi phát hiện có trống đồng phân bố dọc theo triền những con sông lớn
ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trống có thể đã được phân phối bằng đường
thuỷ.
Ngoài ra, trong xã hội Lạc Việt còn có tồn tại sự bất bình đẳng về tài sản. Điều này được
phản ánh rõ ràng trong sự phân bố những hiện vật tuỳ táng ở các ngôi mộ giàu nghèo
thuộc thời đại đồ đồng.
Quan niệm tôn giáo
* Việc gắn hình ngôi sao ở trung tâm mặt trống là biểu tượng của tục thờ thần Mặt Trời.
* Những người hóa trang lông chim trên trống đồng thể hiện vật tổ của cư dân bấy giờ
là loài chim.
* Từ những cảnh sinh hoạt trên trống đồng, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng đó là "lễ
khánh thành trống đồng", "lễ chiêu hồn", "đám tang" hoặc "lễ cầu mùa"...

4/7


Trống Đồng Đông Sơn

Nghệ thuật
Hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ 1
Hình dáng trống đồng Làng Vạc 1
Hình dáng trống đồng Phú Phương 1
Trang phục
Quần áo được tả trên trống có các loại như: áo hai vạt ngắn, áo hai vạt dài, váy, khố...Họ
đội nhiều loại mũ, tết các kiểu tóc khác nhau.
Kiến trúc
Dựa theo những hình khắc trên trống đồng thấy có 2 loại hình kiến trúc là nhà sàn mái
cong và nhà sàn mái tròn. Nhà có 2 cột chống ở phía đầu nhà, hai đầu và ở giữa có kê
thang để lên sàn. Nhà mái tròn thường có một người (hoặc không có người) đứng giữa
cửa, hai bên của có chắn phên. Nhà mái tròn có thể liên quan đến tín ngưỡng và tạm gọi

là "nhà thờ". Còn những ngôi nhà có mái cong như hình thuyền lại có nhiều người có
thể liên hệ rằng đó là "nhà ở". Hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Có thể
nói nhà sàn là loại hình kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt.
Tượng trang trí
Có tượng hình chó trên mặt trống nhỏ Đông Sơn, tượng cóc trên mặt các trống nhóm C.
Hình tượng còn rất sơ lược nhưng nếu so sánh với thời đại hậu kỳ đồ đá mới có nghệ
thuật vẫn chỉ là dạng hoa văn minh họa, thì chúng ta mới thấy bước tiến bộ về mặt nghệ
thuật cũng như về kỹ thuật điêu khắc ở thời đại đồ đồng.
Vũ nghệ
Trên trống đồng, những người múa thường được phục trang bằng những bộ quần áo
như: mũ lông chim cao hoặc mặt nạ, tay đôi tkhi cầm vũ khí. Mỗi tốp người múa thường
có từ 3,4 hoặc 6 đến 7 người. Trong tốp này có người thổi khèn còn những người còn
lại biểu hiện theo một động tác thống nhất, chuyển động từ trái sang phải, người sau nối
tiếp người trước một quãng đều đặn, tất cả điều hành vòng quanh ngôi sao (mặt trời).
Âm nhạc
Theo hình khắc trên trống đồng thì thấy có hai loại nhạc khí được sử dụng bấy giờ là
khèn và trống. Có hai cách sử dụng trống:

5/7


Trống Đồng Đông Sơn

* Trống một người biểu diễn như hình người cầm trống trong nhà hay trên thuyền để
giữ nhịp.
* Trống diễn tấu trong một dàn trống. Người đánh trống ngồi hoặc đứng trên sàn, cầm
gậy dài đánh theo chiều đứng. Trống được đặt trên những chiếc giá sát đất. Kiểu đánh
này vẫn được nhìn thấy hiện nay ở những ngày hội của đồng bào Mường ở các tỉnh Hoà
Bình.
Nghệ thuật tạo hình

Nghệ thuật trống đồng khá độc đáo, đặc trưng bởi kỹ thuật khắc chạm trên khuôn tạo ra
những hình ảnh khắc chìm chủ yếu trên mặt trống, còn trên thân trống thì là hình khắc
hơi nổi. Nghệ nhân đã xây dựng hình ảnh trong những bố cục tròn trên mặt trống và ô
chữ nhật trên thân trống, bên trong loại bố cục này thì hình ảnh được sắp xếp rất cân
đối. Hình ảnh con người luôn được dĩen tả theo tư thế động: múa, giã gạo, đánh trống,
bơi chải...Về mặt bố cục, tất cả người, động vật đều diễu hành quanh ngôi sao giữa mặt
trống. Đặc biệt, phần tạo hình ở đây hơi giống kiểu tạo hình Ai Cập. Ví dụ: tốp người
múa trên mặt trống có ngực hướng thẳng về phía khán giả, chân và đầu theo lối nhìn
nghiêng. Còn trong hình chim bay thì thân cánh và đuôi được tả theo hình nhìn từ trên
xuống, còn đầu thì theo lối nhìn nghiêng.

Những kiến thức khoa học
* Kỹ thuật đúc: Trống đồng là một hiện vật khá lớn. Chiếc trống cỡ lớn có đường kính
mặt trống xấp xỉ 90 cm, chiều cao trên dưới 60 cm, nặng gần 100 kg, hình thể phức tạp:
tang trống phần trên phình ra hình nón cụt, giữa thắt lại hình trụ tròn, phần chân loe ra
hình phễu. Để đúc một vật như vậy không hề đơn giản. Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng
trống được đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt trống còn để lại những dấu vết cách đều,
đó là dấu vết con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc. Để đúc thành
công như vậy thì người nghệ nhân phải đạt được hàng loạt các yêu cầu về kỹ thuật như
phải có một nhiệt độ cao để nung chảy hợp kim đồng, phải tìm được vật liệu chịu lửa để
làm khuôn đúc, phải nắm vững được tính năng hóa lý của mỗi kim loại trong hợp kim
đồng, đặc biệt là phải có kỹ thuật đúc với tay nghề thành thạo. Quan sát hệ thống hoa
văn dày đặc và tinh xảo trên trống Ngọc Lũ 1 và trống Hoàng Hạ có thể kết luận được
xã hội Lạc Việt có những người thợ đúc lành nghề.
* Số lượng những cánh sao, động vật, những hình thuyền trong vành hầu hết đều là số
chẵn. Điều này chứng tỏ người Lạc Việt đã rất chú ý đến việc tính đếm. Trong số những
số lượng cánh sao nổi bật lên là con số 12 (chiếm 46,1% tổng số). Số này liên quan đến
số lượng tháng trong một năm.

6/7



Trống Đồng Đông Sơn

* Các nhóm thuyền khắc trên trống thể hiện sự phát triển về kỹ thuật quân sự của thời
này. Trong số 436 người được khắc trên các trống có 175 người cầm vũ khí (40,1%).
Các loại vũ khí gồm: giáo, rìu, cung, dao găm và mộc.

Trống đồng Đông Sơn với xã hội Hùng Vương
Những trống đồng Đông Sơn sớm nhất đã xuất hiện vào những thế kỷ 6 TCN và thế kỷ
7 TCN trên địa bàn miền Bắc Việt Nam ngày nay, thuộc thời kỳ Hùng Vương. Nhưng
lịch sử của thời đại các vua Hùng còn chưa được giới sử học tranh luận ngã ngũ vì chưa
tìm được "dấu ấn" của vua Hùng. Những hình khắc trên trống đồng Đông Sơn giờ đây
có thể nói lên phần nào xã hội thời bấy giờ.
Theo "truyền thuyết trăm trứng" và mo "Đẻ đất đẻ nước", 50 người con về đồng bằng
trở thành tổ tiên người Việt, 47 người di cư lên miền núi trở thành tổ tiên các dân tộc
miền núi, còn lại 3 người từ những trứng nở đầu tiên tên là Tá Cần, Tá Kài và cô nàng
Kịt, ba người sống chung với nhau... Về sau Tá Cần lên làm vua và đã từng lấy Bà Chu
Bà Chuông làm vợ sinh ra 18 người con: 9 trai và 9 gái. Họ trở thành lang và chia nhau
đi coi các bản mường. Con số 18 khá quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước
người Lạc Việt, giống như số 60 của người Babilon ở Lưỡng Hà hay số 20 của người
Maya cổ
Nghiên cứu số lượng chim trên các vành chim bay (chim vật tổ của người Lạc Việt)
chúng ta nhận thấy phần lớn mỗi vành đều có 18 chim. Điều đặc biệt là trên mặt trống
Sông Đà, người nghệ nhân do lúc đầu sơ ý đã chia nhầm thành 17 cung bằng nhau, khi
khắc đến hình chim thứ 16 thì chỉ còn một đoạn, do đó đã phải cố khắc 2 con chim vào
vành cuối này cho đủ số lượng là 18 con. Có thể nghĩ rằng con số 18 đời Hùng Vương
là 18 dòng họ đầu tiên, kết hợp với nhau trong liên minh bộ lạc Văn Lang.

7/7




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×