Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên và khu vực châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.72 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu.........................................................................................................….1
Chương 1: Khái quát chung về tổ chức ASEAN..............................................2
1.1 Quá trình hình thành...................................................................................2
1.2 Cơ cấu tổ chức.............................................................................................3
1.3 Các nguyên tắc hoạt động chính.................................................................4
Chương 2: Vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên..........................5
2.1 Kinh tế ........................................................................................................5
2.2 An ninh – chính trị......................................................................................7
2.3 Văn hóa - xã hội..........................................................................................9
Chương 3: Triển vọng phát triển của tổ chức ASEAN....................................11
Kết luận.............................................................................................................14
Danh mục tài liệu tham khảo............................................................................15

1


MỞ ĐẦU
Từ khi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập năm
1967 đến nay, hợp tác khu vực giữa các nước thành viên đã có những bước tiến bộ
đáng kể. Các nước ASEAN đã xây dựng được những cơ chế hợp tác giữa họ với
nhau trên cơ sở song phương cũng như đa phương về các mặt kinh tế, chính trị an ninh, văn hoá xã hội, và các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành khác. Sự hợp tác
nhiều mặt trong cùng một tổ chức đã dần gắn bó, liên kết các nước thành viên lại
với nhau, từ đó góp phần củng cố và duy trì môi trường khu vực hoà bình, ổn định,
xây dựng ASEAN vững mạnh, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của mỗi nước thành viên. Cùng với sự hợp tác về kinh tế, văn hóa – xã hội, hợp
tác chính trị - an ninh là một lĩnh vực hợp tác quan trọng của các quốc gia
ASEAN. Đây là một trong những nội dung hợp tác được các nước ASEAN chú
trọng phát triển và đạt được nhiều kết quả thiết thực trong nhiều năm qua. Phạm vi
hợp tác cũng được mở rộng từ khuôn khổ các quốc gia thành viên ASEAN sang
các đối tác ngoài khu vực. Hiện nay, hợp tác kinh tế, chính trị và văn hóa ASEAN


đã có sự phát triển năng động và ngày càng đạt được những hiệu quả thiết thực.
Bài viết này sẽ đề cập đến vai trò của tổ chức ASEAN đối với các nước thành viên
và khu vực Châu Á cũng như triển vọng phát triển của tổ chức này trong tương lai.

2


Chương 1: Khái quát chung về tổ chức ASEAN
1.1 Quá trình hình thành
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có
nhiều biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những
thay đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực cũng như những vấn đề nảy sinh từ
bên trong mỗi nước. Để đối phó với các thách thức này, xu hướng co cụm lại trong
một tổ chức khu vực với một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân
đã xuất hiện và phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN. Trước
ASEAN, ở Đông Nam Á đã có một vài tổ chức khu vực ra đời và tồn tại được một
thời gian ngắn hoặc đã manh nha hình thành. Đó là Hiệp hội Đông Nam Á (The
Association of Southeast Asia-ASA) được thành lập ngày 31/7/1961 gồm Thái
Lan, Phi-lip-pin và Liên bang Ma-lay-a và tổ chức MAPHILINDO ra đời tháng 8
năm 1963 bao gồm Mã Lai, Phi-lip-pin và In-đô-nê-xi-a.
Mặc dù vậy, những nỗ lực theo hướng trên vẫn được xúc tiến và ngày
8/8/1967 Bộ trưởng Ngoại giao các nước In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Phi-lip-pin,
Xin-ga-po và Phó Thủ tướng Ma-lai-xi-a ký tại Băng-cốc bản Tuyên bố thành lập
Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), đánh dấu một mốc quan trọng trong
tiến trình phát triển của khu vực. Năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Bru-nây làm
thành viên thứ 6. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp
hội. Ngày 23/7/1997 kết nạp Lào và Mi-an-ma. Ngày 30/4/1999 Cam-pu-chia trở
thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một ASEAN bao
gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á, một ASEAN của Đông Nam Á và vì Đông
Nam Á. Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc

địa của các nước phương Tây và giành được độc lập vào các thời điểm khác nhau
sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa lý, song
các nước ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hoá, tạo
thành một sự đa dạng cho Hiệp hội.

3


1.2 Cơ cấu tổ chức
Hiến chương ASEAN quy định bộ máy tổ chức của ASEAN gồm các cơ
quan chính sau:
• Cấp cao ASEAN là cơ quan hoạch định chính sách tối cao của ASEAN,
bao gồm những Người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ các quốc gia
thành viên. Hội nghị Cấp cao ASEAN được tổ chức mỗi năm 2 lần.
• Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) gồm các Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN, họp ít nhất 2 lần một năm, có nhiệm vụ điều phối các hoạt động
hợp tác ASEAN nói chung và chuẩn bị cho các Hội nghị Cấp cao.
• Các Hội đồng Cộng đồng ASEAN bao gồm Hội đồng Cộng đồng Chính trị
- An ninh ASEAN (APSCC), Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AECC) và Hội đồng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCCC), họp
ít nhất 2 lần một năm, do Bộ trưởng có liên quan của quốc gia đang giữ
cương vị Chủ tịch ASEAN chủ trì, có nhiệm vụ theo dõi và điều phối hợp
tác ASEAN trên từng trụ cột Cộng đồng mình phụ trách.
• Ủy ban các Đại diện thường trực ASEAN (CPR) đặt tại Gia-các-ta, đóng
vai trò là cơ quan đầu mối, theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác
hàng ngày của ASEAN.
• Tổng thư ký ASEAN và Ban thư ký ASEAN đặt tại Gia-các-ta, đóng vai trò
là cơ quan hỗ trợ hành chính cho các hoạt động hợp tác ASEAN.
• Ban thư ký ASEAN Quốc gia, nằm trong Bộ Ngoại giao của các nước
thành viên, chịu trách nhiệm theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác

ASEAN ở cấp quốc gia.

4


1.3 Các nguyên tắc hoạt động chính
1.3.1 Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các Quốc gia thành
viên và với bên ngoài
Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN luôn tuân theo 5 nguyên tắc
chính đã được nêu trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á (Hiệp ước
Ba-li), kí tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ I tại Ba-li năm 1976, là:
• Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và
bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;
• Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc
mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
• Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
• Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân
thiện;
• Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
• Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
1.3.2 Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội

• Việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như trong
các lĩnh vực quan trọng của ASEAN dựa trên nguyên tắc nhất trí
(consensus), tức là một quyết định chỉ được coi là của ASEAN khi
được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. Nguyên tắc này
đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài, nhưng bảo đảm được
việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây là
một nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của
ASEAN .

• Một nguyên tắc quan trọng khác chi phối hoạt động của ASEAN là
nguyên tắc bình đẳng. Nguyên tắc này thể hiện trên 2 mặt. Thứ
nhất, các nước ASEAN, không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều
bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia xẻ

5


quyền lợi. Thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì
trên cơ sở luân phiên, tức là các chức chủ toạ các cuộc họp của
ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cho
các cuộc họp đó được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở
luân phiên theo vần A,B,C của tiếng Anh.
• Để tạo thuận lợi và đẩy nhanh các chương trình hợp tác kinh tế
ASEAN , trong Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ký
tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 ở Xin-ga-po tháng 2/1992,
các nước ASEAN đã thoả thuận nguyên tắc 6-X, theo đó hai hay
một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến thực hiện trước các
dự án ASEAN nếu các nưóc còn lại chưa sẵn sàng tham gia, không
cần phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.
1.3.3 Các nguyên tác khác
Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số các
nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người đều hiểu và
tôn trọng áp dụng như: nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không
tuyên truyền tố cáo nhau quan báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc
chung của Hiệp hội.

Chương 2: Vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên và khu
vực châu Á
2.1 Kinh tế

Kinh tế các nước ASEAN đã luôn đạt mức tăng trưởng cao nhất khu vực
trong suốt những năm 70, 80 và đầu 90. ASEAN có GDP khoảng 1281 tỷ đô la
Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu 750 tỷ USD. Các nước ASEAN có nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang đứng hàng đầu thế giới về cung
cấp một số nguyên liệu cơ bản như: cao su (90% sản lượng cao su thế giới); thiếc

6


và dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc (50%), cũng như gạo, đường dầu thô,
dứa... Công nghiệp của các nước thành viên ASEAN cũng đang trên đà phát triển,
đặc biệt trong các lĩnh vực: dệt, hàng điện tử, hàng dầu, các loại hàng tiêu dùng.
Những sản phẩm này được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm nhập một
cách nhanh chóng vào các thị trường thế giới. ASEAN là khu vực có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới, và được coi là tổ chức
khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển. Tư cách thành viên của
một tổ chức khu vực thành công, đại diện cho Đông Nam Á đã làm tăng thêm vị
trí và thế mạnh của các nước ASEAN trong quan hệ với các nước khác.
Hợp tác kinh tế ASEAN tuy cũng được tăng cường và kinh tế từng nước
ASEAN đều đạt mức tăng trưởng cao những thập kỷ qua, nhưng vai trò của
ASEAN về mặt kinh tế đối với các nước thành viên vẫn chưa đáp ứng được với
những mong đợi chung. Buôn bán nội bộ ASEAN đến nay mới chiếm gần 25%
tổng buôn bán của cả Hiệp hội, còn lại hơn 75% là với bên ngoài. Khả năng hợp
tác nội bộ hạn chế do cơ cấu các nền kinh tế và cơ cấu mặt hàng của các nước
thành viên gần giống nhau và họ đều phụ thuộc vào thị trường, đầu tư và công
nghệ từ bên ngoài. Do đó, không chỉ buôn bán trong nội bộ Hiệp hội khó tăng, mà
đầu tư nội bộ cũng khó hy vọng đạt mức cao. Hợp tác công nghệ cũng khó khăn
do cơ sở khoa học công nghệ của các thành viên nhìn chung còn thấp và yếu. Liên
kết khu vực vì vậy lỏng lẻo do các nước thành viên vẫn hướng nhiều ra bên ngoài
trong quan hệ kinh tế, thương mại và cả bảo đảm an ninh...

Một số khó khăn trong hợp tác ASEAN được nêu ở trên đã làm bộc lộ
những điểm hạn chế của vai trò ASEAN đối với các nước thành viên trong những
tình huống khủng hoảng sau này, như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm
1997, tình hình khủng hoảng ở Inđônêxia và Đông Timo năm 1998, 1999... Cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực vừa qua đã cho thấy khả năng hạn chế của ASEAN
trong việc giúp đỡ các nước thành viên gặp khó khăn và trong hợp tác chung để
đối phó với khủng hoảng và với những vấn đề kinh tế có tính chất toàn cầu. Và khi
khủng hoảng kinh tế lại kéo theo khủng hoảng chính trị, và lại liên quan đến
7


trường hợp của nước "anh cả", nước lớn nhất trong tổ chức là In-đô-nê-xi-a thì
ASEAN đã bị bối rối một thời gian dài trước khi có những sáng kiến và biện pháp
hợp tác chung để khắc phục và ngăn ngừa những tình huống khủng hoảng tương
tự trong tương lai như việc cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, tài trợ các dự
án phát triển giáo dục, xoá đói giảm nghèo, thiết lập cơ chế cảnh báo sớm, quỹ hỗ
trợ một số nước trong khu vực có đồng tiền bị khủng hoảng... Tuy nhiên cũng
chính qua cuộc khủng hoảng này, các nước ASEAN đã nhận thức rõ hơn về những
tiêu cực của sự phụ thuộc quá lớn vào bên ngoài, để củng cố thêm quyết tâm tăng
cường hợp tác kinh tế khu vực, coi đó là một động lực quan trọng thúc đẩy
ASEAN phát triển vững mạnh và đồng đều. Hơn nữa, đối với các nước tầm nhỏ và
trung như các nước ASEAN thì giá trị của hợp tác và đoàn kết khu vực vẫn còn ở
chỗ nó tạo nên sức mạnh mặc cả trong quan hệ của họ với các đối tác bên ngoài.
Sau hơn 2 năm đối mặt với những khó khăn và hậu quả do cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực mang lại, sự hồi phục kinh tế hôm nay của hầu hết
các nước ASEAN đã hiện ra rõ nét hơn, trả lại cho ASEAN phần nào vẻ tươi tắn
và rạng rỡ, dần mang lại niềm tin vào sự hồi phục của ASEAN, vào vai trò được
củng cố của tổ chức ở Đông Nam Á và Châu Á.

2.2 An ninh – chính trị

Hợp tác chính trị được đánh giá là mặt hợp tác thành công hơn cả của
ASEAN trong những thập kỷ qua. Và chính ở lĩnh vực này, vai trò của tổ chức đối
với các nước thành viên được thể hiện rõ rệt nhất. Điều được thừa nhận rộng rãi về
vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên trong 30 năm đầu tiên của
ASEAN là việc xử lý ổn thoả các mối bất đồng, tranh chấp giữa các nước thành
viên, không để dẫn đến xung đột, tạo điều kiện xây dựng một môi trường hoà
bình, ổn định và hợp tác giữa các nước thành viên để từ đó giúp họ thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế, và xây dựng một khu vực Đông Nam Á thống nhất,
vững mạnh trước các sức ép từ bên ngoài.

8


Có thể thấy hợp tác quốc phòng giữa các nước ASEAN có vị trí trung tâm
trong cấu trúc an ninh khu vực. cùng với các cơ chế khác như ASEAN+, ARF,
EAS, ADMM đang là “bộ khung” tốt để từ đó xây dựng nên cấu trúc an ninh khu
vực giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định
không chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà còn ở cả thế giới.
Trước hết, hợp tác quốc phòng là phương cách hữu hiệu để các quốc gia
ASEAN vượt qua những thách thức có tầm khu vực và thế giới. Đông Nam Á là
khu vực phát triển năng động nằm ở vị trí chiến lược đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều
nguy cơ và thách thức lớn về an ninh quốc phòng. Các nguy cơ và thách thức này
không chỉ bó hẹp trong phạm vi một nước mà mang tính khu vực và quốc tế sâu
sắc. Vì vậy, không một nước ASEAN riêng rẽ nào có thể độc lập giải quyết các
vấn đề như vậy. Do đó cơ chế hợp tác quốc phòng ASEAN sẽ là nhân tố quan
trọng đảm bảo cho Đông Nam Á được hòa bình và ổn định.
Thứ hai, cơ chế này sẽ góp phần tạo điều kiện cho các bên giải quyết các
bất đồng nhằm duy trì ổn định ở mỗi nước thành viên ASEAN cũng như hòa bình
và ổn định trong khu vực. quốc phòng vốn là lĩnh vực rất nhạy cảm, vì vậy tranh
chấp trong lĩnh vực này tất yếu sẽ phát sinh. Thông qua đối thoại trong cơ chế này,

các nước sẽ có cơ hội để hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, qua đó giải quyết các bất
đồng trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, cố gắng dung hòa lợi ích mỗi bên để hướng tới
lợi ích chung của cả cộng đồng.
Thứ ba, hợp tác quốc phòng sẽ làm tăng khả năng của các lực lượng quốc
phòng của các nước thành viên ASEAN trong việc đảm bảo quốc phòng của các
nước. Nội dung hoạt động của cơ chế hợp tác quốc phòng hiện nay rất phong phú
như chia sẻ thông tin, diễn tập chung, hợp tác về đào tạo, huấn luyện, tuần tra
chung trên biển và trên đất liền, giúp đỡ nhau trong việc nâng cao năng lực quản
lý biên giới, hợp tác về công nghiệp quốc phòng…
Cuối cùng, cơ chế hợp tác quốc phòng ASEAN còn góp phần quan trọng
trong việc tăng cường quan hệ về mặt quốc phòng - an ninh với các đối tác bên
ngoài, làm tăng khả năng đối phó của các nước thành viên ASEAN với những
thách thức an ninh chung. Điều này cung làm cho quyền lợi của các nước đối tác

9


của ASEAN tại khu vực được đảm bảo, trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ hòa
bình và ổn định tăng lên. Đây chính là nhân tố tích cực bảo đảm an ninh cho khu
vực nói riêng và an ninh của thế giới nói chung.

2.3 Văn hóa – xã hội
Mục tiêu cơ bản của Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN là góp phần xây
dựng một Cộng đồng ASEAN lấy con người làm trung tâm, có trách nhiệm xã hội
nhằm xây dựng tình đoàn kết và thống nhất bền lâu giữa các quốc gia và dân tộc
ASEAN bằng cách tiến tới một bản sắc chung, một xã hội chia sẻ, đùm bọc và
rộng mở nơi mà cuộc sống, mức sống và phúc lợi của người dân được nâng cao.
Nhằm thực hiện được mục tiêu này, các nhà lãnh đạo ASEAN đã phê duyệt
Kế hoạch tổng thể Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN (ASCC) tại Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 14 tổ chức ngày 1-3-2009 tại Thái Lan. Kế hoạch

Tổng thể của Cộng đồng thể hiện các khía cạnh liên quan đến con người trong hợp
tác ASEAN, thúc đẩy các cam kết của ASEAN nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân thông qua các hành động cụ thể và hiệu quả, lấy con người
làm trung tâm, có trách nhiệm xã hội, và hướng đến các lĩnh vực trọng tâm: Phát
triển con người; phúc lợi và bảo hiểm xã hội; các quyền và bình đẳng xã hội; đảm
bảo môi trường bền vững; tạo dựng bản sắc ASEAN; và thu hẹp khoảng cách phát
triển.
Trong thời gian qua, một số hoạt động trong các lĩnh vực thuộc Cộng đồng
Văn hóa-Xã hội đã đạt được kết quả đáng chú ý:
Về phát triển nguồn nhân lực: Các hoạt động trọng tâm của ASEAN hướng
vào tăng cường tiến bộ và ưu tiên trong giáo dục, trao đổi sinh viên và học sinh và
các chương trình học bổng dành cho ASEAN, các chương trình giao lưu và thúc
đẩy phát triển các nhà lãnh đạo trẻ trong ASEAN...; đầu tư vào phát triển nguồn

10


nhân lực và thúc đẩy việc làm bền vững nhằm tăng cường kỹ năng cho người lao
động, tổ chức các cuộc thi tay nghề trong ASEAN…
Về phúc lợi xã hội và an sinh xã hội: ASEAN đang nỗ lực xây dựng và phát
triển lưới an sinh xã hội và bảo trợ xã hội, giúp người dân tránh khỏi những ảnh
hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa và hội nhập; tăng cường an ninh lương thực và an
toàn với việc thông qua Khung An ninh Lương thực Hợp nhất ASEAN năm 2009,
Kế hoạch tăng cường An ninh Lương thực II năm 2011 và Khung Chiến lược
ASEAN và Phát triển y tế 2011-2015; hướng tới một ASEAN không có ma túy…
Môi trường và Biến đổi khí hậu: Hiệp định ASEAN về Quản lý Thiên tai và
Ứng phó trong trường hợp khẩn cấp (ADDMER) đã có hiệu lực vào tháng 122009, các nước đã xây dựng Chương trình Công tác của ADDMER giai đoạn
2010-2012 để thực hiện các nội dung trong ADDMER, bao gồm cả việc thành lập
Trung tâm Điều phối Hỗ trợ nhân đạo về quản lý thiên tai ASEAN (Trung tâm
AHA) tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 19 ở In-đô-nê-xi-a...

Công bằng xã hội và quyền: ASEAN cam kết thúc đẩy bình đẳng xã hội và
lồng ghép quyền của người dân vào chính sách của mình và mọi mặt của đời sống,
bao gồm quyền và phúc lợi của các nhóm bị thiệt thòi, dễ bị tổn thương và thiếu sự
quan tâm của xã hội như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và lao
động di cư...
Về xây dựng bản sắc ASEAN: Các nước thành viên đã nỗ lực thúc đẩy nhận
thức và ý thức về Cộng đồng ASEAN thông qua việc xuất bản các ấn phẩm, phát
hành các bản tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về ASEAN, thực hiện
Chương trình ASEAN trong hành động, thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng để
xây dựng bản sắc ASEAN và một ASEAN hướng vào người dân...
Thu hẹp khoảng cách phát triển: Các nước thành viên ASEAN cũng tăng
cường hợp tác để giảm khoảng cách phát triển, đặc biệt về khía cạnh xã hội giữa
11


nhóm 6 nước ASEAN ban đầu và các nước CLMV (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma
và Việt Nam) và trong ASEAN tại những vùng bị tách biệt và kém phát triển.

Chương 3: Triển vọng phát triển của tổ chức ASEAN
Mục tiêu của ASEAN trong thời gian tới là biến Đông Nam Á thành khu
vực hùng mạnh và tự chủ về chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh, có phúc lợi tốt
nhất cho con người. Đó là cộng đồng năng động, tự chủ gồm các quốc gia tiến bộ,
được hưởng hoà bình, thịnh vượng và quyền hạn. Đông Nam Á sẽ trở thành một
khu vực có nền hoà bình kiểu ASEAN - một nền hoà bình không cần bảo vệ biên
giới giữa các quốc gia, sống trong nền hoà bình chung và hợp tác. Về kinh tế,
Đông Nam Á sẽ là khu vực thịnh vượng chung, một cộng đồng kinh tế khu vực có
tổng thu nhập sản phẩm quốc nội (GDP) lớn hơn GDP của Mỹ hoặc của Nhật Bản.
Trên con đường đi tới của mình, lẽ dĩ nhiên ASEAN sẽ gặp phải những khó khăn
và thách thức nhất định. Khi đề cập đến vấn đề này, có hai luồng quan điểm khác
nhau: bi quan và lạc quan. Một số quan chức cao tuổi có cách nhìn lạc quan về

thành tích cũng như tương lai tươi sáng của ASEAN, trong khi các nhà nghiên cứu
và quan chức khác thiên về quan điểm cho rằng, để có thể vươn tới những đỉnh
cao mơ ước nói trên, ASEAN phải phấn đấu rất nhiều, phải vượt qua rất nhiều khó
khăn thử thách, trong số đó có rất nhiều những thách thức từ bên ngoài, nằm ngoài
ý muốn của ASEAN.
Liệu tổ chức khu vực ASEAN có thể đạt được những thành công như trong
30 năm qua hay không? Phải chăng đây là thách thức lớn nhất, bao trùm lên mọi
thách thức đối với ASEAN? Để trả lời câu hỏi này, cần thấy rõ cơ sở cho việc phát
triển của ASEAN trong thời gian tới dựa vào việc xem xét sự phát triển của
ASEAN trong thời gian qua. Để đạt được mục tiêu ban đầu đã đề ra, trong 30 năm
qua, ASEAN đã áp dụng chiến lược phát triển với hai nội dung chủ yếu là phát
triển theo chiều sâu và phát triển theo chiều rộng.
Chiến lược phát triển theo chiều sâu thể hiện ở chỗ ASEAN gạt sang một
bên những bất đồng, tập trung thực hiện kế hoạch tự do hoá mậu dịch trong khối,
12


cố gắng thực hiện nhất thể hoá về kinh tế giữa các nước thành viên, và thông qua
hợp tác để tăng thêm thực lực chung của cả khối. Trong thời kỳ hậu chiến tranh
lạnh, lợi ích chính của các nước ASEAN là tập trung phát triển kinh tế trong nước
và thúc đẩy hợp tác kinh tế trong khu vực nhằm thực hiện những mục tiêu ban
đầu. Phát huy những thành tích về phát triển kinh tế đã đạt được từ cuối những
năm 70 và trong thập niên 80 về xây dựng nền công nghiệp thay thế hàng nhập
khẩu, các nước ASEAN tập trung phát triển kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất
khẩu, đặc biệt là Singapore đang triển khai kế hoạch xây dựng nền kinh tế dựa trên
cơ sở phát triển ngành công nghệ cao. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ tư
tháng 2 năm 1992, các nước ASEAN đã ký Hiệp định thành lập AFTA nhằm thúc
đẩy hợp tác kinh tế khu vực và thu hút nhiều hơn nữa đầu tư nước ngoài, nhằm
duy trì sự phát triển kinh tế với tốc độ cao của các nước thành viên.
Chiến lược phát triển theo chiều rộng thể hiện ở chỗ ASEAN mở rộng kết

nạp thêm các nước thành viên mới với mục đích tăng thêm sức mạnh tổng hợp của
cả khối. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 đã tạo bước chuyển biến mới
trong hợp tác khu vực và tạo tiền đề thuận lợi cho việc mở rộng ASEAN bao gồm
tất cả 10 nước trong khu vực. Hợp tác chính trị của các nước ASEAN ngày càng
được tăng cường. Các nước ASEAN đã có chung tiếng nói trong nhiều vấn đề như
vấn đề phi hạt nhân hoá khu vực, vấn đề dân chủ và nhân quyền v.v... ASEAN
đang từng bước trở thành một lực lượng chính trị lớn tại khu vực và có vị trí xứng
đáng trên trường quốc tế.
Những thành tích đã đạt được trong việc thực hiện hai chiến lược phát triển
trên đây là những tiền đề quan trọng đối với sự phát triển của ASEAN trong thời
gian tới. Bên cạnh đó, những yếu tố bên ngoài đã tác động đến triển vọng phát
triển của ASEAN trong thế kỷ XXI. Hiện nay, toàn cầu hoá và khu vực hoá trở
thành dòng chảy chính của thế giới, tác động đến sự liên kết giữa các quốc gia với
nhau. Nhu cầu liên kết khu vực trở thành thiết yếu trong chiến lược phát triển của
từng quốc gia. Hơn thế nữa, với bề dày thành tích đạt được trong 30 năm qua,
ASEAN không có con đường nào khác là phải tiến lên phía trước, củng cố tình
13


đoàn kết trong nội bộ tổ chức và tăng cường vai trò chủ động trong quan hệ đối
ngoại. Do đó, thách thức tuy nhiều nhưng con đường phát triển của ASEAN là xán
lạn. Về chính trị, ASEAN sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với nền hoà bình
và an ninh ở Châu Á nói chung và ở Đông Nam Á nói riêng. Với những nỗ lực của
mình, ASEAN sẽ duy trì được nền hoà bình và an ninh trong khu vực nhằm tạo
điều kiện cho các nước trong Hiệp hội phát triển hơn nữa đất nước mình. Về kinh
tế, với dân số vào khoảng hơn 530 triệu dân vào năm 2020 và tốc độ phát triển
kinh tế luôn luôn cao hơn tốc độ phát triển kinh tế chung của toàn thế giới trong
gần ba thập kỷ qua, với nguồn tài nguyên phong phú, kết hợp với những chương
trình hợp tác kinh tế và xã hội giữa các nước thành viên đang được bàn bạc và
soạn thảo, ASEAN có triển vọng trở thành một lực lượng kinh tế đáng kể trong

khu vực Châu Á.

KẾT LUẬN

14


Tình hình thế giới đang biến động và đang phải đối mặt với nhiều thách
thức có thể ảnh hưởng đến tồn tại của các quốc gia trong tương lai. Những thách
thức mà ASEAN đang phải đối mặt hiện nay và trong những thập niên tới mang
tính toàn diện, bao gồm từ những lĩnh vực khoa học - công nghệ cao đến các vấn
đề an ninh vượt ra ngoài tư duy an ninh truyền thống. Vị trí và vai trò của ASEAN
đối với khu vực ASEAN nói riêng và Châu Á nói chung sẽ phụ thuộc rất nhiều
vào khả năng ASEAN xử lý và vượt qua những thách thức đó, mà nhiều vấn đề
trong đó vượt cả khả năng giải quyết của một quốc gia hay những quan hệ song
phương. Có thể thấy rằng chỉ những nỗ lực hợp tác chung cùng những đóng góp
tích cực của mỗi nước thành viên mới giúp ASEAN giải quyết được những vấn đề
của chính họ và những thách thức đặt ra cho vị trí và vai trò lớn hơn của tổ chức
trong tương lai. Vì vậy việc tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN
là cần thiết để xây dựng một công đồng ASEAN. Các cơ chế hợp tác ASEAN
đang ngày càng được quan tâm, hoàn thiện và thể hiện rõ vai trò to lớn của mình
trong việc gìn giữ hòa bình, ổn định và an ninh khu vực, cũng như góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trong khu vực châu Á.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

15


1. Khổng Thị Bình, Luận Thùy Dương, Nguyễn Hùng Sơn, Hà Anh Tuấn (2010),

150 câu hỏi và đáp về ASEAN – Hiến chương ASEAN và Cộng đồng ASEAN, Nxb
Thế giới.
Các trang web
2. />3. />4. />5. />%C3%A1c_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%90%C3%B4ng_Nam_%C3%81

16



×