Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Luyện cho học sinh kỹ năng làm kiểu đề văn so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.15 KB, 4 trang )

Nguyễn Thị Tuyết Hạnh- Tổ Văn
Luyện cho học sinh kỹ năng làm kiểu đề văn so sánh
1. Giới thiệu:
So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một hay nhiều
sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn diện, kỹ lưỡng,
rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế đời sống, so sánh trở thành một thao tác phổ
biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức, đánh giá của con người trong
nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.
Với phân môn làm văn trong nhà trường phổ thông, so sánh là một trong những
thao tác chính của văn nghị luận bên cạnh các thao tác phân tích, bình luận, bác
bỏ… Yêu cầu của thao tác này là chỉ ra nét giống nhau và khác nhau của các đối
tượng so sánh. Vì thế, nó gắn với hai loại: so sánh tương đồng và so sánh tương
phản. Sử dụng thao tác này đòi hỏi người viết phải có kiến thức rộng, có sự tinh
nhạy và linh hoạt để gọi các sự vật đặt cạnh nhau. Chẳng hạn khi phân tích Vợ nhặt
thì liên tưởng đến Một đám cưới của Nam Cao để thấy dù diễn ra giữa ngày đói
song đám cưới của Tràng vẫn lạc quan, mở ra cảnh gia đình gắn bó đoàn tụ trong
khi đám cưới của Dần bắt đầu sự chia lìa tan tác của gia đình mình.
Nếu xem so sánh là một cách thức, một phương pháp trình bày khi làm bài văn
nghị luận hay nói cách khác là một kiểu bài nghị luận thì chưa có một bài lí thuyết
cụ thể nào mang tính định hướng, gợi dẫn. Vì thể, với mỗi giáo viên, việc giúp học
sinh nắm được đặc trưng, mục đích, yêu cầu và cách thức làm bài cho dạng đề so
sánh là vô cùng cần thiết, nhất là với học sinh 12 sắp thi đại học.
2. Các dạng cụ thể của kiểu bài
Từ thực tế các đề thi đại học trong những năm vừa qua, chúng tôi nhận thấy có
những dạng và cấp bậc so sánh sau:
- So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm: Đề khối D 2010- So sánh chi tiết ấm nước
đầy và còn ấm mà Từ dành chăm sóc Hộ và chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành
cho Chí Phèo.
- So sánh hai đoạn thơ (diễn tả nỗi nhớ) trong hai bài: Tây Tiến của Quang Dũng
và Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên- Đề khối C 2008.
- So sánh hai đoạn văn (khắc họa vẻ đẹp hai dòng sông) trong hai bài kí: Người lái


đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc
Tường- Đề khối C 2010.
- So sánh hai nhân vật (vẻ đẹp khuất lấp) của: người vợ nhặt trong Vợ nhặt của
Kim Lân và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu


3. Quy trình và cách thức thực hiện kiểu bài so sánh
a. Quy trình
Quy trình thực hiện kiểu bài so sánh có thể phân lập theo các bước sau. Đề bao giờ
cũng đưa ra các đối tượng để so sánh: hai đoạn thơ, hai đoạn văn, hai nhân vật, hai
chi tiết…
Trước hết, cần phân lập đối tượng thành nhiều bình diện để đối sánh. Bước này
nhằm phát huy trí tuệ sắc sảo và mĩ cảm của học sinh. Trên đại thể, hai bình diện
bao trùm là nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Tùy từng đối tượng được
yêu cầu so sánh mà có cách chia tách ra các khía cạnh nhỏ khác nhau từ ngôn từ,
hình ảnh, chi tiết, kết cấu, âm hưởng, giọng điệu đến đề tài, chủ đề, tư tưởng và
cảm hứng nghệ thuật.
Sau đó cần nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Bước này đòi
hỏi học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác và diễn đạt thật nổi
bật, rõ nét, tránh nói chung chung, mơ hồ. Ví dụ, so sánh hai câu thơ : Cỏ non
xanh tận chân trời của Nguyễn Du và Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời của Hàn Mặc
Tử ta thấy cả hai đều biểu đạt sức xuân tràn ngập cả không gian đất trời song cái
Nguyễn Du chú ý là sắc cỏ, xuân phát ra từ sắc màu còn Hàn Mặc Tử là sóng cỏ,
xuân dậy lên từ những rung động của sóng. Sự vận động trong thơ Nguyễn Du lan
theo bề rộng còn với Hàn thi sĩ thì vươn đến chiều cao, bầu không gian tràn ngập
rung động như cỏ.
Cuối cùng là đánh giá, nhận xét và lí giải nguyên nhân của sự giống và khác nhau
đó. Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn chắc chắn và bản lĩnh vững vàng cùng
những hiểu biết sâu sắc ngoài văn bản để tránh những suy diễn tùy tiện, chủ quan,

thiếu sức thuyết phục. Chẳng hạn, trở lại với Vợ nhặt của Kim Lân và Một đám
cưới của Nam Cao ở trên sự khác biệt xuất phát từ hai phương pháp sáng tác và hai
phong cách nghệ thuật khác nhau. Nam Cao với văn học hiện thực phê phán
thường miêu tả hiện trạng đời sống đang đi xuống, bế tắc và èo uột và phong cách
đặc trưng của Nam Cao là sự lạnh lùng mà đau xót. Với Kim Lân, văn học hiện
thực xã hội chủ nghĩa thường mô tả trạng thái đời sống đi lên, hướng về ngày mai
tươi sáng. Hơn nữa, văn phong của cây bút một lòng đi về với đất, với thuần hậu
nguyên thủy của cuộc sống nông thôn này gắn bó với giọng đôn hậu, hóm hỉnh và
đầy lạc quan.
b. Cách thức
Cách trình bày kiểu bài so sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và song song.
Nối tiếp là lần lượt phân tích từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và khác nhau .
Cách này dễ làm nhưng khó hay, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái so sánh bị chìm.
Tuy nhiên, vì yêu cầu cho đại trà nên đáp án đại học những năm qua thường gợi ý
theo cách này.
Thứ hai là song song tức là song hành so sánh trên mọi bình diện của hai đối
tượng. Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lô gic, sự tinh


nhạy trong phát hiện vấn đề.
Ví dụ, khi so sánh hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và trích đoạn Đất
nước của Nguyễn Khoa Điềm, người làm cao tay có thể song song so sánh trên các
bình diện: Xuất xứ- cảm hứng- hình tượng- chất liệu và giọng điệu trữ tình.
Về xuất xứ, Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một chỉnh thể sáng tạo tổng hợp từ
hai bài thơ trước đó và nó có dáng dấp như một trường ca thu nhỏ. Trong khi đó,
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một mảnh nhỏ vỡ ra từ chỉnh thể trường ca
lớn
Về cảm hứng, Nguyễn Đình Thi gửi gắm những suy tư, tâm niệm về sức sống diệu
kì của dân tộc Việt Nam anh hùng còn Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về cắt nghĩa lí
giải các câu hỏi: Đất nước có tự bao giờ? Đất nước là gì? Mối quan hệ giữa con

người và đất nước?...
Về hình tượng, Nguyễn Đình Thi khắc họa bằng hai hệ thống hình ảnh chính của
giang sơn tổ quốc là đất và trời thì Nguyễn Khoa Điềm hướng đến đất và nước
như hai yếu tố khởi thủy hợp lại. Với Nguyễn Đình Thi, nhân dân là những con
người trong một cuộc hành trình trừơng chinh máu lửa vươn vai như những thiên
thần còn với Nguyễn Khoa Điềm là đám đông vô danh bốn nghìn thế hệ, hòa nhập
vào nhau để hóa thành đất nước trong hình tượng mang màu sắc huyền thoại.
Về chất liệu, Nguyễn Đình Thi sử dụng chất liệu thi ca từ chi tiết đời sống bằng
vốn sống và ấn tượng chủ quan trực tiếp còn Nguyễn Khoa Điềm nhào nặn tài tình
vốn văn hóa dân gian trong ca dao, truyền thuyết, cổ tích…
Về giọng điệu, Nguyễn Đình Thi như đang phát ngôn giữa quảng đại quần chúng
nên bài thơ có giọng tráng ca hào sảng dõng dạc. Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là
giọng trữ tình của một chàng trai trong lời tâm tình với người yêu, thân mật mà
nghiêm trang, cảm xúc đan cài suy tư, triết lí làm nên giọng triết luận tâm tình.
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh- Tổ Văn




×