Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

CHẤT THẢI CHĂN NUÔI - HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
------------ ♣♣♣ ------------
B ÁO C ÁO KHOA HỌC
T ẠI
HỘI THẢO
CHẤT THẢI CHĂN NUÔI -
HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LIVESTOCK WASTES: CURRENT STATUS AND SOLUTIONS
Hà Nội, ngày 26-27/11/2009
2
LỜI KHAI MẠC
HỘI THẢO
"Chất thải chăn nuôi- Hiện trạng và giải pháp"
PGS.TS. Nguyễn Xuân Trạch
Trưởng Khoa Chăn nuôi & Nuôi trồng Thuỷ Sản – ĐHNN Hà Nội
Để đáp ứng nhu cầu thực phẩm của con người, ngành chăn nuôi trên thế giới đã phát
triển rất nhanh và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trên Thế giới chăn nuôi hiện chiếm
khoảng 70% đất nông nghiệp và 30% tổng diện tích đất tự nhiên (không kể diện tích bị băng
bao phủ). Chăn nuôi đóng góp khoảng 40% tổng GDP nông nghiệp toàn cầu. Tuy nhiên, bên
cạnh việc sản xuất và cung cấp một số lượng lớn sản phẩm quan trọng cho nhu cầu của con
người, ngành chăn nuôi cũng đã gây nên nhiều hiện tượng tiêu cực về môi trường. Ngoài chất
thải rắn và chất thải lỏng, chăn nuôi hiện đóng góp khoảng 18% hiệu ứng nóng lên của trái đất
(global warming) do thải ra các khí gây hiệu ứng nhà kính, trong đó có 9% tổng số khi CO2
sinh ra, 37% khí mêtan (CH4) và 65% oxit nitơ (N2O). Những chất thải khí này sẽ tiếp tục tăng
lên trong thời gian tới.
Theo dự báo nhu cầu về các sản phẩm chăn nuôi của thế giới dự kiến sẽ tăng gấp đôi
trong nửa đầu của thế kỷ này. Nhưng cũng đồng thời trong thời gian trên chúng ta sẽ phải chứng
kiến nhiều sự biến đổi môi trường và khí hậu theo chiều hướng không mong đợi và môi trường
sống ngày càng bị đe doạ bởi chính các hoạt động chăn nuôi. Do vậy chúng ta cần phải hướng
tới một ngành chăn nuôi chất lượng cao không chỉ có thể giúp đáp ứng được nhu cầu ngày càng


cao của con người về các sản phẩm có nguồn gốc động vật mà đồng thời phải chịu trách nhiệm
với chính con người về mặt môi trường và xã hội khi sản xuất ra những sản phẩm đó.
Ở nước ta chất thải chăn nuôi cũng đã trở thành vấn nạn. Theo Báo cáo của Cục Chăn
nuôi, hàng năm đàn vật nuôi thải ra khoảng 80 triệu tấn chất thải rắn, vài chục tỷ khối

chất thải
lỏng, vài trăm triệu tấn chất thải khí. Do vậy mà việc xử lý chất thải chăn nuôi ngày càng được
quan tâm hơn bởi các cơ quan quản lý nhà nước, của cộng đồng và của chính những người chăn
nuôi. Chúng ta cũng đã có một số chương trình/dự án hợp tác quốc tế về xử lý chất thải chăn
nuôi (với FAO, Hà Lan, Đan Mạch, Pháp, Bỉ…). Nhiều doanh nghiệp cũng đã cung cấp các
dịch vụ xử lý chất thải chăn nuôi (một số có mặt hôm nay tại Hội thảo này). Tuy vậy cho đến
này, các chất thải vật nuôi ở nước ta vẫn chưa được xử lý nhiều, hoặc có xử lý nhưng công nghệ
xử lý chưa triệt để. Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong chăn nuôi còn nhiều bất cập
về các nguồn lực. Sự phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các cấp quản lý địa phương để
triển khai công tác BVMT trong chăn nuôi chưa đạt nhiều hiệu quả. Các chương trình/dự án hợp
tác quốc tế chưa phát huy rộng rãi và có hiệu quả trong công tác BVMT chăn nuôi. Chúng ta
chưa thu hút được sự đầu tư ở nhiều thành phần kinh tế vào lĩnh vực BVMT trong chăn nuôi.
Thậm chí, nhận thức của người chăn nuôi về BVMT trong chăn nuôi còn hạn chế.
Do sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề chất thải và quản lý chất thải trong
chăn nuôi, Trường ĐHNN HN đã đưa vào chương trình đào tạo ngành chăn nuôi và CNTY môn
học Quản lý chất thải chăn nuôi, sẽ bắt đầu giảng cho SV K53. Khoa chăn nuôi & NTTS cũng
như một số khoa khác trong trường (có đại diện hôm nay ở Hội thảo này) cũng đã có các đề tài
nghiên cứu về chất thải chăn nuôi. Tuy nhiên, kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu trong lĩnh
vực này cũng mới là bước đầu.
Với những lý do đó mà Hội thảo này được tổ chức nhằm tập hợp những người quan tâm
đến lĩnh vực chất thải chăn nuôi trước hết là nhằm đánh giá hiện trạng của vấn đề (để xem ta
đang ở đâu) và tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề quản lý chất thải chăn nuôi trong
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Chúng ta cần có được một tầm nhìn rõ ràng hơn về vai trò của
vật nuôi và các hệ thống chăn nuôi bền vững mà chúng ta cần trong tương lai, cũng như những
công nghệ thích hợp để giúp chúng ta thực hiện được tầm nhìn đó.

Quản lý chất thải chăn nuôi không chỉ đơn thuần là áp dụng các công nghệ để xử lý
những chất thải sau khi vật nuôi đã thải ra để hạn chế ô nhiễm môi trường. Một mặt, nó phải bắt
đầu từ việc thiết kế khẩu phần ăn, đến việc xem xét (và có thể điều khiển) các quá trình tiêu hoá,
3
hấp thu và trao đổi chất để cho con vật có thể sử dụng được tối đa các chất dinh dưỡng ăn vào
và thải ra môi trường ít chất thải nhất, đặc biệt là những chất thải gây ô nhiễm. Mặt khác, quản
lý chất thải chăn nuôi còn bao hàm cả việc sử dụng các chất thải (kể cả được xử lý và không xử
lý) vào các mục đích có ích như làm làm phân bón cho cây trồng, làm thức ăn nuôi trồng thuỷ
sản, làm chất đốt, sản xuất biogas, điện v.v… nhằm vừa hạn chế được việc sử dụng tài nguyên
đồng thời hạn chế được ô nhiễm môi trường. Do vậy thảo luận định hướng cho việc nghiên cứu
khoa học về lĩnh vực quản lý chất thải chăn nuôi cũng là một mục tiêu quan trọng của Hội thảo
này.
Hơn nữa, để có được thay đổi có ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất trước hết cần có sự
chuyển biến về nhận thức và sự hiểu biết tốt về vấn đề này của những người liên quan đến chăn
nuôi, trước hết là đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật. Con đường ngắn nhất là thông qua đào
tạo. Chính vì thế Hội thảo này còn có một mục tiêu thứ ba nữa là xây dựng nội dung, chương
trình giảng dạy về quản lý chất thải chăn nuôi trong các trường đại học.
Kính thưa quý vị
Sự tham gia tích cực của các đại biểu từ nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý trung
ương và địa phương, các doanh nghiệp, các nhà khoa học từ cả miền Bắc và miền Nam trong
hội thảo thảo hôm nay đã chứng minh tầm quan trọng của chủ đề Hội thảo. Hy vọng rằng tất cả
mọi người tham dự hôm nay sẽ cùng nhau tham gia tích cực vào các hoạt động của Hội thảo để
đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Chúng tôi cũng nhân đây xin được chân thành cám ơn Tổ hợp nghiên cứu thâm canh
chăn nuôi (PRISE), Công ty TNHH Thái Dương (SUNDFEED), Công ty Bioplus Agritech Snd.
Bhd. (Malaysia) và Công TNHH Gia Linh đã tài trợ cho cuộc Hội thảo này.
Cám ơn tất cả các quý vị đã nhiệt tình tham gia Hội thảo.
Kính chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.
DANH SÁCH KHÁCH MỜI HỘI THẢO
A- Danh sách khách dự trong trường

1- PGS.TS. Trần Đức Viên-Hiệu trưởng
2- PGS.TS. Đinh Văn Chỉnh- P. Hiệu trưởng
3- TS. Nguyễn Hữu Ngoan- P Hiệu trưởng
4- PGS.TS. Vũ Văn Liết- P.Hiệu trưởng.
5-PGS.TS. Nguyễn Tất Cảnh- Trưởng phòng QLKH&QHQT
6- Lãnh đạo khoa Tài nguyên và Môi trường
7- Lãnh đạo khoa KT&PTNT
8-PGS.TS. Quyền Đình Hà- Trưởng phòng HCTH
9-PGS.TS. Phạm Tiến Dũng-Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ
10.PGS. TS. Nguyễn Hữu Nam-Trưởng khoa Thú y
11-PGS.TS. Hồ Lam Trà- Khoa Tài nguyên và Môi trường
B- Danh sách khách dự ngoài trường
1- Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT
2- Lãnh đạo Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và PTNT
3- TS, Vũ Chí Cương- P.Viện trưởng, Viện Chăn nuôi Quốc gia
4. TS. Vũ Khánh Vân, Viện Chăn nuôi.
5. TS. Dương Nguyên Khang, ĐH Nông Lâm Tp HCM .
6.TS. Đỗ Thanh Nam, ĐH Nông Lâm Tp HCM.
7. TS. Huỳnh Thanh Thủy, Chuyên gia quốc tế về môi trường (Hà Lan).
8.TS. Nguyễn Tiến Dũng- công ty TNHH Thái Dương
4
9. Lãnh đạo Sở NN&PTNT tỉnh Hải Dương
10. TS. Jean-Michel Médoc, đại diện tổ chức CIRAD tại Việt Nam
12- Mr. Limlingzhou- Bioplus Company, Malaysia
13. Mr. Wong Chong Sang - Bioplus Company, Malaysia
5
QUẢN LÝ KẾT HỢP VÀ QUẢN LÝ CÓ SỰ THAM GIA
CHẤT THẢI CỦA LỢN Ở VIỆT NAM
Jean-Michel Médoc và al, Cirad-Đơn vị nghiên cứu Tái chế và Các Nguy cơ
Nguyễn Thị Diệu Phương và al, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản #1

Nguyễn Quế Côi, Trịnh Quang Tuyên và al, Trung tâm Thí nghiệm Lợn, Viện Chăn nuôi
Nguyễn Duy Phương và Trần Đức Toàn, Viện Nông hoá Thổ nhưỡng
Đây là tài liệu làm việc. Bản đề cương này trình bày các ý tưởng đang được xây dựng. Phương
pháp có thể thay đổi một chút theo sự thay đổi các ý tưởng và để thích nghi, phù hợp với các chủ
đề chính của những mời thầu mà chúng ta muốn đấu thầu. Nó được viết bằng tiếng anh để cho
việc sủ dụng được dễ dàng hơn.
Các vấn đề liên quan đến thức ăn gia súc, các phương thức ăn ở của gia súc và các chất dinh
dưỡng không được đề cập đến ở đây; những kết qủa từ những nghiên cứu này có thể được sử
dụng trong những đề xuất sau:
BỐI CẢNH
Ngạn ngữ: «Bạn không thể làm kích động tai một con heo bằng một cái túi lụa » –
nhưng ngày nay chúng ta có thể và phải làm điều đó! Đông nam á là khu vực chăn nuôi lợn lớn
nhất thế giới trong đó Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan chiếm 53% năng suất. Do nhu cầu
cao đã dẫn đến các hoạt động thâm canh chăn nuôi mà kéo theo nó là những vấn đề lớn về môi
trường. Chăn nuôi ở Việt nam cần phải tăng từ 5 đến 9% mỗi năm trong vòng 10 đến 15 năm
tới (2008-2012). Vì hàng tấn nước phân chuồng chảy tự do ra môi trường, nên đồng ruộng và
ao hồ được sử dụng để tái chế chất thải động vật ở khu vực đồng bằng sông Hồng (RRD) và
đồng bằng sông Mêkong sẽ sớm bị bão hoà.
Khoảng 6.3 tấn nitơ và 4.0 tấn phốtpho / km ở đồng bằng sông Hồng và 7,2 tấn nitơ và
3.2 tấn phốtpho ở đồng bằng sông Mêkong có nguồn gốc từ phân động vật
1
. Sự đánh giá này đã
được khẳng định bằng những kết quả của dự án « thâm canh chăn nuôi và bảo vệ môi trương ở
Việt Nam » được thực hiện tại tỉnh Thái Bình do CE-Asie chương trình ProEco (2005- 2006) tài
trợ, dự án cũng cho thấy chất thải lợn là một nguy cơ ô nhiễm thực sự, vào năm 2004, chỉ có
14% lượng chất thải lỏng được tái sử dụng và xử lí chất thải rắn thực sự đặt ra những vấn đề
vào mùa đông. Ước tính vào năm 2010 sẽ có khoảng 16,400 hộ chăn nuôi nhỏ và 1,600 hộ chăn
nuôi lớn trong tỉnh Thai Binh
2
, Việt Nam là nước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo và

75% rơm được phần lớn người nông dân coi là chất thải được đốt ngay trên đồng ruộng vì đó là
cách sử dụng chúng dễ nhất. Để giảm sự ô nhiễm nước do các chất dinh dưỡng gây ra và giảm
phát tán khí gây hiệu ứng nhà kính (GHG), người dân ở các làng Việt nam và các nhà chức
trách địa phương hiện nay đã nhận thức rõ về sự cần thiết của việc quản lí và xử lí chất thải
động vật một cách bền vững. Tái sử dụng nước phân lợn sẽ là một trong những thách thức về
mặt khoa học, công nghệ và kinh tế cần phải đánh giá trong những năm tới.
Những nghiên cứu ở quy mô toàn cầu mới đây đã chỉ rõ rằng tái sử dụng các yếu tố
dinh dưỡng, đặc biệt là đạm do gia súc bài xuất là một trong những giải pháp chính giúp cân
bằng sự mất các yếu tố dinh dưỡng quý giá trong môi trường
3
. Ví dụ hầm biogaz là một kỹ thuật
1
Gerber et al. 2005. Geographical determinants and environmental implications of livestock production
intensification in Asia. Biores. Technol. 96(2): 263-276
2
Porphyre V. & Nguyen Que Coi (Eds). 2006. Pig production development animal-waste management
and environmement protection. A case study in Thai Binh Province, Northern Vietnam. PRISE
publications. pp 181-204
3
UNEP & WHRC, 2007. Reactive nitrogen in the environment. Too much or too little of a good thing.
United Nations Environment Program, Paris, 2007. 51p.
6
phổ biến, nhưng theo quan niệm của người nông dân lắp đặt hệ thống này rất khó do không có
khả năng đầu tư. Hơn nữa, người dân quản lí hầm biogaz thường không đúng cách do không
được đào tạo hoặc do xây dựng không phù hợp . Ngoài ra, xử lí bằng bigaz không làm giảm
hàm lượng nitơ và phốt pho, chính vì vậy mà hầm biogaz chỉ được coi như một khâu trong hệ
thống xử chúng không xử lí ni tơ và phốt pho và người nông dân thường không tuân theo các kỹ
thuật sử dụng hầm biogaz do họ không được đào tạo hoặc do xây dựng không phù hợp. Chính vì
vậy mà nhiều người dân đã cùng dùng chung các hệ thống xử lí
4

.
Mục đích chính: Chăn nuôi lợn dẫn đến nguy cơ ô nhiễm nước và đất và sự ô nhiễm này có thể
ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Ảnh hưởng của chăn nuôi lợn đến môi trường có thể được
quản lí như thế nào để không làm giảm đi tính cạnh tranh của các hộ chăn nuôi lợn? Những khó
khăn về mặt không gian và xã hội có thể được tính đến như thế nào đối với các chính sách phát
triển? Mục đích chung sẽ là:
- Phát triển những điều kiện giúp người nông dân được hưởng các lợi ích từ việc tái sử
dụng phân lợn ở quy mô nông hộ và giữa các hộ với nhau.
- Chế biến, nếu cần thiết, các chất thải động vật này thành các phụ phẩm hữu cơ thông
qua các quy trình xử lí.
- Sản xuất và sử dụng các phụ phẩm hữu cơ thân thiện với môi trường và sử dụng các
phụ phẩm với nhiều lợi ích sinh thái này thay thế phân vô cơ để bón cho rau, lúa.
- Đánh giá ảnh hưởng về mặt nông nghiệp, kinh tế, xã hội, các nguy cơ về môi trường và
đánh giá thị trường.
Hình 1: Các vấn đề đuợc thảo luận tại “Concept note workshop” vào ngày 17 tháng 7 năm 2009
Bản đề cương này được chia làm 4 nhóm hoạt động, các nhóm hoạt động này có thể
được đưa vào trong cùng một dự án hoặc có thể đứng riêng rẽ.
NHÓM HOẠT ĐỘNG 1: QUẢN LÍ TẠI NÔNG HỘ
Đường lối chỉ đạo phát triển chăn nuôi ở Việt Nam dự kiến sẽ thay đổi cấu trúc nông
nghiệp, công nghiệp hoá hoạt động sản xuất nông nghiệp và đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Phươnng thức chăn nuôi lợn rất đặc biệt ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở miền nam và mới đây
phát triển ở miền bắc. Hơn 90% lợn thuộc các hộ chăn nuôi nhỏ truyền thống kết hợp với trồng
4
Porphyre V. & Nguyen Que Coi (Eds). 2006. Pig production development animal-waste management
and environmement protection. A case study in Thai Binh Province, Northern Vietnam. PRISE
publications pp 55-82,

4
7
trọt và cấy lúa

5
. Hai mô hình chính là chăn nuôi quy mô nhỏ (dưới 5-10 lợn nái) và quy mô
trung bình (hơn 15-20 lợn nái). Chuyển đổi từ chăn nuôi truyền thống sang các kỹ thuật tiên tiến
giúp tăng năng suất, nâng cao chất lượng và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên,
sự chuyển đổi này có thể làm tăng ô nhiễm nếu không quản lí hợp lí. Nhóm hoạt động này được
chia làm 2 hoạt động chính:
Hoạt động 1.1: Nguyên tắc về cân bằng giữa lượng chất thải chăn nuôi và nhu cầu năng
lượng của cây trồng và ao cá trong hệ thống chăn nuôi lợn quy mô nhỏ.
Magma là một hệ thống kết hợp năng động (HDS; i.e. với các giá trị liên tục và riêng rẽ thay
đổi) cho phép giả định quản lí các loại phân động vật khác nhau hoặc chế biến nước phân
chuồng và các phương thức sử dụng (bón chất thải cho cây trồng và đất hoang hoá và ủ
phân/sản xuất biogaz). Nó có thể hỗ trợ đưa ra quyết định quản lí các chất hữu cơ có thể gây độc
hại ở quy mô nông hộ nhằm giảm các nguy cơ về môi trường, vì sự hiệu quả và tính bền vững
của các hộ chăn nuôi. Chúng ta có thể xác định được các kịch bản khác nhau dựa vào các tham
số về cấu trúc hộ trong Magma, ví dụ các đặc điểm về chăn nuôi và trồng trọt, khả năng vận
chuyển phân hoặc nước phân chuồng, và khoảng cách vận chuyển. Mỗi kịch bản có thể thích
nghi theo các chiến lược quản lí khác nhau bằng cách sử dụng các nút lựa chọn
6
.
Mục đích
- Thích nghi mô hình giả định MAGMA để sử dụng nó trong hệ thống chăn nuôi lợn của Việt
Nam
- Tư vấn cho các kỹ thuật viên nông nghiệp và những nhà hoạch định chính sách nông
nghiệp nhằm cải thiện các phương pháp thực hành cá nhân về quản lí phân động vật
Miêu tả nhiệm vụ
- Tính chất đặc thù của hộ chăn nuôi nhỏ dựa vào các cách thực hành quản lí chất thải
chăn nuôi của họ
- Thích nghi mô hình giả định Magma
- Xây dựng và thử nghiệm các kịch bản quản lí chất thải tiêu biểu với Magma, gồm cả
cân bằng phân bón giữa cây trồng, ao cá và sản xuất biogaz

- So sánh các kịch bản này theo…
- Xác định các chiến lược quản lí chất thải động vật tiêu biểu cho các hệ thống chăn nuôi
lợn ở quy mô nhỏ.
Kết quả mong đợi
- Đối với những hộ sản xuất nông nghịêp hiện tại: những chiến lược quản lí chất thải khả
thi ở quy mô nông hộ nhằm hướng dẫn người nông dân cải thiện các phương pháp thực hành
quản lí của họ.
- Đối với những hộ sản xuất nông nghiệp tương lai: những chiến lược quản lí riêng cho
mỗi hệ thống nông nghiệp khác nhau có thể xúc tiến trong dự án phát triển chăn nuôi lợn.
Hoạt động 1.2: Mô hình quản lí kết hợp và đánh tính bền vững của các hệ thống chăn nuôi
lợn quy mô nhỏ và trung bình
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ hoạt động chăn nuôi lợn, phát triênt chăn nuôi lợn ở quy mô
nhỏ và trung bình rất được khuyến khích. Hiện nay, các hệ thống này dựa trên sự kết hợp giữa
chăn nuôi lợn (15-20 con nái sinh sản), nuôi cá ( Cá chép trung quốc, cá rô phi) và trồng trọt
(ngô, lúa, rau. Các chất dinh dưỡng từ nước thải lợn được sử dụng cho ao cá và trồng rau, ngược
lại các phụ phẩm từ rau và cây trồng được sử dụng làm thức ăn cho lợn. Đánh giá tính bền vững
của một hệ thống sinh thái nông nghiệp phức tạp nào đó theo các kịch bản quản lí kết hợp là
một nhiệm vụ khó khăn.
Mục đích
- Xây dựng một mô hình tin học cho phép giả định một cách năng động khối lượng và
các luồng dinh dưỡng trong toàn bộ hệ thống chăn nuôi.
- Sử dụng mô hình này để đánh giá hiệu quả kỹ thuật và tác động đến môi trường của các
hệ thống này theo các kịch bản quản lí khác nhau.
- Đưa ra những hướng dẫn giúp người nông dân, người tư vấn nông nghiệp, những người
hoạch định chính sách xây dựng các chiến lược phát triển bền vững.
5
Caldier P. 2006. Vietnam’s ‘pig business’. Pig progress. 22(1):8-10. www.agriworld.nl
6
Guerrin F. 2001. Magma: a simulation model to help manage animal wastes at the farm level. Comp. &
Electr. Agri. 33: 35-54.

8
Miêu tả nhiệm vụ
Xây dựng mô hình (7 tháng)
- Đưa ra một mô hình điển hình cả về cấu trúc và chức năng cho các hệ thống quy mô
trung bình.
- Xác định các đặc điểm của nguồn chất thải sinh ra từ hoạt động chăn nuôi và nguồn
nước trong tự nhiên có tiềm năng ảnh hưởng đến môi trường.
- Chọn các chỉ số tính toàn thích hợp vì hiệu quả kỹ thuật và để đánh giá được tác động
đến môi trường của các hệ thống này
- Đánh giá tính bền vững để đánh giá tác động đến môi trường của các hệ thống này
Triển khai và chuẩn hoá mô hình giả định (7 tháng)
- Chuẩn hoá (sử dụng các tham số toán học) và triển khai các nội dung của mô hình giả
định dựa trên các công cụ tin học
- Cung cấp các phương pháp tính toán phù hợp, tính toán các yếu tố truyền phát cần thiết
đối với việc Đánh giá tính bền vững
Hệ thống phân tích (10 tháng)
- Cùng với các nhà nông nghiệp và các đối tượng làm về nông nghiệp xây dựng các kịch
bản quản lí khác nhau (hiện tại và tương lai)
- Sử dụng mô hình giả định và phân tích kết quả về mặt hiệu quả kỹ thuật và tác động đến
môi trường
Kết quả mong đợi
- Mô hình điển hình cho các hệ thống chăn nuôi lợn kết hợp ở quy mô trung bình.
- Mô hình giả định trên máy tính của những hệ thống này theo các kịch bản quản lí khác
nhau.
- Đánh giá những kịch bản chính về mặt hiểu quả kỹ thuật và tác động môi trường.
- Những hướng dẫn hỗ trợ những người chăn nuôi, những người tư vấn vê nông nghiệp
và những người đưa ra quyết định xây dựng những chính sách bền vững cho các hệ thống chăn
nuôi quy mô vừa và nhỏ.
NHÓM HOẠT ĐỘNG 2: QUẢN LÍ Ở QUY MÔ VÙNG VÀ CÁC NGUY CƠ ĐỐI VỚI
MÔI TRƯỜNG

Ngành chăn nuôi phải tái sử dụng chất thải hữu cơ của mình trong điều kiện chăn nuôi
ngày càng tăng. Dù muốn hay không, các chất thải này phải được xử lí, đất có vẻ là cơ quan tiếp
nhận tốt nhất để dự trữ và chế biến hoặc cố định các thành phần hữu cơ và vô cơ trong các chất
thải này. Ngoài ra, các chất thải hữu cơ được xem là nguồn phân quý báu đối với đất trồng vì
hàm lượng nitơ và phốtpho của chúng. Tuy nhiên, các chất thải này cũng gây ra các nguy cơ ô
nhiễm như vi khuẩn gây bệnh, kim ngoại nặng và các chất gây ô nhiếm hữu cơ dai dẳng. Sử
dụng quá nhiều chất thải hữu cơ trong nông nghiệp có thể là một mối đe doạ đối với chất lượng
đất. Hơn nữa, sự ô nhiễm có thể tác động đến mạng lưới thức ăn thông qua cây trồng được
trồng trên ô nhiễm hoặc trong nước ngầm do sự thẩm thấu các chất gây ô nhiễm qua đất. Cần
phải đánh giá những ảnh hưởng của việc bón chất thải hữu cơ đến môi trường thông qua phân
tích yếu tố tiềm năng gây hại trong hệ thống đất-nước-chất thải-cây trồng và phân bố tốt hơn các
chất thải này giữa những người sản xuất và người tiêu thụ. Nhóm hoạt động này được chia làm
3 hoạt động chính:
Hoạt động 2.1: Sử dụng các mô hình giả định và GIS để xây dựng các chiến lược quản lí
kết hợp các luồng chất thải chăn nuôi
Trong những vùng thâm canh chăn nuôi, sử dụng chất thải động vật trên đất nông
nghiêp đôi khi là không thể do thiếu đất canh tác. Để tránh dư thừa quá nhiều phân, người nông
dân phải chuyển các chất thải dư thừa của mình đến những cây trồng có nhu cầu và ao cá của
người hàng xóm và vì không có một nhà máy xử lí chất thải nào để chế biến các chất thải này
thành một phụ phẩm hữu cơ thân thiện hơn với môi trường. Ý tưởng của chúng tôi là thương
mại nước phân lợn hữu cơ thông qua thị trường hàng hoá bao gồm những người nông dân thừa
chất thải lợn, hoặc những người không có khả năng đầu tư một mình trong một hệ thống xử lí
tại trang trại, những người nông dân cần nguồn phân bón hữu cơ chất lượng để bón cho cho cây
9
trồng và ao cá của họ. Để xây dựng và đánh giá mạng lưới cung cấp ở các công đoạn khác nhau
của nhà máy xử lí chất thải động vật về mặt hỗ trợ sản xuất và môi trường, chúng tôi sẽ sử dụng
những mô hình giả định động và đặc biệt cho phép người nông dân, những người tư vấn nông
nghiệp và những nhà hoạch định chính sách thử nghiệm các lựa chọn khác nhau (Approzut
vàBiomas, Hình 2). Phương pháp này và các mô hình giả định đã được tạo ra và được sử dụng ở
Reunion để quản lí nước phân lợn của các hộ chăn nuôi ở một vùng chăn nuôi nhỏ, tại đây, quy

trình xử lí tập thể sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm 2009 với mục tiêu chế biến 20 000 m
3
nước
phân lợn
7
.
Hình 2: Một mạng lưới cung cấp có thể bao gồm quy trình xử lí Agrifiltre® và các nhà cung cấp rơm
Mục đích
- Đánh giá cán cân cung và cầu
- Nếu cán cân là âm và/hoặc gần bằng 0, đánh giá ở quy mô nông hộ và nghiên cứu ở quy
mô vùng, nếu thừa cần phải tím kiếm mạng lưới phân bố các thải chăn nuôi tốt hơn trong vùng
bằng cách sử dụng mô hình Biomas
- Nếu cán cân là dương, chế biến nước phân lợn thành một phụ phẩmt thân thiện với môi
trường, hiệu quả và giá phải chăng, phụ phẩm này có thể sử dụng trong vùng hoặc xuất khẩu
đến vùng khác.
- Giảm phát tán N và P và khí gây hiệu ứng nhà kính
- Thay thế phân hoá học bằng phân ủ nhằm mang lại lợi nhuận cho người nông dân
- Tạo thêm thu nhập
Miêu tả nhiệm vụ
- Xác định vùng sản xuất và vùng nghiên cứu
- Đánh giá cán cân cung cầu và xác định nhu cầu tiềm năng của vùng
- Nếu cán cân là âm và/hoặc gần bằng 0, đánh giá cán cân ở quy mô nông hộ, xây dựng
có sự tham gia và đánh giá các chiến lược phân phối nước phân lợn chưa qua xử lí bằng cách sử
dụng mô hình Biomas
- Nếu cán cân là dương, sử dụng có sự tham gia mô hình Approzut để giả định và đánh
giá các kịch bản cung cấp của nhà máy xử lí nước phân lợn của nhiều hộ chăn nuôi (khối lượng,
thời hạn cung cấp, vận chuyển, chi phí). Mô hình Macsizut vẫn có thể được sử dụng (sử dụng có
sự tham gia) để đánh giá quy mô và chi phí của nhà máy xử lí theo khối luợng nước phân lợn
7
Médoc J.M., Guerrin F., Courdier R., Paillat J.M. 2004. A Multi-modelling approach to help agricultural

stakeholders design animal wastes management strategies in the Reunion Island. In Pahl-Wostl C., (ed.),
Schmidt S., (ed.), Rizzoli A.E., (ed.), Jakeman A.J., (ed.). Complexity and integrated resources
management. Trans. 2nd Biennial Meeting iEMSs. Volume 1, 462-467. 2004/06/14-17, Osnabrück,
Germany.
10
được chế biến. Sử dụng có sự tham gia mô hình để giả định các kịch bản phân phối phân ủ và
đánh giá toàn bộ mạng lưới cung cấp (khối lượng, thời hạn cung cấp, vận chuyển, chi phí).
Kết quả mong đợi
- Xác định các vùng có tiềm năng sử dụng chất thải
- Đánh giá sự cân bằng giữa lượng chất thải chăn nuôi và nhu cầu của cây trồng/ao cá
- Ứng dụng các mô hình giả định vào quản lí các chất thải chăn nuôi
- Đề xuất các giải pháp tổ chức để quản lí các chất thải đã qua xử lí và chưa qua xử lí
nhằm tạo ra một ngành hàng thương mại phân hữu cơ.
Hoạt động 2.2: Ảnh hưởng của tái sử dụng phân lợn đến sự duy trì và rửa trôi các yếu tố
(C, N, P, K) trong hệ thống đất-cây trồng
Đặc điểm của trồng trọt là dư thừa quá mức các chất dinh dưỡng nhưng hiệu quả hấp thu các
chât dinh dưỡng lại thấp do đó nguy cơvề sự mất các yếu tố dinh dưỡng trong môi trường cao.
Trong bối cảnh này, cần phải giảm thiểu tác động của quá trình tái sử dụng chất hữu cơ đến môi
trường. Các yếu tố chính (C, N, P, K) là những yếu tố có tiềm năng gây hại do số lượng lớn của
chúng, đặc biệt trong điều kiện oxi hoá và không oxi hoá. Mục đich chính của hoạt động này là
đánh giá tốc độ khoáng hoá của chất hữu cơ trong thực tế (ruộng) và trong đất thí nghiệm và
định lượng các chất gây ô nhiễm tiềm năng trong hệ thống đất-cây trồng. Để giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, mục đích của nghiên cứu này là xác định các định hướng quản lí chất thải hữu cơ.
Mục đích
- Đánh giá tốc độ khoáng hoá của các chất hữu cơ.
- Hiểu được quá trình duy trì các yếu tố N, P, K (đất), thẩm thấu (nước ngầm), và các yếu
tố hấp thu (cây) theo thời gian của các hệ thống nông nghiệp đất-cây trồng khác nhau trong một
chu kỳ luân canh hai năm
- Phát triển những đề xuất quản lí phân lợn cho người chăn nuôi và các nhà chức trách
địa phương nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường

- Định lượng sự ô nhiễm tiềm năng (N, P, và K) gây ra từ việc tái sử dụng chất thải hữu
cơ trong bối cảnh đặc biệt và giữa các yếu tố khác nhau (đất, nước, cây trồng))
- Xác định các phương pháp tối ưu để tái sử dụng các chất hữu cơ này theo các điều kiện
thực tế và thích nghi với bối cảnh.
Miêu tả nhiệm vụ
- Đặc điểm của môi trường tự nhiên và chất thải hữu cơ: biến động của các điều kiện thực
tế (đất, cây trồng, chất thải, điều kiện nước -địa chất, vv.).
- Lựa chọn phương pháp: thí nghiệm tại thực địa và/hoặc tại phòng thí nghiệm (các điều
kiểm kiểm soát); ảnh hưởng của sự thay đổi mức nước; sự đa dạng và sự thay đổi của chất thải,
cây trồng, và các phương pháp canh tác (bón trực tiếp, xử lí trước khi bón, vv.)
- Đánh giá sự khoáng hoá của chất thải hữu cơ theo các điều kiện tại thực địa (xác định
khối lựợng và tính chất của chất hữu cơ, các phương pháp canh tác, các điều kiện khí hậu, vv.)
- Sự duy trì và sự thẩm thấu của các chất gây ô nhiễm hoá học theo thời gian giữa các yếu
tố khac nhau của hệ thống đất-cây trồng được nghiên cứu.
Hoạt động 2.3: Sự có mặt của các kim loại nặng do ngập lụt và nước phân lợn
Nếu nước phân lợn được tái sử dụng trên đất canh tác như là một giải pháp để tái hấp thu lượng
chất thải chăn nuôi đang gia tăng, thì phải bảo đảm rằng ảnh hưởng của các chất gây ô nhiễm,
đặc biệt là kim loại nặng là không đáng kể và phải được quản lí chặt chẽ. Thực tế, tái sử dụng có
thể là một giải pháp trong tương lai nếu chúng ta bảo vệ được chất lượng đất, nước và các hoạt
động nông nghiệp.
Có hai nguồn kim loại nặng chính trong đất:
11
(i) hàm lượng tự nhiên của các yếu tố vi lượng của đất, hàm lượng các kim loại nặng có nguồn
gốc từ đá mẹ
8, 9, 10, 11, 12
. Tại các huyện Từ Liêm và Thanh Trì, Hà Nội, Egashira
13
chỉ ra rằng
ô nhiễm đất nông nghiệp do các kim loại nặng vẫn còn hạn chế. Hàm lượng các kim loại
Cd, Cr, Cu, Ni, Pb, và Zn trong đất nông nghiệp của Việt Nam

14
ở nằm trong khoảng đã
được ghi nhận trong đá mẹ (đất bồi, sa thạch và bazan) ngoại trừ sự ô nhiễm Zn có thể xảy
tai một số vùng trồng rau ở Hà Nội.
(ii) ô nhiễm do con người, có thể do sự bón trực tiếp chất thải trên đất và phân bón nông nghiệp
(phân động vật
15
; phân vô cơ
16
; phân ủ
17
; cặn lóng từ quá trình lọc
18
), hoặc ô nhiễm do việc
bón thuốc trừ sau trên đất
19
.
Cần phải hiểu rõ là ở châu âu và bắc mỹ, nước phân chuồng chứa nhiều kim loại (Cu, Zn, Fe,
Mn, Co, và Cd)
20, 20, 21, 22
và kim loại nặng tích luỹ trong đất do bón qúa nhiều nước phân
chuồng. Vì vậy, nghiên cứu cách hoạt động của các kim loại nặng trong phân là một mối quan
tâm lớn vì chúng có tiềm năng gây ảnh hưởng đến môi trường
23
.
Tuy nhiên, những biến đổi của kim loại nặng theo chế độ hơi nước không ổn định và theo mức
độ sử dụng chất hữu cơ vẫn chưa được đề cập nhiều. Hiện tượng này thường xảy ra tại các
ruộng lúa của vùng đông nam á, nơi hoạt động trồng trọt được tiến hành trong điều kiện mưa và
ngập lụt và chất hữu cơ được sử dụng để bổ sung cho phân hoá học. Trong điều kiện độ ẩm biến
động như thế này và sử dụng phân hữu cơ cũng ảnh hưởng đến sự chuyển hoá các kim loại nặng

8
Baize, D. and Sterckeman, T., 2001. Of the necessity of knowledge of the natural pedo-geochemical
background content in the evaluation of the contamination of soils by trace elements. Science of the Total
Environment, 264(1-2): 127-139.
9
Doelsch, E., Saint Macary, H. and Van de Kerchove, V., 2006c. Sources of very high heavy metal
content in soils of volcanic island (La Reunion). Journal of Geochemical Exploration, 88(1-3): 194-197.
10
Doelsch, E., Van de Kerchove, V. and Saint Macary, H., 2006d. Heavy metal content in soils of
Reunion (Indian Ocean). Geoderma, 134(1-2): 119-134.
11
Hamon, R.E., McLaughlin, M.J., Gilkes, R.J., Rate, A.W., Zarcinas, B., Robertson, A., Cozens, G.,
Radford, N. and Bettenay, L., 2004. Geochemical indices allow estimation of heavy metal background
concentrations in soils. Global Biogeochemical Cycles, 18(1): GB1014.
12
Horckmans, L., Swennen, R., Deckers, J. and Maquil, R., 2005. Local background concentrations of
trace elements in soils: a case study in the Grand Duchy of Luxembourg. Catena, 59(3): 279-304.
13
Egashira, K., 1999. Heavy metal status of agricultural soils in Tu Liem and Thanh Tri districts of Hanoi
city, Vietnam. Journal of the Faculty of Agriculture, Kyushu University, 43(3-4): 489-497.
14
Tra, H.T.L. and Egashira, K., 2001. Status of heavy metals in agricultural soils of Vietnam. Soil
Science and Plant Nutrition, 47(2): 419-422.
15
Xue, H., Nhat, P.H., Gachter, R. and Hooda, P.S., 2003. The transport of Cu and Zn from agricultural
soils to surface water in a small catchment. Advances in Environmental Research, 8(1): 69-76.
16
Gray, C.W., McLaren, R.G., Roberts, A.H.C. and Condron, L.M., 1999. The effect of long-term
phosphatic fertiliser applications on the amounts and forms of cadmium in soils under pasture in New
Zealand. Nutrient Cycling in Agroecosystems, 54(3): 267-277.

17
Pinamonti, F., Stringari, G., Gasperi, F. and Zorzi, G., 1997. The use of compost: its effects on heavy
metal levels in soil and plants. Resources, Conservation and Recycling, 21(2): 129-143.
18
Cornu, S., Neal, C., Ambrosi, J.P., Whitehead, P., Neal, M., Sigolo, J. and Vachier, P., 2001. The
environmental impact of heavy metals from sewage sludge in ferrasols (Sao Paulo, Brazil). Science of the
Total Environment, 271: 27-48.
19
Hernandez, D., Plaza, C., Senesi, N. and Polo, A., 2006. Detection of copper(II) and zinc(II) binding to
humic acids from pig slurry and amended soils by fluorescence spectroscopy. Environmental Pollution,
143(2): 212-220.
20
Jondreville, C., Revy, P.S., Jaffrezic, A. and Dourmad, J.Y., 2002. Le cuivre dans l'alimentation du porc
: oligo-élément essentiel, facteur de croissance et risque potentiel pour l'Homme et l'environnement.
INRA Prod. Anim., 15(4): 147-165.
21
L'Herroux, L., Roux, S.L., Appriou, P. and Martinez, J., 1997. Behaviour of metals following intensive
pig slurry applications to a natural field treatment process in Brittany (France). Environmental Pollution,
97(1-2): 119-130.
22
Revy, P.S., Jondreville, C., Dourmad, J.Y. and Nys, Y., 2003. Le zinc dans l'alimentation du porc :
oligo-élément essentiel et risque potentiel pour l'environnement. INRA Prod. Anim., 16(1): 3-18.
23
Coppenet, M., Golven, J., Simon, J.C., Le Corre, L. and Le Roy, M., 1993. Evolution chimique des sols
en exploitations d'élevage intensif : exemple du Finistère. Agronomie, 13: 77-83.
12
vào đất, do đó ảnh hưởng đến hàm lượng của chúng trong cây lúa. Thực tế cho thấy ngập lụt và
bón chất hữu cơ đã gây ra sự thay đổi đáng kể trong Eh và giá trị pH của tất cả các loại đất và
sự phân bố cơ bản các kim loại nặng có thể diễn ra.
Nghiên cứu được đề xuất phải được tiến hành để đánh giá những biến đổi hoá học của kim loại

theo các chế độ hơi nước và mức độ bón chất hữu cơ cho đất. Ngoài ra, chúng tôi cũng đề xuất
nghiên cứu sự có mặt các kim loại nặng và sự biến đổi của chúng theo quá trình tái sử dụng
nước phân lợn trên đất trồng.
Mục đích
- Xác định hàm lượng các kim loại năng trong đất tại vùng nghiên cứu và xác định nguồn
gốc của chúng (tự nhiên hay do con người);
- Xác định hàm lượng các kim loại nặng trong nước phân lợn;
- Nghiên cứu sự có mặt của các kim loại nặng trong đất do ngập lụt và do nước phân lợn.
Miêu tả nhiệm vụ
- Lựa chọn đất và nước phân lợn đại diện cho vùng nghiên cứu
- Lắp đặt các thẩm kế để nghiên cứu sự có mặt và sự biến động của các kim loại nặng
trong đất do ngập lụt và do bón nước phân lợn
- Thu thập nước thẩm lọc qua đất và dung dịch của đất hoà tan bằng những cái ly xốp
- Đo các tham số lý hoá (Eh, pH, EC, vv.) và thành phần đa lượng và vi lượng của các
dung dịch này
- Lấy mẫu đất và cây ở giai đoạn 1, 6, 12 và 24 tháng sau khi bón chất thải
- Nghiên cứu sự có mặt của các kim loại nặng bằng các phương pháp phân tách từng loại,
những phương pháp thường được sủ dụng để nghiên cứu sự có mặt của các kim loại nặng trong
đất và chất thải
24
và bằng Extended X-ray hấp phụ quang phổ cận hồng ngoại (EXAFS), đây là
một kỹ thuật hiệu quả để xác định một nguyên tử nào đó trong môi trường.
Kết quả mong đợi
- Xác định hàm lượng các kim loại nặng (Cd, Cr, Cu, Hg, Ni, Pb, và Zn) trong đất và
trong nước thải của lợn của vùng nghiên cứu;
- Xác định các kim loại nặng trong hệ thống đất-nước-cây trồng sau khi bón nước phân
lợn trên đất ngập nước-dốc;
- Đánh giá ảnh hưởng của bón nước phân lợn trong các điều kiện ngập úng nhằm giảm
nguy cơ nhiễm các kim loại của hệ thống sinh thái.;
- Đề xuất chính sách.

NHÓM HOẠT ĐỘNG 3: CÔNG NGHỆ CHẾ XỬ LÍ PHÂN LỢN VÀ MẠNG LƯỜI
CUNG CẤP PHỤ PHẨM HỮU CƠ
Vấn đề lớn hạn chế phát triển chăn nuôi lợn là sự thiếu đất để chứa các chất thải và
thiếu nhân công để xử lí nước phân chuồng. Thực tế, phương pháp quản lí truyền thống chất thải
lợn cảu người chăn nuôi là thu gom riêng rẽ phân rắn và nước phân chuồng. Các chất thải này
hiện nay được sử dụng theo hai cách khác nhau : phân lỏng được sử dụng cho ao cá và vườn
cây ăn quả gần chuồng lợn, còn phân rắn sử dụng để bón lúa, ngũ cốc và đậu tương. Điều này
cho thấy rằng phân rắn có thể được tái sử dụng nhiều hơn cho cây trồng. Phương pháp quản lí
này thường thấy nhiều ở các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, nhưng cho đến nay nó không được các
hộ chăn nuôi lớn chú trọng.
Hoạt động 3.1: Phát triển xử lí nước phân lợn và đặc điểm của các phụ phẩm hữu cơ có
nguồn gốc từ chất thải lợn
Thay vì giảm một cách có hệ thống hàm lượng nitơ của nước phân chuồng tại một nhà
máy xử lí, trường hợp thường thấy tại các vùng thừa nước phân chuống ở châu âu, nên tăng
cường tái sử dụng nitơ và carbon trong các hệ thống kết hợp của Việt nam. Nên duy trì những
nhà máy xử lí dựa trên tiến trình nitrat hoá-khử nitrat trong bối cảnh mà việc tái sử dụng nitơ
cho cây trồng và ao cá không thể thực hiện hoặc không đủ. Đối với các hộ chăn nuôi quy mô
nhỏ và trung bình, quy trình xử lí có thể là xử lí hỗn hợp nước phân chuồng với rơm hoặc ủ trực
tiếp tại chuồng lợn. Đối với những hộ chăn nuôi quy mô lớn hơn, nên xử lí nước phân chuồng
bằng hệ thống Agrifiltre® system (do CIRAD và EVIALIS phát triển) theo một giai đoạn ủ
24
Doelsch, E., Deroche, B. and Van de Kerchove, V., 2006b. Impact of sewage sludge spreading on
heavy metal speciation in tropical soils (Reunion, Indian Ocean). Chemosphere, 65(2): 286-293.
13
hoặc một quy trình xử lsi khác. Vì người chăn nuôi đánh giá cao biogaz được sản xuất từ quá
trình len men nước phân chuống (họ sử dụng nó để nấu ăn), vì vậy kỹ thuật này nên được kết
hợp trong những giải pháp tổng thể được đề xuất cho các hộ chăn nuôi khác nhau.
Tuy nhiên, phát triển các kỹ thuật lọc và ủ nước phân chuống thích nghi với cả hai hệ thống quy
mô trung bình và lớn là một thách thức để nâng cao giá trị của chất thải chăn nuôi như một
nguồn phân hữu cơ ở quy mô nông hộ và quy mô vùng.

Mục đích
- Thử nghiệm kỹ thuật sử dụng rơm-chất độn chuồng để lọc nước phân chuồng tại
chuồng lợn và ủ lớp rơm bị thấm ướt.
- Đặc điểm của rơm được sử dụng để lọc/ủ và các sản phẩm hữu cơ (cả hai loại rắn và
lỏng) được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quá trình xử lí tổng thể và quá trình tái sử
dụng (từ cửa thoát nước của chuồng lợn đến khi bón cho cây trồng và ao cá).
- Những hướng dẫn, tư vấn cho hoạt động xử lí nước phân chuồng ở quy mô nông hộ (hệ
thống các hộ chăn nuôi quy mô trung bình và lớn).
Miêu tả nhiệm vụ
Xây dựng thí nghiệm (6 tháng)
- Tổng hợp những kiến thức hiện tại về xử lí nước phân chuồng bằng kỹ thuật lọc và ủ
- Lắp đặt nhà máy thử nghiệm (nhà máy xử lí trọng điểm) tại một trang trại chăn nuôi
- Thử nghiệm tại phòng thí nghiệm trên rơm được lọc và ủ với nước phân chuồng
- Kiểm tra, theo dõi nhà máy xử lí trọng điểm
Thí nghiệm (10 tháng)
- Thí nghiệm in situ tại các hộ chăn nuôi Việt nam
- Hai quy trình chính sẽ được theo dõi: một quy trình pha trộn đơn giản tại một hộ chăn
nuôi quy mô trung bình và hệ thống Agrifiltre® tại một hộ chăn nuôi quy mô lớn (xây dựng hệ
thống thứ hai này, đòi hỏi nhiều kỹ thuật và công nghệ hơn sẽ do các đối tác Việt nam và Pháp
thực hiện)
- Hiệu quả về khối lượng và chất lượng của quy trình xử lí nhằm tối ưu chúng trong điều
kiện Việt Nam
Phân tích hoá học và đánh giá C & N có sẵn (8 tháng)
- Đánh giá những biến đổi của các thành phần khác nhau của các chất hữu cơ trong suốt
quá trình và các thánh phần của chúng (ví dụ, hàm lượng N, P và K) trong chất thải chưa qua xử
lí từ chuồng lợn, từ quá trình lọc, ủ, dự trữ, và bón phân ủ trên đồng ruộng
- Đặc điểm của rơm được sử dụng để lọc và trộn với chất thải
- Phân tích bằng cách sử dụng các phương pháp cổ điển tại các phòng thí nghiệm của các
Viện Việt nam
- Phân tích bằng cách sử dụng máy quang phổ hấp phụ cận hồng ngoại (NIRS)

25
,
26
,
27
,
28
- Với phương pháp ủ, thể hiện đặc điểm về sự năng động của C & N trong đất sau khi
bón phân ủ
Dường lối chỉ đạo và hoạt động tư vấn (6 tháng)
- Tư vấn cho các đối tượng làm về nông nghiệp nhằm giúp họ xử lí và tái sử dụng tốt hơn
nước phân lợn
25
Thuriès L., Bastianelli D., Davrieux F., L. Bonnal, R. Oliver, Pansu M., Feller C. (2005) Prediction by
NIRS of the composition of plant raw materials from the organic fertiliser industry and of crop residues
from tropical agrosystems. Journal of Near Infrared Spectroscopy, 13:187–199.
26
Thuriès L., Davrieux F., Bastianelli D., Bonnal L., Oliver R., (2005). NIRS for predicting quality
indexes in the organic fertiliser industry. Poster communication 12th International Conference on Near
Infrared Spectroscopy, Sky City Auckland, New Zealand, 10-15 Avril 2005
27
Thuriès L., Bonnal L., Davrieux F., Bastianelli D., (2005). ‘Possible use of NIRS for the management
of composting process.’ Poster communication 12th International Conference on Near Infrared
Spectroscopy, Sky City Auckland, New Zealand, 10-15 Avril 2005
28
Thuriès L., Oliver R., Davrieux F., Bastianelli D., Pansu M. (2006) ‘Transformations des apports
organiques : application du modèle TAO à des matières de l’agro-industrie à partir de leur analyse
biochimique mesurée ou estimée par Spectrométrie Proche Infra-Rouge (SPIR).’ Séminaire Réseau
Matière Organique IHSS, Carquairanne (France), 22-24 Janvier.
14

- Xây dựng các phương pháp đơn giản phù hợp với các hệ thống chăn nuôi quy mô trung
bình và những đường lối chỉ đạo cho hoạt động kiểm tra, theo dõi quy trình xử lí nước phân
chuống
- Đối với những hệ thống chăn nuôi quy mô lớn, đánh giá sự kết hợp của các quy trính
khác nhau với hệ thống Agrifiltre® system, nhằm tái sử dụng tối đa các chất dinh dưỡng trong
trại chăn nuôi, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để chuyển các sản phẩm hữu cơ đến các trại
hoặc các vùng khác khi cần
Kết quả mong đợi
- Tỉ lệ nước thải và rơm trong kỹ thuật trộn và ủ.
- Cân bằng sinh khối của các chất dinh dưỡng chính (N, P, K) thông qua quy trình xử lí.
- Đặc điểm của sản phẩm hữu cơ theo các phương pháp phân tích cổ điển, ủ và NIRS.
- Xác định các thông số về kích cỡ trong phương pháp NIRS cho một loạt các sản phẩm
hữu cơ.
- Tư vấn hỗ trợ các nhà nghiên cứu xây dựng các quy trình xử lí theo các hệ thống chăn
nuôi lợn quy mô trung bình và lớn.
Hoạt động 3.2: Đánh giá về mặt kinh tế và xã hội của mạng lưới phân phối nuớc thải của
lợn đã qua xử lí và chưa qua xử lí
Người nông dân và những nhà chức trách địa phương hiện nay đã nhận thức rõ về sự
cần thiết của việc phát triển các chương trình kết hợp quản lí chất thải và ô nhiễm. Sự nhận thức
này là một ghi nhận đầu tiên và là bằng chứng của sự bền vững. Ý tưởng này cũng được dựa
trên chương trình quốc gia về phát triển chăn nuôi lợn công nghiệp, đây chính là lí do chúng tôi
chờ đợi những kết quả của dự án nhằm đóng góp vào các thảo luận ở cấp tỉnh và quốc gia về
các luật quản lí chất thải và sau đó thay đổi chính sách dựa trên những tư vấn của chúng tôi. Ý
tưởng về tính bền vững lâu dài sẽ được đảm bảo thông qua phát triển các khung chính sách cho
ngành chăn nuôi và khuyến khích những cơ quan khuyến nông quản lí chất thải chăn nuôi.
Một giả thitết lớn đằng sau hoạt động xứ lí chất thải nông nghiệp là đây không phải là một hoạt
động mang lại lợi nhuận cho người sản xuất chất thải. Các nhà máy xử lí, bản thân nó không
sinh ra thu nhập. Mục đích chính của nhà máy xử lí là đảm bảo một dịch vụ môi trường vì
quyến lợi tập thể bằng cách chuyển các chất thải gây ô nhiếm thành các phụ phẩm được quản lí
tốt hơn. Nhà máy cung cấp dịch vụ môi trường tạo ra hai thị trường: (i) một thị trường gồm

những người cung cấp phân lợn và rơm cho quá trình lọc/ủ (e.g. rơm) (ii) và một thị trường gồm
những người sử dụng phân ủ, thị trường sinh ra thu nhập. Sự kết hợp hai thị trường này cho
phép cân bằng ngân sách hoạt động của nhà máy xử lí vì bán phân ủ sản xuất sẽ giúp bù vào
một phần chi phí hoạt động. Khả năng đứng vững trong môi trường kinh doanh của một mạng
lười nào đó phụ thuộc vào sự tham gia của các đối tác khác nhau và sự quay vòng vốn đầu tư
nếu họ có thể kiếm được lợi nhuận. Vì vậy, vấn đề tài chính và kinh tế của toàn bộ mnạg lưới
phân phối phải được quản lý và kiểm soát.
Mục đích
- Xác định các điều kiện kinh tế và xã hội để xây dựng mạng lưới thương mại cung cấp
các phụ phẩm hữu cơ (nghiên cứu thị trường)
- Ai sẽ hỗ trợ đầu tư và chi phí vận hành?
- Những biện pháp khuyến khích nào, khuyến khích người nông dân thay đổi các phương
pháp thực hành của họ và chuyển từ sử dụng phân ủ truyền thống sang phân ủ chất lượng ?
- Giá phải chăng
- Tăng cường hỗ trợ và thực hiện luật về môi trường và sử dụng các công cụ an toàn
- Phát triển các công cụ kinh tế hiệu qủa giúp thức đẩy mạng lưới cung cấp nước phân
lợn chưa qua xử lí và đã qua xử lí (tín dụng nhỏ, chi trả cho các dịch vụ môi trường (PES),vv.)
Miêu tả nhiệm vụ
Kết quả mong đợi
- Thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội
- Lợi nhuận tiềm năng cho người nông dân
- Tạo thêm việc làm
15
NHÓM HOẠT ĐỘNG: PHỔ BIẾN VÀ THĂM QUAN MÔ HÌNH
Thăm quan mô hình, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm và phổ biến các hoạt động nghiên
cứu là những hoạt động tạo điều kiện cho việc xây dựng các nhà máy xử lí. Sử dụng và phổ
biến các kỹ thuật, công nghệ do những người nông dân, những người tư vấn nông nghiệp và
những người dân địa phương nằm trong khuôn khổ của các hoạt động này.
Hoạt động 4.1: Thí nghiệm tại thực địa và thăm quan mô hình
Cùng với các hoạt động trước đó, xây dựng các thí nghiệm tại thực địa và tại phòng thí

nghiệm là cần thiết. Để dễ hiểu và rõ ràng, những thí nghiệm về cây trồng và ao cá cũng được
trình bày ở đây. Người nông dân, những người tư vấn nông nghiệp và những người hoạch định
chính sách sẽ thăm các lô thí nghiệm chỉ dẫn kỹ thuật, công nghệ và thăm các lô thí nghiệm.
Mục đích
Các hệ thống ao cá
Bón tối ưu chất thải chăn nuôi, năng suất hiện tại: 2-3 t ha
–1
yr
–1
; năng suất tiềm năng: 8-12 t ha
-1
yr
-1
Thử nghiệm các hệ thống chăn nuôi kết hợp lợn-ao cá
- Chăn nuôi lợn, nuôi ghép cá theo công nghệ 80: 20
- Chăn nuôi lợn-nuôi đơn loài cá
- Chăn nuôi lợn- ao cá- xử lí bằng cây thuỷ sinh (water hyacinth and water celery)
- Các phụ phẩm có nguồn gốc từ hầm biogaz hoặc từ quá trình lọc và ao cá
Các hệ thống cây trồng
Người ta đã chứng minh rằng sự kết hợp giữa 50% phân hóa học và 50% phân độn chuồng thì
cho năng suất lúa cao hơn so với bón hoàn toàn phân hoá học (100 kg N ha
–1
)
29
.
Thử nghiệm ứng dụng các phụ phẩm hữu cơ trên cây trồng
Miêu tả nhiệm vụ
- Đặt các thí nghiệm tại ao cá trong 3 năm
- Theo dõi quần thể và mật độ cá
- Theo dõi chất lượng nước (ô nhiễm do các chất dinh dưỡng, các mầm bệnh, …)

- Theo dõi chất lượng cá và sự an toàn của chúng
- Đặt các thí nghiệm sử dụng phụ phẩm hưu cơ tại các ruộng lúa và bón ít nhất cho 3 loại
cây trồng chính trong 3 năm để so sánh hiệu quả về năng suất giữa bón các phụ phẩm hữu cơ
với bón phân hoá học và không bón phân.
- Tổ chức các chuyến thăm thực địa cho những người nông dân, nhưngc người tư vấn
nông nghiệp và những người hoạch định chính sách
- Soạn thảo sách tư vấn kỹ thuật
Kết quả mong đợi
- Những hướng dẫn về bón chất thải của lợn và các phụ phẩm cho cây trồng và ao cá
nhằm đạt được năng suất tiềm năng
- Hiệu quả sau khi xử lí nước phân lợn và phụ phẩm sinh ra từ quá trình xử lí biogaz và
quá trình lọc
- Sản xuất cá và rau chất lượng và an toàn
- Hiệu quả và cân bằng về tỉ lệ các chất dinh dưỡng
- Sách tư vấn kỹ thuật
Hoạt động 4.2: Tập huấn về quản lí kết hợp và có sự tham gia các chất hữu cơ trong nông nghiệp
2 Khoá tập huấn
1. Ảnh hưởng của quán lí chất hữu cơ trong nông nghiệp đến nông nghiệp và môi trường
2. Mô hình quản lí chất thải chăn nuôi
Mục đích
- Sử dụng các nguyên tắc quản lí về độ màu mỡ của đất canh tác vad tái sử dụng tất cả
các loại chất hữu cơ trong nông nghiệp
- Áp dụng các phương pháp phân tích phù hợp với môi trường nghiên cứu
- Thúc đẩy quản lí hợp lí chất thải động vật ở quy mô nông hộ và giữa các hộ (i.e. vùng)
Đối tượng tham gia
Những nhà khoa học, những người tập huấn, những kỹ sư và kỹ thuật viên nông nghiệp, những
người quyết định chính sách phát triển nông nghiệp, tối đa 15 người tham gia.
29
Luu Hong Man et al. 2007. Improvement of soil fertility by rice straw manure. OmonRice 15: 124-134
16

NHỮNG ĐỐI TÁC TIỀM NĂNG
Bản 1 tập hợp những đối tác tiềm năng. Một số người đã nhận thức được về những đột
phá của công nghệ này một số người thì chưa nhưng cần phải tiếp cận họ một cách chính thức
và xác nhận sự tham gia của họ vào những đề xuất tương lai hoặc các tổ hợp.
Bảng 1: Những đối tác tiềm năng
Hoạt động # Vietnam Pháp Quốc tế
1.1 Quản lí ở các hộ
chăn nuôi lợn quy mô
nhỏ
NIAH
NAFEC (Trung tâm
Khuyến nông)
Các nhà chức trách
của tỉnh
Cirad Trường đại học: Miền
nam
Đan mạch : dự án
Susane?
SNV – Hà Lan
1.2 Quán lí và đánh giá
ở các hộ chăn nuôi lợn
quy mô trung bình
NIAH
NISF
Các nhà chức trách
của tỉnh
Các công ty chăn nuôi
hoặc các hợp tác xã
Cirad
Agrocampus

Ouest/Inra: UMR Sas
Trường đại học: Miền
nam
Đan mạch : dự án
Susane?
2.1 Quản lí ở quy mô
vùng. Xây dựng mạng
lưới cung cấp (kỹ
thuật)
NIAH
NAFEC
Các nhà chức trách
của tỉnh
Các công ty chăn nuôi
hoặc các hợp tác xã
CARGIS?
Cirad
Agrocampus
Ouest/Inra: UMR Sas
2.2 C, N, P, K đánh giá
các nguy cơ
SFRI
IRD-IWMI
Cirad
Agrocampus
Ouest/Inra: UMR Sas
2.3 Kim loại nặng,
đánh giá các nguy cơ
SFRI
NIHE (Viện Vệ sinh và

Dịch tễ)
Cirad
Cerege
3.1 Transformation
technologies – Organic
by-products
SFRI
NIAH
Evialis VN
Trường đại học Nông
Lâm
Cirad
Cemagref Rennes
Agrocampus
Ouest/Inra: UMR Sas
3.2 Quản lí ở quy mô
vùng. Xây dụng mạng
lưới cung cấp (kinh tế
và xã hội)
Ipsard
Casrad
PCP Malica
MARD
Các nhà chức trách
của tỉnh
Các công ty chăn nuôi
hoặc các hợp tác xã
Cirad UC-Berkeley:
Agricultural &
resource economics

dept?
FAO: Lead initiative
4.1 Thí nghiệm taị thực
địa và chứng minh thí
nghiệm
Viện Nghiên cứu Thuỷ
sản #1
HAU#1
Trường đại học Nông
Lâm
SFRI
NIN (Viện dinh
dưỡng)
NIHE
NAFEC
Cirad Trường đại học: Miền
nam
Đan mạch : dự án
Susane?
4.2 Tập huấn NAFEC?
IFI hoặc MICA?
NIAH?
Cirad
AUF?
Đại sứ quán Pháp?
Danida?
Tổ chức quốc tế thuộc
khối pháp ngữ?
17
SFRI?

NHỮNG TỪ KHOÁ CẦN PHÁT TRIỂN TRONG CÁC ĐÈ XUẤT NẾU YÊU CẦU
Tác động khoa học
- Xác định những giải pháp thay thế
- Năng cao khả năng thông qua tập huấn tại các hộ sản xuất nông nghiệp
- Năng cao năng lực phòng thí nghiệm
- Đánh giá tác động môi trường
- Đánh giá tác động kinh tế-xã hội
- Sản phẩm mới (những công nghệ mới, chất lượng phụ phẩm) và đánh giá thị trường
Tác động môi trường
- Giảm ô nhiễm N và P, giảm phát tán khí gây hiệu ứng nhà kính, và các nguy cơ về kim
loại nặng
- Khai thác tốt hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Cải thiện sức khoẻ cộng đồng
- Nâng cao nhận thức của người nông dân về chất lượng thức ăn và các vấn đề về vệ sinh
an toàn thực phẩm
- Nâng cao nhận thức của người nông dân về các vấn đề môi trường
Tác động kinh tế và xã hội
- Việc làm và thu nhập ổn định
- Những cơ hội kinh doanh mới
- Giảm chi phí theo dõi và chi phí nhân công
- Nâng cao mức sống
- Tăng sự nhận thức của người nông dân về các vấn đề môi trường
- Góp phần cải tiến luật
Những nguy cơ tiềm năng đối với các hoạt động này
- Những nguy cơ về sức khoẻ (Bệnh tai xanh, cúm gia cầm, vv.) cho các nhóm của dự án
là việc tại các hộ chăn nuôi , và các nguy cơ truyền nhiễm bệnh tật
- Nguy cơ về khí hậu
- Những khó khăn trong việc thích nghi mô hình giả định
- Các nguy cơ về kinh tế và tài chính
18

ƯỚC TÍNH LƯỢNG NITƠ VÀ PHOSPHO TRONG CHẤT THẢI TỪ
LỢN THỊT NUÔI BẰNG CÁC KHẨU PHẦN THƯỜNG DÙNG TẠI
VIỆT NAM
Vũ Thị Khánh Vân, Đinh Văn Tuyền
Viện Chăn nuôi Quốc gia
Vu T.K.V
1
, Sommer G. S
2
, Vu C.C
1
and Jørgensen H.
3
1
Viện Chăn nuôi, Thụy Phương, Từ Liêm, Hà nội, Việt nam.
2
Viện Công nghệ Môi trường, Công nghệ sinh học và Hóa chất, Khoa Công nghệ,
Trường Đại học Nam Đan Mạch, Campusvej 55, 5230 Odense M, Denmark.
3
Bộ môn dinh dưỡng và sức khỏe gia súc, P.O. Box 50, 8830 Tjele, Denmark.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chính phủ Việt nam đang quan tâm đến chăn nuôi tập trung nhằm nâng cao năng suất.
Tuy nhiên, chưa có đầy đủ quy định và công nghệ cho việc sử lý chất thải an toàn với môi
trường. Trong thực tế, những quy định hiện hành không đề cập đến quá trình tái sử dụng chất
thải chăn nuôi trong nông nghiệp. Lượng chất thải quá lớn trong các ao nuôi cá cũng như trong
các hầm biogas đã được quan sát thấy ở Việt nam (Vu và cộng sự, 2007). Nhiều hộ chăn nuôi sử
dụng chất thải gia súc như nguồn phân bón cho cây trồng hoặc thải trực tiếp xuống ao nuôi cá
mà thiếu kiến thức về sự cân bằng các chất dinh dưỡng trong ao nuôi. Vấn đề này trở nên trầm
trọng hơn khi chăn nuôi tập trung sẽ cho ra một lượng chất thải lớn trong một khu vực có diện
tích nhỏ. Kết quả là việc sử dụng chất thải mang tính địa phương sẽ dẫn đến sự cung cấp quá

mức chất dinh dưỡng cho cây trồng và ao cá, và việc quá mức này làm ô nhiễm nguồn nước.
Chính phủ vẫn chưa có những biện pháp hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đền liên quan đến việc
sử dụng hiệu quả chất thải chăn nuôi trong nông nghiệp.
Tái sử dụng chất thải gia súc bền vững và hiệu quả có thể giảm bớt các vấn đề về môi
trường liên quan đến chăn nuôi bằng cách áp dụng các chương trình/mô hình toán quản lý chất
thải khác nhau. Mô hình quản lý chất thải từ chăn nuôi lợn (Guerrin, 2004) và quản lý chất thải
gia súc ở quy mô trang trại (Guerrin, 2001) đã được xây dựng. Sự cân bằng nitơ trong toàn trang
trại đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát nitơ và quy định về chăn nuôi ở Hà lan (Schroder
và cộng sự., 2003). Hệ thống quy chuẩn của Đan mạch tính đến lưu lượng chất dinh dưỡng thải
ra bởi gia súc và sau khi ủ (Poulsen và cộng sự, 2006). Hệ thống này được sử dụng để điều
chỉnh/kiểm soát quá trình chăn nuôi và lượng phân bón cho đồng ruộng.
Ở quy mô trang trại, Vu và cộng sự. (2009) đã xây dựng phương trình thống kê nhằm
dự đoán lượng nitơ và các bon thải ra từ lợn được nuôi bằng các khẩu phần cho lợn thịt áp dụng
tại Đan mạch. Hàm lượng Protein và tỷ lệ chất xơ khẩu phần cho lợn khác nhau giữa Việt nam
và Đan mạch. Hơn nữa, tỷ lệ các chất dinh dưỡng là khác nhau giữa các hệ thống chăn nuôi
nông hộ tại Việt nam. Khẩu phần với tỷ lệ protein thấp và chất xơ cao được sử dụng ở các nông
hộ có quy mô chăn nuôi nhỏ, trong khi khẩu phần có tỷ lệ protein cao và hàm lượng xơ thấp
được sử dụng ở các hộ chăn nuôi có quy mô lớn (DANIDA, 2003). Đặc điểm của phân liên
quan đến cả tỷ lệ protein và chất xơ khẩu phần, và tổng lượng phân thải ra từ lợn nuôi với khẩu
phần có tỷ lệ lớn chất xơ ít tiêu hóa gần như gấp đôi lượng phân từ lợn ăn khẩu phần tiêu chuẩn
có chứa lượng chất xơ ít tiêu hóa ở mức độ bình thường (Sørensen & Fernández, 2003).
Do đó mục đích của thí nghiệm này là đưa ra số liệu về nitơ và phospho từ chất thải của
các giống lợn thịnh hành được nuôi các khẩu phần nuôi lợn thông thường và việc quản lý chất
thải ở Việt nam. Hơn nữa, số liệu thí nghiệm được sử dụng để kiểm tra xem phương trình xây
dựng dựa trên hệ thống dữ liệu của Đan Mạch có thể ứng dụng cho việc đánh giá lượng nitơ
trong phân của lợn nuôi trong điều kiện thực tế ở Việt nam.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành tại Trung tâm thử nghiệm thức ăn gia súc, thuộc Viện Chăn
nuôi trong 3 tháng, từ tháng 11/2007 đến cuối tháng 1/2008. Nhiệt độ môi trường trung bình là
21

o
C, 20
o
C và 15
o
C cho các tháng thí nghiệm. Mục đích là thử nghiệm ảnh hưởng của 3 khẩu
19
phần thí nghiệm đến thành phần và lượng phân thải ra, và xác định lượng khí nitơ sinh ra trong
quá trình nuôi nhốt.
Thiết kế thí nghiệm
Thí nghiệm được thiết kế theo phương pháp ô vuông Latin không cân xứng, với 2 giai
đoạn phát triển và mỗi giai đoạn phát triển có 2 hình thức nuôi nhốt, đó là nuôi trong cũi trao
đổi chất và chuồng nuôi thông thường. Mỗi giai đoạn sinh trưởng kéo dài 34 ngày và 4 lần lặp
lại. Trong lần lặp lại thứ nhất, 2 lợn được nuôi một trong 3 khẩu phần cho mỗi hình thức nuôi
dưỡng. Lợn được nuôi nhốt riêng rẽ trong các chuồng hoặc cũi, giai đoạn thích nghi kéo dài 6
ngày, sau đó 5 ngày thu phân và nước tiểu. Trong lần lặp lại thứ 2, lợn nuôi cùng khẩu phần
được đổi từ chuồng sang cũi và ngược lại. Lợn được nuôi thích nghi với chuồng hay cũi mới
trong 1 ngày, sau đó 5 ngày thu phân và nước tiểu. Lần lặp lại thứ 3 và thứ 4 tương tự như lần
lặp lại thứ nhất và thứ 2.
Gia súc thí nghiệm và chuồng trại
Thí nghiệm bao gồm mười hai lợn đực thiến lai giữa Landrace và Yorkshire được theo
dõi trong 2 giai đoạn sinh trưởng. Giai đoạn thứ nhất, khối lượng bắt đầu trung bình là 34 kg và
khối lượng kết thúc là 52 kg. Giai đoạn thứ 2, khối lượng bắt đầu trung bình là 52 kg và khối
lượng kết thúc là 77 kg. Sáu lợn được nuôi trong cũi giúp cho việc thu phân và nước tiểu dễ
dàng và chính xác. Sáu lợn khác được nuôi trong chuồng có mái che fibro xi măng, sàn bê tông
và thông thoáng tự nhiên. Ở cuối mỗi chuồng nuôi có rãnh cho phép thu phân và nước tiểu riêng
rẽ. Nước uống được cung cấp tự do bằng núm uống. Lượng nước 20 lít được sử dụng để rửa
chuồng hàng ngày. Nước thải bao gồm nước tiều, phân còn lại sau khi thu phân và nước sử
dụng để rửa chuồng.
Khẩu phần thí nghiệm và nuôi dưỡng

3 khẩu phần thí nghiệm khác nhau về tỷ lệ protein và chất xơ được sử dụng cho 3 nhóm
lợn, mỗi nhóm 4 con. Ba khầu phần thí nghiệm đó là tỷ lệ protein cao và xơ thấp (H-L); protein
trung bình và xơ trung bình (M-M); và protein thấp và xơ cao (L-H), (Bảng 1). Lợn nuôi ở Việt
nam, đặc biệt là trong thời gian đầu của sinh trưởng, thường có vấn đề về bệnh tật khi hàm
lượng phospho khẩu phần thấp hơn mức khuyến cáo của NRC (1998). Để tránh tình trạng này,
lợn nuôi trong giai đoạn sinh trưởng đầu tiên được nuôi dưỡng khẩu phần có hàm lượng
phospho cao hơn khuyến cáo của NRC (1998) trong khi đó ở giai đoạn thứ 2 mức phospho giảm
xuống mức khuyến cáo.
Thức ăn được cho ăn tự do trong 2 ngày đầu thích nghi của lần lặp lại thứ nhất nhằm
xác định lượng ăn vào trung bình cho lần lặp lại thứ nhất và thứ hai. Những ngày tiếp theo, lợn
được cung cấp 80% và 90% lượng thức ăn ăn vào ước đoán cho lần lặp lại thứ hai. Lượng cho
ăn ở chuồng và trong cũi là như nhau.
Thu thập số liệu và phân tích hóa học
Lợn được cân vào buổi sáng trước khi cho ăn ở lần lặp lại thứ nhất và kết thúc lần lặp
lại thứ hai. Thức ăn ăn vào được ghi chép cho riêng từng cá thể hàng ngày. Phân và nước tiểu
được thu vào thời điểm nhất định, vào buối sáng (8.00 h) và buổi chiều (15.00 h). Nước tiểu
được thu vào can có sẵn sulphuric acid để bảo quản ni tơ. Mẫu thu được hàng ngày được giữ
trong tủ lạnh sâu - 4
o
C. mẫu sau đó được trộn đều, lấy mẫu và phân tích thành phần hóa học.
Tất cả các mẫu được phân tích 2 lần tại phòng phân tích, Viện Chăn nuôi theo các phương pháp
tiêu chuẩn (Association of Official Analytical Chemists, 1990). Thức ăn được phân tích chất
khô (DM), nitơ, xơ thô, calcium, P, mỡ thô và khoáng. Phân được phân tích chất khô (DM), xơ
thô, N, N-NH
4
, P và pH. Nước tiểu và nước thải được phân tích N, N-NH
4
, P và Ph
Tính toán và phân tích thống kê
Lượng nitơ thoát ra trong quá trình nuôi nhốt được xác định bằng tổng số ni tơ thải ra từ

lợn nuôi trong cũi trừ đi tổng lượng nitơ thải ra đo được từ trong chuồng. Lượng ni tơ thoát ra từ
phân thu ngay lập tức sau khi thải ra trong cũi được giả thiết là bằng 0.
Số liệu thí nghiệm được sử dụng để kiểm tra các phương trình được xây dựng bởi Vu và
cộng sự (2009). Với nitơ bài xuất trong nước tiểu, các phương trình bao gồm protein khẩu phần
từ 15 đến 26% (theo chất khô) được thử nghiệm. Mức độ chính xác của phương trình được tính
toán bởi sai số uớc tính dưới dạng sai số trung bình ước đoán (RMSEP) và bằng cách thử
nghiệm bất kỳ sự khác nhau mang tính hệ thống giữa các giá trị trung bình và bộ số liệu thử
20
(Esbersen, 2002; Jørgensen & Lindberg, 2006). Số liệu được phân tích ANOVA theo phần mềm
MINITAB software version 13.31 (Minitab, 2000) .
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thức ăn ăn vào và tăng trọng của lợn
Thành phần tính toán dựa trên bảng thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc tại
Việt nam (1995). Các giá trị tính toán gần đúng với thành phần phân tích ngoại trừ biến động
nhỏ về phospho trong giai đoạn 2. Lợn không có vấn đề gì về bệnh tật trong suốt giai đoạn thí
nghiệm.
Sự khác nhau về khẩu phần ảnh hưởng đến tăng trọng của lợn. Như trình bày trong bảng 2,
lợn ăn khẩu phần H-L tăng trọng cao hơn trong cả 2 giai đoạn nuôi sinh trưởng so với lợn nuôi bằng
các khẩu phần khác. Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ có sự sai khác giữa các nhóm thí nghiệm. Tỷ lệ tiêu
hóa chất hữu cơ tương quan nghịch với chất xơ khẩu phần. Kết quả này đồng thuận với nghiên
cứu của Just và cộng sự. (1983b).
Phân thải ra và đặc điểm
Như đã trình bày trong bảng 2, cả lượng phân ở dạng tươi và khô từ nhóm ăn khẩu phần
L-H là cao nhất, kết quả này tương tự với kết luận của Portejoie và cộng sự (2004) chỉ ra rằng
giảm tỷ lệ protein khẩu phần sẽ dẫn đến giảm lượng phân thải ra. Lượng phân từ nhóm ăn khẩu
phần L-H cao hơn khoảng 20% và 50% so với nhóm ăn khẩu phần H-L trong giai đoạn 1 và 2 vì
lượng xơ khẩu phần cao hơn. Phát hiện này được khẳng định thêm bởi kết quả của Sørensen và
cộng sự. (2003) và Vu và cộng sự. (2009), lượng chất xơ khẩu phần tương quan dương chặt chẽ
với lượng phân thải ra. Lợn ăn khẩu phần L-H có tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ thấp nhất (Bảng 2).
Các kết quả nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng tỷ lệ chất xơ cao trong khẩu phần sẽ làm giảm tỷ

lệ tiêu hóa ở lợn (Len, 2007)
Về đặc điểm của phân, phần trăm chất khô trong phân thấp nhất từ nhóm lợn ăn khẩu phần
L-H trong giai đoạn 1 do tỷ lệ chất xơ trong phân cao nhất, chất xơ trong phân cao có khả năng giữ
nước cao (Eastwood, 1973). Không có sự khác biệt về tỷ lệ chất khô phân ở giai đoạn 2.
Nồng độ nitơ phân cao nhất ở nhóm ăn khẩu phần H-L và thấp nhất ở nhóm L-H, kết
quả này củng cố cho khái niệm rằng nồng độ nitơ phân tương quan dương với tỷ lệ nitơ khẩu
phần nếu như tỷ lệ tiêu hóa nitơ không đổi. Nồng độ N-NH
4
, dễ dàng sẵn có cho việc hấp thu
của thực vật, không bị ảnh hưởng bởi khẩu phần. Độ pH của phân bằng nhau trong giai đoạn 1
và có khuynh hướng tăng ở phân của lợn ăn khẩu phần L-H trong giai đoạn 2. Điều này giống
với kết quả của Mroz và cộng sự (2000) và Shriver và cộng sự (2003), các tác giả đó báo cáo
không có sự thay đổi đáng kể về độ pH của phân khi tăng lượng xơ thô trong khẩu phần có tỷ lệ
protein thấp. Không có sự sai khác nồng độ phospho trong phân giữa các khẩu phần ở cả hai
giai đoạn nuôi sinh trưởng khi tỷ lệ phospho khẩu phần như nhau ở mỗi giai đoạn.
Các kết quả cho thấy dung tích hố chứa phân và sử dụng có thể được lập kế hoạch riêng
cho các phương thức nuôi dưỡng.
Lượng chất thải bài xuất
Bảng 3 cho thấy lượng N và N-NH
4
phân hàng ngày, trái ngược với lượng N và N-NH
4
trong nước tiểu, không bị ảnh hưởng bởi khẩu phần. Phát hiện này phù hợp với kết quả của Canh và
cộng sự. (1998), tác giả này cho rằng mối quan hệ mật thiết hơn giữa nitơ nước tiểu hàng ngày và
protein khẩu phần so với mối liên hệ giữa nitơ trong phân và lượng protein ăn vào.
Phương thức bài xuất nitơ nước tiểu, phương thức này được xác định bởi tỷ lệ nitơ nước
tiểu bài xuất với nitơ ăn vào, giảm khi nitơ phân tăng với lượng protein khẩu phần giảm và tăng
với lượng xơ khẩu phần (Bảng 3). Phương thức này cho thấy lợn ăn lượng protein vượt quá nhu
cầu hoặc ăn khẩu phần không cân đối các amino acid sẽ bài xuất nhiều nitơ hơn trong nước tiểu
(Just, 1982b). Hơn nữa, tăng lượng xơ khẩu phần sẽ chuyển nitơ bài xuất từ nước tiểu sang

phân, phương thức này đã được chỉ ra ở các nghiên cứu trước đây với các hình thức nuôi tốt hơn
so với điều kiện ở Việt nam (Zervas and Zijlstra, ; Vu và cộng sự, 2009).
Tổng lượng nitơ ăn vào và bài xuất cho mỗi kg tăng trọng không bị ảnh hưởng bởi khẩu
phần. Lượng bài xuất trong phân từ lợn ăn khẩu phần H-L là thấp nhất và từ khẩu phần L-H là
cao nhất. Ngược lại, không có khuynh hướng rõ ràng cho việc bài xuất nitơ nước tiểu, phương
thức dường như là đối lập, có nghĩa là nitơ thấp ở phẩu phần L-H và cao ở khẩu phần H-L. Kết
21
quả này cho thấy khẩu phần H-L có thể coi như có hại cho môi trường về khía cạnh lượng nitơ
mất đi, khi nitơ nước tiểu là tiền chất của NH
3
(Sommer et al. 2006), nhưng nó có mặt tốt là
khẩu phần cho tăng trọng tốt hơn.
Bảng 3 cho thấy phospho bài xuất chủ yếu ở phần chất rắn. Kết quả của thí nghiệm này
tương tự với các phát hiện từ các nghiên cứu trước đây (Fernández và cộng sự., 1999). Điều này
cho thấy sẽ có ít vấn đề về môi trường hơn với phospho phần lỏng nếu như cung cấp cho lợn
bằng với nhu cầu. Tổng lượng phospho bài xuất hàng ngày tăng khi tăng lượng phospho khẩu
phần trong khi đó tổng lượng phospho bài xuất tính theo phần trăm lượng phospho ăn vào trong
hai giai đoạn sinh trưởng không có sự sai khác giữa các khẩu phần. Lượng phospho trong phân
tăng lên một chút khi giảm protein và tăng lượng xơ khẩu phần, nhưng không ảnh hưởng gì đến
phospho nước tiểu. Điều này có thể do lượng xơ thô cao trong khẩu phần sẽ đẩy phospho vào
phân. Những dấu hiệu thay đổi về sinh hóa được quan sát thấy. Rất ít phospho nước tiểu được
bài xuất hàng ngày trong giai đoạn 1 và gần như không có phospho bài xuất trong nước tiểu ở
giai đoạn 2 (Bảng 3). Có thể giải thích rằng phospho khẩu phần chỉ vừa đáp ứng nhu cầu hoặc
thấp hơn chút ít nhu cầu sinh hóa (Fernández và cộng sự., 1999). Điều này có nghĩa, do lượng
phospho sẵn có trong khẩu phần thấp, lợn phải vận dụng lựa chọn khác để giữ ổn định nồng độ
phospho trong máu (Fernández, 1995). Một khả năng là thận sẽ tái hấp thu lượng phospho nhiều
hơn thay vì thải ra nước tiểu. Khả năng khác là huy động phospho dự trữ trong xương. Hơn nữa,
nếu như phospho trong khẩu phần thấp, hấp thu ở ruột sẽ tăng lên.
Kết quả này cho thấy rằng cung cấp phospho khẩu phần như đề xuất của NRC (1998) là
đủ và có thể giảm thêm trước khi xuất bán lợn ra thị trường, do đó giảm lượng phospho ăn vào

và giảm lượng bài xuất ra môi trường. Điều này phù hợp với kết luận của Kanakov và cộng sự
(2005). Tác giả đó cũng cho rằng giảm lượng phospho xuống đến 4.3 g/kg tổng lượng phospho
ở cuối thời kỳ nuôi giết thịt dường như có tác động đến khối lượng chất khô và khoáng chất của
xương. Do đó, thời điểm giảm lượng phospho khẩu phần và giảm bao nhiêu trước khi xuất hiện
bất kỳ sự phát triển không đầy đủ và/hoặc không có ảnh hưởng xấu đến tăng trọng hay chất
lượng thịt cần được nghiên cứu nhiều hơn.
Phân thải ra hàng ngày, nitơ bài xuất và lượng khí sinh ra
Lượng chất khô của phân thu được hàng ngày không có sự sai khác giữa lợn nuôi trong
chuồng và trong cũi mặc dù lượng phân tươi từ lợn nuôi trong cũi ít hơn lợn nuôi trong chuồng.
Điều này có thể do nước tiểu và nước rửa chuồng lẫn vào phân trong chuồng. Nước tiểu trộn lẫn
vào phân cũng dẫn đến lượng N và N-NH
4
phân từ lợn nuôi trong chuồng nhiều hơn so với lợn
nuôi trong cũi ở cả hai giai đoạn. Số liệu cho thấy gần như một nửa nitơ ở dạng rắn và hơn một
nửa nitơ, chủ yếu ở dạng N-NH
4
, ở phần phần chất thải lỏng. Ở Châu á, phần chất thải lỏng
thường được đổ ra ao hoặc vườn. Tuy nhiên, phần lớn chất thải lỏng không được sử dụng, được
đổ ra các nguồn nước và do đó gây ô nhiễm do lượng nitơ cao.
Tổng lượng nitơ bài xuất từ lợn nuôi trong chuồng thấp hơn từ lợn nuôi trong cũi do
một phần nitơ bay hơi. Lượng ammonia bay hơi tăng lên do phân trộn lẫn với nước tiểu và nước
rửa chuồng còn đọng lại. Urease chỉ có trong phân, không có trong nước tiểu (Aarnink &
Verstegen, 2007), do đó việc chuyển từ urea sang NH
4
+
chỉ khi nước tiểu trộn lẫn với phân. Giá
trị phần trăm thực tế của nitơ bay hơi trong quá trình nuôi nhốt từ lợn nuôi trong chuồng là
12.2% tổng lượng nitơ bài xuất. Thực tế có thể cao hơn bởi vì tổng lượng nitơ bài xuất từ lợn
nuôi trong cũi có thể được đánh giá không chính xác do một lượng nitơ bay hơi trong quá trình
thu phân trước khi cất trữ trong tủ lạnh sâu. Lượng khí ga nitơ bay hơi cao khi so sánh lượng

bay hơi ở trong những thí nghiệm trước đó, trong đó nền chuồng được cọ rửa hàng ngày
(Sommer và cộng sự., 2006), do hệ thống chuồng nuôi chỉ mở một phần trong thí nghiệm đó.
Đánh giá độ chính xác của phương trình xây dựng trên số liệu của Đan mạch
Bảng 5 cho thấy so sánh giữa kết quả của thí nghiệm với dự đoán đạt được bằng cách áp
dụng phương trình được xây dựng bởi Vu và cộng sự. (2009). Nhìn chung, kết quả kiểm tra cho
thấy các giá trị trung bình lượng nitơ bài xuất và lượng phân hàng ngày thực tế và ước đoán là
như nhau.
Giá trị bias (độ chính xác của dự đoán) âm cho thấy giá trị dự đoán được đánh giá quá
mức và ngược lại (Bảng 5). Khi tham số DMI (lượng chất khô ăn vào) có trong phương trình,
giá trị dự đoán trung bình được đánh giá cao hơn giá trị thực. Ngược lại, giá trị dự đoán trung
22
bình được đánh giá thấp khi tham số BW (khối lượng lợn) có trong phương trình. Điều này có
thể được giải thích bởi loại thức ăn khác nhau, giống và điều kiện nuôi dưỡng khác nhau giữa
Việt nam và Đan mạch. Giá trị sai số ước đoán từ phương trình với sự có mặt của tham số DMI
thấp hơn khi với tham số BW.
Giá trị ước đoán và giá trị quan sát được của lượng phân và nước tiểu thải ra, nitơ phân
bài xuất được trình bày trong các sơ đồ 1, 2 và 3. Các sơ đồ đó cho thấy kết quả kiểm tra giữa
giá trị trung bình thực tế và giá trị ước đoán gần tương tự như nhau.
Các kết quả kiểm tra tính chính xác cho thấy việc áp dung các phương trình đã chọn lọc
từ kết quả nghiên cứu trước đây để dự đoán lượng phân thải ra và lượng nitơ nước tiểu bài xuất
là chính xác.
KẾT LUẬN
• Xác định dung tích bể chứa phân phụ thuộc vào lượng nước rửa chuồng và tỷ lệ chất xơ
khẩu phần.
• Lượng nitơ nhiều hơn nhưng ít phospho hơn trong phần chất thải lỏng và ngược lại với
phần chất thải rắn.
• Nitơ dạng khí mất đi trong quá trình nuôi nhốt khoảng 12% tổng lượng nitơ thải ra.
• Các phương trình được xây dựng bởi Vu và cộng sự. (2009) có thể áp dụng tại Việt
Nam.
• Cần thêm các nghiên cứu tập trung vào hiệu quả sử dụng nitơ bài xuất trong phần chất

thải lỏng.
LỜI CẢM ƠN
Thí nghiệm này được tài trợ bởi dự án Danida SUSANE.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aarnink, A. J. A. and M. W. A. Verstegen. 2007. Nutrition, key factor to reduce
environmental load from pig production. Livest. Sci. 109: 194-203.
Small Livestock Component. 2003. Some results of a survey on feed resources for pig
and chickens in small farmers at the pilot communes of Thai Binh and Thanh Hoa provinces.
Ministry of agricultural and rural development - DANIDA, Small Livestock Component -ASPS,
Hanoi, Vietnam.
Association of Official Analytical Chemists. 1990. Official Methods of Analysis, 15th ed.
Arlington: Association of Official Analytical Chemists, Inc.
Canh, T. T., A. J. A. Aarnink, J.B. Schutte, A. Sutton, D. J. Langhout and M. W. A.
Verstegen. 1998. Dietary protein affects nitrogen excretion and ammonia emission from slurry
of growing-finishing pigs. Livest. Prod. Sci. 56: 181-191.
Eastwood, M. A. 1973. Vegetables Fibre: its physical properties. Proc. Nutr. Soc. 32:
137-143.
Esbersen, K. H. 2002. Multivariate Data Analysis - In Practice, 5th edition ed. Oslo:
CAMO Process AS.
Fernández, J. A. and J. N. Jørgensen. 1986. Digestibility and absorption of nutrients as
affected by fibre content in the diet of the pig. Quantitative aspects. Livest. Prod. Sci. 15: 53-75.
Fernández, J. A., H. D. Poulsen, S. Boisen and H. B. Rom. 1999. Nitrogen and
phosphorus consumption, utilisation and losses in pig production: Denmark. Livest. Prod. Sci.
58: 225-242.
Jørgensen, H. and J. E. Lindberg. 2006. Prediction of energy and protein digestibility in
pig feeds using growing rats as a model. Anim. Feed. Sci. Technol. 127: 55-71.
Jørgensen, H., X. Q. Zhao, and B. O. Eggum. 1996. The influence of dietary fibre and
environmental temperature on the development of the gastrointestinal tract, digestibility, degree
of fermentation in the hind-gut and energy metabolism in pigs. Br. J. Nutr. 75: 365-378.
23

Just, A. 1982. The net energy value of crude (catabolized) protein for growth in pigs.
Livest. Prod. Sci. 9:349-360.
Just, A., H. Jørgensen, J. A. Fernández, S. Bech-Andersen and N. E. Hansen. 1983a. The
chemical composition, digestibility, energy and protein value of different feedstuffs for pigs,
556.Report from the National Institute of Animal Science, Denmark ed. Copenhagen: National
Institute of Animal Science.
Just, A., J. A. Fernández and H. Jørgensen. 1983b. The net energy value of diets for
growth in pigs in relation to the fermentative processes in the digestive tract and the site of
absorption of the nutrients. Livest. Prod. Sci. 10: 171-186.
Kanakov, D. T., P. I. Petkov and K. T. Stojanchev. 2005. Influence of different
phosphorus diets on bone parameters of growing pigs. Vet. Arhiv. 75: 243-252.
Len, N. T., J. E. Lindberg, and B. Ogle. 2007. Digestibility and nitrogen retention of diets
containing different levels of fibre in local (Mong Cai), F1 (Mong Cai x Yorkshire) and exotic
(Landrace x Yorkshire) growing pigs in Vietnam. J. Anim. Physiol. a. Anim. Nutr. 91:297-303.
Minitab. 2000. Stastical Software version 13.3. User
'
s guide to statistics.: PA, USA.
Mroz, Z., A. J. Moeser, M. Vreman, J. T. M. van Diepen, T. van Kempen, T. T. Canh and
A. W. Jongbloed. 2000. Effects of dietary carbohydrates and buffering capacity on nutrient
digestibility and manure characteristics in finishing pigs. J. Anim. Sci. 78: 3096-3106.
National Research Council. 1998. Nutrient requirements of swine, Tenth revised edition
ed. Washington, D.C.: National Academy Press.
Portejoie, S., J. Y. Dourmad , J. Martinez and Y. Lebreton. 2004. Effect of lowering
dietary crude protein on nitrogen excretion, manure composition and ammonia emission from
fattening pigs. Livest. Prod. Sci. 91: 45-55.
Poulsen, H. D., P. Lund, J. Sehested, N. Hutchings and S. G. Sommer. 2006.
Quantification of nitrogen and phosphorus in manure in the Danish normative system. In 12
th
Ramiran International conference. Vol II. pp. 105-108.
Schroder, J. J., H. F. M. Aarts, H. F. M. ten Berge, H. van Keulen and J. J. Neeteson.

2003. An evaluation of whole-farm nitrogen balances and related indices for efficient nitrogen
use. Eur. J. Agron. 20: 33-44.
Serena, A., H. Jørgensen and K. E. Bach Knudsen. 2008. Digestion of carbohydrates and
utilization of energy in sows fed diets with contrasting levels and physicochemical properties of
dietary fiber. J. Anim. Sci. 86: 2208-2216.
Shriver, J. A., S. D. Carter, A. L. and B. Sutton. 2003. Effects of adding fiber sources to
reduced crude protein, amino acid-supplemented diets on nitrogen excretion, growth
performance, and carcass traits of finishing pigs. J. Anim. Sci. 81: 492-502.
Sommer, S. G., G. Q. Zhang, A. Bannink, D. Chadwick, T. Misselbrook, R. Harrison, N.J.
Hutchings, H. Menzi, G. J. Monteny, J. Q. Ni, O. Oenema, and J. Webb. 2006. Algorithms
determining ammonia emission from livestock houses and manure stores. Adv. Agron. 89: 261 - 335.
Sørensen, P. and J. A. Fernández. 2003. Dietary effects on the composition of pig slurry
and on the plant utilization of pig slurry nitrogen. J. Agr. Sci. 140: 343-355.
Vu, T. K. V., M. T. Tran and T. T. S. Dang. 2007. A survey of manure management on
pig farms in Northern Vietnam. Livest. Sci. 112: 288-297.
Vu, V. T. K. , T. Prapaspongsa, H. D. Poulsen and H. Jørgensen. 2009. Prediction of manure
nitrogen and carbon output from grower-finisher pigs. Anim. Feed. Sci. Technol. 151: 97-110.
Zervas, S. and R. T. Zijlstra. 2002. Effects of dietary protein and oathull fiber on nitrogen
excretion patterns and postprandial plasma urea profiles in grower pigs. J. Anim. Sci. 80: 3238-3246.
24
Figure 1. Plot the predicted values and observed values of daily fecal production (n=48), when
equation 5.7 from Table 5 has been used.
Figure 2. Plot the predicted values and observed values of daily fecal N excretion (n=48), when
equation 6.8 from Table 5 has been used.
Figure 3. Plot the predicted values and observed values of daily urinary N excretion (n=48),
when equation 7.9 from Table 5 has been used.
25

×