TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
……..……..
TIỂU LUẬN MÔN HỌC: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ:
HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
NHÓM THỰC HIỆN:
NHÓM THỰC HIỆN:
1. TRƯƠNG VĂN THỦY
GVHD:
2. TRƯƠNG THỊ THANH HIỀN
1.TRƯƠNG VĂN T
3. TRƯƠNG THỊ THU HIỀN
TS.HÀ XUÂN VẤN
4. TRẦN THỊ BIỂN
5.T RẦN THỊ HẰNG
6. NGUYỄN KIẾM HÙNG
7. NGUYỄN VĂN ĐÔNG
8. NGUYỄN THỊ THẢO
9. NGUYỄN THỊ DƯ
10.NGUYỄN HÒA
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong vòng hai, ba thập kỉ vừa qua, các nhà kinh tế, và các nhà hoạch định chính sách,
đã ngày càng chú ý nhiều hơn tới sự đóng góp của các ngành dịch vụ tới quá trình phát triển
kinh tế trên toàn thế giới.Tuy nhiên, giá trị của các ngành dịch vụ trong nền kinh tế vẫn chưa
được đánh giá đúng mức, khi hoạch định các chính sách như chính sách thuế, thương mại và
trợ cấp, ngành sản xuất vẫn thu hút được nhiều sự chú ý về mặt chính trị và nguồn lực hơn.
Tuy nhiên người ta ngày càng thừa nhận tầm quan trọng của các ngành dịch vụ, một
phần là do dịch vụ ngày càng liên kết chặt chẽ với hàng hóa để đảm bảo hàng hóa duy trì khả
năng cạnh tranh của mình. Mặc dù khác nhau về cơ cấu sản xuất và việc làm, các nền kinh tế
hiện đại, dù là phát triển hay đang phát triển đều có một đặc điểm chung là tỷ trọng của dịch
vụ ngày càng tăng, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngày càng được thừa nhận là một trong những điều
kiện tiên quyết cho quá trình phát triển. Chúng ta phải thừa nhận rằng dịch vụ đóng vai trò
quan trọng trong việc xác định chất lượng cũng như tăng trưởng kinh tế và không thể có một
nền kinh tế mang tính cạnh tranh nếu như ngành dịch vụ không hiệu quả và hiện đại về công
nghệ.
Trước đổi mới, chế độ sở hữu nhà nước đã ngăn cản sự xuất hiện của nhiều dịch vụ
đóng vai trò quan trọng cho sự vận hành của một nền kinh tế thị trường. Từ khi Việt Nam bắt
đầu cải cách định hướng thị trường theo chính sách đổi mới của mình, quá trình này đã dẫn
tới những sự phát triển, đặc biệt khi Việt Nam bắt đầu gia nhập WTO. Tuy nhiên sự phát triển
của dịch vụ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của nền kinh tế nước nhà và chưa
ghi dấu trong nền kinh tế khu vực và thế giới, bằng chứng là tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn
thấp (<50%).Vì vậy nhóm chúng tôi chọn đề tài “Hoạt động dịch vụ quốc tế của Việt Nam”
để nghiên cứu nhằm rút ra những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động dịch vụ quốc tế
trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển mạnh mẽ dịch vụ
quốc tế trong thời gian tới.
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ QUỐC
TẾ
1.1. Một vài khái niệm.
Khái niệm về dịch vụ
Dịch vụ là một trong những sản phẩm của xã hội nhằm đáp ứng một mảng nhu cầu to
lớn của con người trong cuộc sống, nó bao gồm toàn bộ các hỗ trợ mà khách hàng mong đợi
phù hợp với giá cả thị trường.
Theo từ điển kinh tế học nhà xuất bản thống kê năm 2000, dịch vụ là một hoạt động
kinh tế tạo ra sản phẩm vô hình (là sản phẩm hàng hóa dịch vụ đảm bảo hình tượng sản phẩm,
sự tín nhiệm của xí nghiệp sau bán hàng và thỏa mãn về tâm lý người mua) nào đó, đóng góp
trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc thỏa mãn nhu cầu con người như dịch vụ tư vấn, bảo hiểm...
Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông người,
có tổ chức và được trả công.
1.2. Nội dung hoạt động dịch vụ.
Hoạt động dịch vụ rất đa dạng và ngày càng được mở rộng, nhìn chung có thể phân
thành 5 nhóm ngành sau:
- Nhóm các sản phẩm có tính chất sản xuất hay liên quan đến quá trình sản xuất như:
dịch vụ vận chuyển hàng hóa, dịch vụ sửa chữa máy móc, thiết bị, dịch vụ thủy lợi, dịch vụ
kỹ thuật trong công nghiệp, xây dựng, lâm nghiệp,...
- Nhóm các dịch vụ liên quan tới việc tổ chức quá trình lưu thông sản phẩm. Theo nghĩa
rộng, có thể coi toàn bộ hoạt động thương mại là ngành kinh tế dịch vụ, trên thực tế, dịch vụ
thương nghiệp như đóng gói, bao bì, triển lãm, thông tin quảng cáo, hội chợ, bảo hành hàng
hóa,...
- Nhóm các dịch vụ liên quan tới việc phục vụ đời sống con người: dịch vụ giáo dục và
đào tạo, văn hóa và nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao, du lịch, giải trí, may mặc, ăn uống, cắt
tóc, giặt là,...
- Nhóm dịch vụ liên quan đến việc sử dụng chất xám như: dịch vụ tư vấn pháp lý, xử lý
thông tin, cung cấp phần mềm vi tính, ngoại ngữ,...
- Nhóm các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ xuất khẩu lao động, dịch vụ kiều hối, vận
chuyển quốc tế.
Ngoài ra còn các dịch vụ khác liên quan gián tiếp tới đời sống vật chất và văn hóa của
con người như dịch vụ bảo hiểm nhà nước, dịch vụ hành chính,...
1.3. Vai trò của dịch vụ đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, dịch vụ ngày càng trở thành động lực và nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế.
Trong tất cả các nền kinh tế hiện đại, dịch vụ là động lực của các hoạt động kinh tế và là
lĩnh vực đóng góp vào chất lượng đời sống cho tất cả người dân. Ví dụ, dịch vụ cơ sở hạ tầng
hỗ trợ tất cả các doanh nghiệp. Các dịch vụ giáo dục, y tế và giải trí ảnh hưởng tới chất lượng
lao động và dân số nói chung. Các dịch vụ kinh doanh và chuyên môn đóng vai trò quan
trọng để tăng năng suất của các doanh nghiệp. Các dịch vụ của Chính phủ ảnh hưởng tới môi
trường kinh doanh của các doanh nghiệp…
Thứ hai, Phát triển dịch vụ tạo điều kiện cho quá trình CNH-HĐH:
Tăng trưởng lĩnh vực dịch vụ thường gắn với sự phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết cho
công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Cơ sở hạ tầng này bao gồm đường cao tốc mới, được nâng
cấp, đường sắt, cảng biển và sân bay đóng vai trò mạch máu cho các hoạt động vận tải, mở
rộng mạng lưới viễn thông và internet, tăng số lượng các ngân hàng trong nước và nước
ngoài, và hai thị trường chứng khoán thu hút vốn cho sản xuất công nghiệp.
Phát triển dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng để Việt Nam thu hút vốn đầu tư nước ngoài
mới, không chỉ vào các ngành công nghiệp mà cả vào lĩnh vực dịch vụ, cung cấp vốn và công
nghệ cho quá trình CNH-HĐH…
Thứ ba, phát triển lĩnh vực dịch vụ tạo việc làm, giảm nghèo và thúc đẩy phát triển xã
hội.
Dịch vụ là lĩnh vực tạo nhiều việc làm. Do có thể thành lập nhiều doanh nghiệp dịch vụ
với số vốn rất thấp, các ngành dịch vụ tạo ra cơ hội tốt với nguồn lực tối thiểu để người lao
động có thể tự tạo việc làm mà vẫn đem lại hiệu quả kinh tế.
Chất lượng dịch vụ công cơ bản như giáo dục, y tế, điện, nước sạch đóng vai trò quan
trọng trong việc cải thiện đời sống người nghèo. Sự phát triển các dịch vụ y tế và giáo dục
không chỉ được coi là động lực của tăng trưởng bền vững mà còn là cơ hội để người nghèo
thoát khỏi bẫy đói nghèo.
Thứ tư, dịch vụ góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy
thương mại hàng hóa phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế.
Thật vậy, dịch vụ - thương mại chính là cầu nối giữa các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra”
trong quá trình sản xuất hàng hóa, tiêu thụ sản phẩm. Chính sự ra đời và phát triển của dịch
vụ vận tải như vận tải đường bộ, đường không, đường biển đã góp phần khắc phục được trở
ngại về địa lý, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, thúc đẩy nhu cầu mua bán, trao đổi hàng
hóa từ quốc gia này đến quốc gia khác, từ khu vực này đến khu vực địa lý khác...
Thứ năm, dịch vụ tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
Thông qua hoạt động dịch vụ - thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua
bán được sản phẩm, góp phần tạo ra quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và như vậy
các dịch vụ sẽ lưu thông, các dịch vụ được thông suốt.
1.4. Phân loại dịch vụ.
Hiện nay thì có nhiều cách phân loại khác nhau về lĩnh vực dịch vụ.
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO thì lĩnh vực dịch vụ bao gồm 12 nghành chính
sau(trong 12 nghành này thi phân thành 155 phân nghành nhỏ).
o
o
o
o
o
o
o
Dịch vụ kinh doanh
Dịch vụ liên lạc
Dịch vụ xây dựng và thi công
Dịch vụ vận tải
Dịch vụ môi trường
Dịch vụ phân phối
Dịch vụ giáo dục
Dịch vụ tài chính
Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và dịch vụ xã hội
Dịch vụ du lịch và lữ hành
Dịch vu giải trí văn hóa và thể thao
Dich vụ khác.
Còn theo cách nhìn nhận của nhóm thì ở Việt Nam chủ yếu phát triển các nghành dịch vụ sau:
Dịch vụ du lịch.
dịch vụ vận tải.
dịch vụ xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ
dịch vụ viễn thông.
Dịch vụ công.
Dịch vụ ngân hàng.
Dịch vụ chứng khoán và các hình thức thu ngoại tệ khác.
1.5. Xu hướng phát triển khu vực dịch vụ trên thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu các
ngành ở Việt Nam.
- Về xu hướng phát triển:
Trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức hiện nay, ngành dịch vụ có vai trò ngày
càng quan trọng đối với nền kinh tế thế giới và các nền kinh tế quốc gia. Sau đây là những xu
hướng phát triển của ngành dịch vụ trên thế giới trong những năm gần đây và sự chuyển dịch
cơ cấu ngành dịch vụ của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và cải cách.
Thứ nhất, phát triển nhanh về qui mô, chủng loại, chất lượng,dịch vụ trở thành ngành
kinh tế thu hút chủ yếu lực lượng lao động hiện nay:
- Nền kinh tế dịch vụ hiện nay dựa trên hai nền tảng chính là toàn cầu hóa và kinh tế tri thức
và được thúc đẩy bởi những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Toàn cầu hóa và kinh tế tri thức làm thay đổi thói quen sinh hoạt và tiêu dùng trong đời
sống kinh tế-xã hội, xu hướng kinh doanh và chính sách của chính phủ đối với ngành kinh tế
dịch vụ.
- Xu hướng kinh doanh cũng thay đổi để đáp ứng các nhu cầu nói trên. Các công ty ngày nay
tập trung nhiều hơn vào việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao như
phần mềm máy tính, vẽ kiểu dáng, phát minh máy móc tự động và chăm sóc phần tâm hồn
của con người.
- Phát triển và tự do hóa ngành dịch vụ nói chung, phát triển và tự do hóa thương mại dịch vụ
nói riêng đang trở thành chính sách ưu tiên của các nước.
- Những nền kinh tế dịch vụ truyền thống trước đây hình thành dựa trên một số lợi thế tự
nhiên về tài nguyên thiên nhiên nhất định như cảng biển để phát triển giao thông vận tải, thiên
nhiên tươi đẹp để phát triển du lịch kết hợp với mua sắm hay lợi thế về nhiều tiền vốn để trở
thành trung tâm tài chính, thì ngày nay nó trỏ thành kinh tế dịch vụ hiện đại với nhiều điểm
tương đồng với kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp dịch vụ có tính chất tự phát,chủ yếu hoạt động tự phục vụ,
trong phạm vi gia đình; dịch vụ hỗ trợ sản xuất còn ít. Trong nền kinh tế hàng hóa theo cơ
chế thị trường, dịch vụ là một ngành phát triển trên các mặt nhằm cung cấp cho sản xuất
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế của
các nước trên thế giới thường biến đổi qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: nông nghiệp-công nghiệp-dịch vụ
Giai đoạn 2: công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ
Giai đoạn 3: công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp
Giai đoạn 4: dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp
Tuy nhiên, trình tự trên không nhất thiết quốc gia nào cũng phải trải qua, thực tế đã có quốc
gia đã 1 hoặc 2 giai đoạn và họ đã thành công như: Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan....
Thứ hai, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm vị trí dẫn đầu CNTT thúc
đẩy toàn bộ ngành dịch vụ phát triển còn tài chính - ngân hàng và dịch vụ kinh doanh là
những ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.
Ngành dịch vụ tri thức phát triển dựa vào khoa học kỹ thuật mà hạt nhân là CNTT. Trong
ngành dịch vụ tri thức thì chi phí cho các yếu tố nguyên vật liệu đầu vào gần như không đáng
kể. Hàm lượng công nghệ và tri thức ngày càng cao hơn trong các sản phẩm dịch vụ giúp cho
nhiều loại dịch vụ, kể cả những dịch vụ truyền thống, được cung cấp và tiêu dùng hiệu quả
hơn rất nhiều Tiến bộ KH-KT ngày nay cho phép các nhà cung cấp dịch vụ chỉ cần tạo ra một
sản phẩm duy nhất nhưng lại có khả năng tiêu dùng hàng loạt.
Thứ ba, dịch vụ khai thác thị trường và xúc tiến tiêu thụ sản phẩm phát triển nhanh
và rất đa dạng. Các dịch vụ tiếp thị, chào hàng, quảng cáo, vận tải, bảo hành sản phẩm,...có xu
hướng phát triển nhanh.
Dịch vụ phục vụ đời sống tinh thần ngày càng mở rộng và đa dạng ví dụ như chăm sóc sức
khỏe, sắc đẹp...
Thứ tư, sản phẩm dịch vụ ngày càng có tính chất của sản phẩm hàng hóa.
Theo quan niệm truyền thống, dịch vụ là những hoạt động có tính xã hội, tạo ra các sản phẩm
phi vật thể. Vì thế, khác với các sản phẩm hàng hoá hữu hình, dịch vụ thường không thể lưu
trữ được, không thể vận chuyển được mà chỉ có thể sử dụng ở nơi sản xuất. Ngày nay, các sản
phẩm dịch vụ như phần mềm máy tính được sản xuất, đóng gói và bán hàng loạt trên thị
trường như hàng hoá thông thường.
Thứ năm, FDI vào ngành dịch vụ tăng nhanh và vượt quá FDI vào ngành chế tạo.
Xu hướng FDI vào ngành dịch vụ tăng nhanh xuất hiện từ những năm 1990 do các
nhà cung cấp dịch vụ tăng cường thiết lập sự “hiện diện thương mại” tại các thị trường nước
ngoài. Hiện diện thương mại là phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện của các
nhà cung cấp của một nước ở trong lãnh thổ của nước khác và điều này thường đòi hỏi phải
đầu tư vào một hoạt động dịch vụ nào đó. Theo một báo cáo của OECD (2000), FDI vào
ngành dịch vụ ở các nước OECD tập trung vào các ngành như bán lẻ, ngân hàng, dịch vụ kinh
doanh, viễn thông, khách sạn và nhà hàng là những ngành cần có sự hiện thương mại để tiến
hành hoạt động kinh doanh. Song FDI vào các lĩnh vực như giáo dục, y tế, các dịch vụ cá
nhân và xã hội còn hạn chế.
Các yếu tố thúc đẩy FDI vào lĩnh vực dịch vụ gồm có:
- Một số sản phẩm dịch vụ vẫn khó thể lưu trữ và vận chuyển nên cần có sự hiện diện thương
mại ở nước ngoài, chưa kể nhiều dịch vụ cần có sự tiếp xúc giữa người với người.
- Sự khác biệt về văn hóa hạn chế nhu cầu đối với các sản phẩm dịch vụ nhập khẩu.
Mặc dù có nhiều lĩnh vực dịch vụ được mở cửa cho đầu tư nước ngoài song vẫn còn tồn tại
một số rào cản đối với thương mại và đầu tư vào một số ngành dịch vụ (như yêu cầu phải
thành lập cơ sở cung cấp dịch vụ trong nước).
- Xu thế của các công ty cung ứng dịch vụ mở rộng đầu tư nước ngoài nhằm tăng doanh số
khi thị trường nội địa bão hòa, đặc biệt là xu thế tăng cường đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ của
các công ty xuyên quốc gia (TNCs) thông qua tham gia vào các dự án liên doanh, thỏa thuận
hợp tác và liên minh, mua lại và sáp nhập với các đối tác nước ngoài.
- Về chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ.
Thứ nhất, sự thay đổi tỷ trọng của khối dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế:
Nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời: thông tin liên lạc, chuyển giao công nghệ...tỷ trọng ngành
dịch vụ trong cơ cấu sản phẩm thay đổi.
Thứ hai, tương quan thay đổi các nhóm ngành trong khối dịch vụ:
Các nhóm dịch vụ thương nghiệp,ô tô, xe máy, đồ dùng gia đình, tài chính tiền tệ giảm xuống.
các nhóm dịch vụ điện thoại di động, internet, điện thoại cố định, khoa học công nghệ tăng
nhanh.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát chung về sự phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã có
một sự chuyển mình đáng kể. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế hoạch hóa sang nền kinh tế thị
trường đã làm thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ trong nền kinh tế. Cùng với
những thành tựu về phát triển kinh tế nói chung thì khu vực dịch vụ đã có những bước tăng
trưởng vượt bậc trong vòng hơn 25 năm qua.
Từ năm 1986- 1988 chúng ta vẫn đang trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế xã hội và
dành ưu tiên cho phát triển nông nghiệp để đảm bảo cho an ninh lương thực nên dịch vụ tăng
trưởng tương đối thấp.
Từ năm 1988- 1990 khi chính sách kinh tế thị trường trở nên hiệu quả hơn và vấn đề
đe dọa về an ninh lương thực đã giải tỏa khi năm 1989 chúng ta thừa lương thực thì dịch vụ
đã bắt đầu khởi sắc.
Năm 1991 đóng góp của dịch vụ giảm mạnh do toàn bộ xã hội gặp phải cú sốc từ sự
sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu.
Trong những năm 1991- 1995 khi nền kinh tế thoát dần khủng hoảng, đẩy mạnh quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và tiến hành quá trình CNH,HĐH, đã tạo ra nhu
cầu nhiều hơn đối với dịch vụ.
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO thì hoạt động dịch vụ đã có những bước phát triển
đáng kể trong một số ngành cơ bản.
Mặc dù kể từ năm 1996 lĩnh vực dịch vụ đã phát triển đáng kể, tỷ trọng trong GDP đã
giảm do lĩnh vực sản xuất và khai khoáng phát triển mạnh mẽ và do các nguồn lực hạn chế
được ưu tiên cho quá trình CNH-HĐH, thay vì phát triển dịch vụ (chủ trương của nước ta
trong thời kì này là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng). Nhưng nhìn chung kể từ sau đại hội
VI nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động dịch vụ phát triển, nhờ vậy khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản
xuất, tiêu dùng và đời sống dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế,... Nhưng lĩnh
vực dịch vụ vẫn chưa phát triển hết tiềm năng.
2.2. Thực trạng phát triển hoạt động dịch vụ quốc tế ở Việt Nam.
2.2.1. Thực trạng phát triển hoạt động dịch vụ quốc tế ở Việt Nam trước năm 1986.
Trước năm 1986 ,trong nền kinh tế hoạch hóa tập trung, khu vực dịch vụ chỉ được giới
hạn trong một phạm vi rất hẹp và không được chú trọng tạo điều kiện phát triển. Nhà nước
chú trọng phát triển công nghiệp và nông nghiệp, ngành dịch vụ chưa được quan tâm đúng
mức.
Sau thống nhất đất nước, dịch vụ chỉ được xem như những ngành “ phi sản xuất” và không
tạo thêm của cải cho xã hội. Các loại dịch vụ rất nghèo nàn, hầu như chỉ bao gồm các hình
thức gắn trực tiếp với sản xuất như vận tải và thương nghiệp. Khuôn khổ pháp lí cho các hoạt
động dịch vụ còn thiếu, hoặc còn chưa thích hợp với một nền kinh tế thị trường, tốc độ phát
triển chậm, từ 1976- 1986 trung bình hàng năm phục vụ khoảng 5300 du khách các nước xã
hội chủ nghĩa và 400 du khách nước tư bản chủ nghĩa. Số ngoại tệ thu được xấp xỉ 4% so với
tổng kim ngạch xuất khẩu trong thời kỳ 1976- 1995.
2.2.2. Thực trạng phát triển hoạt động dịch vụ quốc tế của Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
* Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ tăng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1995,
đạt 8,6%, nhưng sang giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng chậm lại, chỉ đạt 5,7% và đang có xu
hướng hồi phục trong những năm gần đây (năm 2001 đạt 6,1% năm 2002 đạt 6,54% năm
2003 đạt 6,57% và năm 2010 đạt 7.5% năm 2011 đạt 6.4%).
Bảng 2.1: Tỷ trọng đóng góp vào GDP theo cơ cấu ngành kinh tế 2007-2011
(Đơn vị:%)
Tổng số
Năm
2007
2008
2009
2010
2011
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Cơ cấu ngành kinh tế
Nông, lâm
Công nghiệp
nghiệp và thủy
xây dựng
sản
20,3
41,6
22,0
39,8
21,8
39,8
20,6
41,1
22,02
40,79
Dịch vụ
38,1
38,2
39,4
38,3
37,19
(Nguồn: Số liệu thống kê KT-XH Việt Nam giai đoạn 2007-2011)
Biểu đồ 2.1. Tốc độ tăng trưởng của GDP Việt Nam từ 1990 đến 2010
(ĐVT: %)
Qua biểu đồ 2.1 ta có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng của dịch vụ có nhiều biến động
đặt biệt là giai đoạn 1995-1996 thì dịch vụ Việt Nam đã có những khởi sắc nhất định, nguyên
nhân của sự tăng trưởng trên là do chúng ta đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gỡ bỏ được
sự bao vây cấm vận và lần lượt tham gia vào các tổ chức kinh tế xã hội trong khu vực và thế
giới. Giai đoạn 3 năm từ 1997-1999 giảm sút mạnh. Nguyên nhân của sự giảm sút trên là do
khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở
Thái Lan ảnh hưởng đến giá cả, tiền tệ và một số tài sản khác…Ngoài ra trong bản thân nước
ta vào thời điểm năm 1999 đã chịu thiệt hại nặng nề từ thiên tai mà điển hình đây là bão lụt.
Giai đoạn 2008-2009 dịch vụ Việt Nam có chiều hướng đi xuống thấp hơn so với thời kì
trước đó là do ảnh hưởng chung từ khủng hoảng tài chính tiền tệ xuất phát từ Mỹ.
* Tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP:
Tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP đã dần khẳng định được vị trí của khu vực
này trong nền kinh tế. Từ năm 1992 đến năm 1995 , tỷ trọng dịch vụ trong GDP đã tăng từ
38,6% lên 44,1% . Mặc dù có vị trí quan trọng trong GDP song tỷ lệ tăng của dịch vụ trong
những năm gần đây từ (1996- 2004) liên tục thấp hơn tỷ lệ GDP, khiến cho tỷ trọng của khu
vực dịch vụ trong GDP đang có chiều hướng giảm sút. Đến năm 2005, tỷ trọng dịch vụ trong
GDP chỉ còn 38,5%, nhưng đến năm 2010 đã tăng lên được 42%. Như vậy, tốc độ tăng của
dịch vụ chưa theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Bảng 2.2: So sánh tốc độ tăng trưởng dịch vụ và GDP của Việt Nam.
(Đơn vị: %)
Năm
1996
2000
2005
2010
2011
Tốc độ tăng trưởng GDP
9,3
6,8
8,4
6,78
5,89
Tốc độ tăng dịch vụ
8,1
5,3
7,6
7,52
6,4
(Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm 1996, 2000, 2005, 2010, 2011)
Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng dịch vụ của Việt Nam trong GDP so với một số nước trên thế giới
năm 2007
* Về tỷ trọng GDP của các nhóm ngành dịch vụ:
- Về tỷ trọng các nhóm dịch vụ trong GDP
Biểu đồ 2.3: Tỉ trọng các nhóm dịch vụ trong GDP
(ĐVT:%)
Qua việc phân tích các biểu đồ trên ta thấy, lĩnh vực dịch vụ, tuy đã có bước phát triển
nhảy vọt cả về chất và lượng, nhất là từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Tuy nhiên, tốc
độ tăng trưởng của lĩnh vực này lại không đều qua các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi bật qua
việc tăng nhanh của ngành dịch vụ trong thời kỳ 1990 - 1995, sau đó liên tục bị giảm sút và
chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây. Điều đáng lo ngại là tỷ trọng của
một số ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và trong cơ cấu GDP còn
thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, vận tải, viễn thông, dịch vụ kinh
doanh. Và, mặc dù đã xuất hiện một số ngành dịch vụ mới trong lĩnh vực dịch vụ, nhưng nhìn
chung tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta vẫn còn thấp so với
các nước trong khu vực, biểu hiện một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa hiệu quả và theo
hướng hiện đại.
- Tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động trong các nhóm ngành.
Hiện nay, lực lượng lao động nước ta trên 40 triệu người trong đó ở thành thị chưa có việc
làm 5,3%, thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt: 80,6%.
Sự phát triển của khu vực dịch vụ ngày càng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu dịch vụ trong xã hội
nên ngành dịch vụ có thể tạo ra nhiều việc làm. Bình quân 5 năm 1996-2000 mỗi năm tạo ra
1,1 triệu việc làm, 2001-2005: 1,5 triệu việc làm. Đến năm 2010,khu vực dịch vụ đã tạo ra
32,8% chỗ việc làm của nền kinh tế. Ngày nay, sự phát triển các ngành dịch vụ đòi hỏi nguồn
nhân lực có trình độ cao ngày càng tăng như bác sĩ, luật sư, tuy nhiên vẫn còn có dịch vụ trình
độ vừa: thợ may, nghề thủ công, cắt tóc,giúp việc nhà…
Cơ cấu lao động trong các nhóm ngành có sự thay đổi khá rõ rệt, lao động trong ngành dịch
vụ đang tăng dần. Nếu năm 2000 tổng số lao động trong ngành dịch vụ là 19% thì năm 2005
là 24,7% tăng 5,7% so với năm 2000, đến năm 2010 đạt 29,4% trong 5 năm nhìn lại từ năm
2005- 2010 số lao động tăng 4,3% nhưng với tốc độ tăng như trên thì lượng việc làm mà dịch
vụ tạo ra vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế hàng năm.
Bảng2.3: Cơ cấu lao động trong các nhóm nghành
(ĐVT %)
Năm
1995
2000
2005
2010
Nghành
Nông lâm ngư nghiệp
71,2
68,2
57,1
48,2
Công nghiệp xây dựng
11,4
12,1
18,2
22,4
Dịch vụ
17,4
19,7
24,7
29,4
(Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê qua các năm 1995, 2000, 2005, 2010)
- Thu hút đầu tư nước ngoài.
Phát triển dịch vụ đã trở thành yếu tố quan trọng để Việt Nam thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, không chỉ vào các ngành công nghiệp mà cả vào lĩnh vực dịch vụ, cung cấp vốn và
công nghệ cho quá trình CNH-HĐH. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong toàn bộ nền kinh
tế đã tăng từ 6,8 tỷ đô la năm 2005 lên 12 tỷ đô la năm 2006, 21,3 tỷ năm đôla năm 2007, 71
tỷ đô la năm 2008 và 8,78 tỷ đô la trong nửa đầu năm 2009. Tới năm 2008, tổng vốn FDI
đăng ký vào lĩnh vực dịch vụ đã đạt 62 tỷ đô la hay 39 phần trăm tổng vốn FDI đăng ký.
Luồng vốn FDI hiện nay đang đổ nhiều vào lĩnh vực nhà hàng và khách sạn, bất động sản và
các hoạt động kinh doanh do tốc độ phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực này, tiếp theo là
vào lĩnh vực phân phối và vận tải. Tuy nhiên, về dài hạn, luồng vốn FDI vào các dịch vụ như
trung gian tài chính, y tế và giáo dục dự đoán sẽ tăng vì các lĩnh vực này sẽ được mở cửa cho
cạnh tranh.
Bảng 2.4: FDI trong lĩnh vực dịch vụ giai đoạn 1988- 2007
(ĐVT: Triệu USD)
Số dự án
Vốn đăng ký (triệu đô la)
Tổng
Tỷ trọng Tổng
Trong đó: vốn điều lệ
Tổng
Trong đó
Phía nướcPhía Việt
Tổng
Thương, mại sửa chữa
9810
108
100,00
1,10
99596,2
641,9
ngoài
Nam
43129
36412,7
6715,3
292,2
192,9
99,3
ô tô, xe máy
Khách sạn và nhà hàng
Vận tải, kho bãi và
291
272
2,97
2,77
7620,6
5072,3
3144,9
3788,4
2474
2918,7
670,9
869,7
truyền thống
Trung gian tài chính
Bất động sản cho thuê,
65
1341
0,66
13,67
862,7
14191,8
791,1
5252,3
730,6
4391,9
60,5
860,4
101
54
112
66
1,03
0,55
1,14
0,67
146,8
591,4
1683,5
38,7
72,7
224,8
769,4
27,2
60,3
188,5
603,1
23,1
12,4
36,3
166,3
4,1
các loại hoạt động kinh
doanh
Giáo dục và đào tạo
Dịch vụ y tế xã hội
Văn hóa và thể thao
Các hoạt động cộng
đồng xã hội và cá nhân
(Nguồn: Tổng hợp số liệu kinh tế xã hội giai đoan 1988-2007)
Ta thấy rằng nguồn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các nghành như bất động
sản, ngân hàng, khách sạn đây là những ngành tạo ra lợi nhuận lớn và mới, trong khi đó
những nghành như giáo dục, dịch vụ xã hội…thì mức độ đầu tư rất thấp, có lẽ đây là những
lĩnh vực thu hồi vốn chậm, khả năng sinh lời ít hoặc do chính sách thu hút của nước ta chưa
thật sự hấp dẫn các đối tác nước ngoài.
- Bên cạnh đó ngành dịch vụ còn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong khi xuất khẩu hàng hoá đã đạt được nhiều sự vượt trội và trở thành động lực tăng
trưởng của kinh tế nước ta thì xuất khẩu dịch vụ mặc dù cũng đã được đẩy mạnh trong mấy
năm nay, nhưng vẫn còn hạn chế, bất cập cần khắc phục.
Xuất khẩu dịch vụ của nước ta (du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính…) thời gian
gần đây đã đạt được một số kết quả đáng chú ý.
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam đã tăng gần như liên tục qua các năm, chỉ bị ngắt
quãng vào năm 2009, hoạt động xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam giảm 1240 triệu đô la tương
ứng với 18% so với năm 2008, nguyên nhân của sự sụt giảm này chủ yếu do tác động tiêu cực
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ngoài ra con do sự giảm của du lịch. Trong năm
2009 mặc dù hàng chục ngàn vận động viên các nước tham dự Giải Thể thao châu Á trong
nhà lần thứ 3 (Asian Indoor Games III) diễn ra vào đầu tháng 11-2009 Liên hoan du lịch Mê
Kông- Nhật Bản; Lễ hội bắn pháo hoa tại Ðà Nẵng; Liên hoan quốc tế cồng chiêng Tây
Nguyên, Festival diều quốc tế tại Vũng Tàu, Tổ chức thành công Diễn đàn Du lịch ASEAN -
ATF 2009 và Hội chợ Du lịch ATF 2009… tuy nhiên lượng khách quốc tế đến Việt Nam lại
tụt dốc liên tục, theo một số đánh giá về hiện tượng này cho rằng đó là sự xuống dốc về cơ sỡ
hạ tầng ở một số điểm đến, thêm vào đó là hiện tượng chèo kéo ăn xin và chậm đổi mới trong
việc phát triển hình ảnh du lịch..
Kết quả 5 năm 2001 - 2005 kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt 21,824 tỷ USD, tăng trưởng
15,7% năm, cao hơn chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược của giai đoạn này (15%), chiếm tỷ trọng
10,8% GDP của 5 năm đó,(năm 2006 tăng 19,6%, năm 2007 tăng 26,7%, năm 2008 tăng
8,5%, năm 2009 giảm 17,7%, ước tính năm 2010 tăng 29,4%) bình quân trong thời kỳ 20062010 đạt 11,83%, cao hơn gấp rưỡi tốc độ tăng GDP do nhóm ngành dịch vụ tạo ra (7,73%).
Bảng 2.5: Xuất nhập khẩu ngành dịch vụ
(Đơn vị: triệu USD)
2006
Năm
Xuất khẩu
5100
Dịch vụ vận tải
1540
Dịch vụ bưu chính viễn
2007
2008
2009
2010
6460
1879
7006
2356
5766
2062
7460
2306
thông
Dịch vụ du lịch
Dịch vụ tài chính
Dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ Chính phủ
Dịch vụ khác
120
2850
270
50
40
230
110
3750
332
65
45
279
80
3930
230
60
50
300
124
3050
175
65
100
190
137
4450
192
70
105
200
Nhập khẩu
5122
Dịch vụ vận tải
2580
Dịch vụ bưu chính viễn
7177
4079
7956
4974
8187
5508
9921
6596
thông
Dịch vụ du lịch
Dịch vụ tài chính
Dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ Chính phủ
47
1220
300
461
40
54
1300
230
473
75
59
1100
153
406
141
79
1470
195
481
150
30
1050
270
302
40
Dịch vụ khác
850
1030
850
820
950
(Nguồn: Niên giám thống kê 2010)
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ và cán cân xuất nhập khẩu dịch
vụ.
Về tốc độ tăng trưởng, giai đoạn 1996-1998 xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ đều có tốc độ
tăng trưởng mạnh, trong đó nhập khẩu dịch vụ tăng nhanh hơn xuất khẩu dịch vụ khoảng 3
lần. Đáng lưu ý là năm 1997, tốc độ tăng trưởng cao nhất với 12,5% đối với xuất khẩu 36,6%
với nhập khẩu. Các con số này giảm dần ở năm 1998 và sang năm 1999 mức tăng trưởng xuất
khẩu và nhập khẩu đều âm. Sự suy giảm này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ châu Á năm 1997. Tuy nhiên cả xuất khẩu và nhập khẩu đều đã phục hồi từ năm 2000
giảm nhẹ năm 2001 và tăng vọt những năm tiếp theo.
Bảng 2.6: Tốc độ tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu dịch vụ và cán cân xuất nhập khẩu
dịch vụ.
Xuất khẩu DV
Năm
1995
1997
1999
2001
2005
2006
Kim ngạch
2074
2530
2493
2810
4264
5100
Tốc độ tăng
12,5%
-4,3%
4,3%
19,6%
Nhập khẩu DV
Kim ngạch
1915
3153
3040
3382
4479
5120
Cán cân
XNK DV
Tốc độ tăng
36,6%
-10,9%
2,2%
14,3%
159
-61
-547
-572
-215
-20
(Nguồn: Tổng hợp Niên giám thống kê qua các năm 1999, 2005, 2006)
* Về hiệu quả đầu tư trong khu vực dịch vụ:
Bảng 2.7: Hiệu quả đầu tư trong khu vực dịch vụ
Năm
GDP dịch
Vốn đầu tư
vụ (tỉ đồng) dịch vụ (tỉ
đồng)
Vốn đầu
tư/GDP
(%)
1995
2000
2005
2006
100.853
171.070
319.003
370.771
37,83
41,47
53,68
54,94
38.148
70.944
171.252
203.690
Tốc độ tăng Chỉ số hiệu
GDP dịch
quả đầu tư
vụ
–
ICOR (lần)
9,83
3,8
5,32
7,8
8,48
6,3
8,29
6,6
2007
2008
436.146
564.056
260.893
323.647
59,82
57,38
8,68
7,18
6,9
7,99
(Nguồn : Tính toán từ Tổng cục Thống kê 2004, NXB Thống kê, Hà Nội)
Qua bảng trên ta thấy, hiệu quả đầu tư của khu vực dịch vụ ở mức thấp. Chỉ số hiệu
quả đầu tư của ngành dịch vụ (ICOR), được tính bằng cách chia tỉ lệ vốn đầu tư so với GDP
cho tốc độ tăng GDP, cao hơn của toàn nền kinh tế (năm 2000 là 5,0 lần, năm 2005 là 4,9 lần,
năm 2005 là 5,0 lần, năm 2007 là 5,4 lần, năm 2007 là 6,9 lần, năm 2008 lên đến 7,99 lần).
2.3. Thành tựu và hạn chế của một số ngành dịch vụ quốc tế cụ thể của Việt Nam.
2.3.1. Du lịch quốc tế
o Thành tựu
Du lịch quốc tế là nhu cầu khách quan, vốn có của con người, kinh tế càng phát triển,
năng xuất lao động càng cao thì du lịch, nhất là du lịch quốc tế càng phát triển, càng tăng vì
thu nhập con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi cũng nhiều lên. Đây là một ngành kinh doanh
tổng hợp bao gồm các hoạt tổ chức, hướng dẫn khách du lịch, sản xuất,… của du khách.
Sự nỗ lực của Việt Nam về du lịch trong những năm qua đã được thế giới ghi nhận:
- Khách du lịch của quốc tế vào việt Nam tăng liên tục năm 2000 có 2,140 triệu lượt
năm 2004 là 2,927 triệu lượt khách năm 2005 là 3,47 triệu lượt khách, 2008 là 4,253 triệu
lượt và năm 2011 là 6 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 30 triệu lượt khách nội địa, thu thập
từ du lịch đạt 130 ngàn tỉ đồng .
Tính đến tháng 8/2010, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh trong đó có hơn 3000 di
tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số
lượng di tích nhiều nhất ở 11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ chiếm khoảng 70% di
tích của Việt Nam. Tới năm 2011, có 7 di sản được UNESCO công nhận là Di sản thế giới tại
Việt Nam bao gồm: Thành nhà Hồ, Hoàng thành Thăng Long, Quần thể di tích Cố đô
Huế, Vịnh Hạ Long, Phố Cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, và Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng.
- Tính đến hết năm 2010 Việt Nam được UNESCO công nhận 8 khu dự trữ sinh quyển
thế giới đó là Châu thổ sông Hồng, Cát Bà, Tây Nghệ An, Đồng Nai, Cù lao Chàm, Cần Giờ,
Cà Mau và biển Kiên Giang
Hiện nay Việt Nam có 30 vườn quốc gia gồm Ba Bể, Bái Tử Long, Hoàng Liên, Tam
Đảo, Xuân Sơn, Ba Vì, Cát Bà, Cúc Phương, Xuân Thủy, Bạch Mã, Bến En, Phong Nha-Kẻ
Bàng, Pù Mát, Vũ Quang, Bidoup Núi Bà, Chư Mom Ray, Chư Yang Sin, Kon Ka Kinh, Yok
Đôn, Côn Đảo, Lò Gò-Xa Mát, Mũi Cà Mau, Núi Chúa, Phú Quốc, Phước Bình,Tràm
Chim, U Minh Hạ, U Minh Thượng.
- Việt Nam có 400 nguồn nước nóng từ 40-150 độ. Nhiều suối có hạ tầng xây dựng khá
tốt như: Suối nước nóng thiên nhiên Đam Rông, Lâm Đồng; suối nước nóng Kim Bôi Hòa
Bình, suối nước nóng Bình Châu Bà Rịa-Vũng Tàu, suối nước nóng Kênh Gà, Ninh Bình,
suối nước nóng Quang Hanh Quảng Ninh.
- Việt Nam đứng thứ 27 trong số 156 quốc gia có biển trên thế giới với 125 bãi tắm
biển, hầu hết là các bãi tắm đẹp. Việt Nam là 1/12 quốc gia có vịnh đẹp nhất thế giới là vịnh
Hạ Long và vịnh Nha Trang.
- Việt Nam có 117 bảo tàng trong đó các bộ, ngành quản lý 38, các địa phương quản lý
79. Hai bảo tàng lịch sử mang tính quốc gia là Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và Bảo tàng
lịch sử Việt Nam hiện đang đề xuất thêm Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
- Các dự án đầu tư vào bất động sản du lịch dọc theo bờ biển hơn 3.000 km và tại và
các thành phố lớn đang gia tăng nhanh chóng. Dịch vụ du lịch ngày càng đa dạng. Công ty lữ
hành địa phương và quốc tế cung cấp các tour du lịch tham quan các bản làng dân tộc thiểu
số, đi bộ và tour du lịch xe đạp, và du lịch ra nước ngoài cho du khách Việt Nam, đặc biệt là
gắn kết với các quốc gia láng giềng Campuchia, Lào và Thái Lan. Ngoài ra, nhờ vào việc nới
lỏng các quy định về đi lại, xuất cảnh, khách du lịch nước ngoài đã có thể đi lại tự do trong
nước từ năm 1997.
- Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ. Hơn
một phần ba của tổng sản phẩm trong nước được tạo ra bởi các dịch vụ, trong đó bao gồm
khách sạn và phục vụ công nghiệp và giao thông vận tải.
- Trong khi đó, du lịch đóng góp 4,5% trong tổng sản phẩm quốc nội (thời điểm 2007).
Ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào ngành du lịch. Sau các ngành
công nghiệp nặng và phát triển đô thị, đầu tư nước ngoài hầu hết đã được tập trung vào du
lịch, đặc biệt là trong các dự án khách sạn.
- Trong tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Năm 2005 đạt 2,3 tỷ USD, chiếm 53,93%; năm 2009 đạt 3,05 tỷ USD, chiếm 52,9%, ước tính
năm 2010 đạt 4.450 triệu USD, chiếm 59,65%, bình quân 6 năm qua đạt 3.388,3 triệu
USD/năm, chiếm 56,38%. Tốc độ tăng bình quân năm của dịch vụ du lịch trong 5 năm qua
đạt 14,11% - cao hơn tốc độ tăng chung của xuất khẩu dịch vụ.
- Xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt được kết quả tích cực như trên nhờ lượng khách quốc
tế đến Việt Nam gần như liên tục tăng lên qua các năm. Năm 2009, số khách quốc tế đến Việt
Nam đạt hơn 5 triệu lượt người. Như vậy, dịch vụ du lịch đã phục hồi về lượt khách và đang
có xu hướng phục hồi về mức chi tiêu của khách trước khủng hoảng. Đây là tín hiệu khả quan
để tăng lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong các năm tới và tăng với tốc độ cao hơn về số
ngoại tệ thu được từ khách do khách đến chi tiêu nhiều hơn, ở lại dài ngày hơn. Đây cũng là
thời cơ cho ngành Du lịch Việt Nam.
o Hạn chế:
- Vấn đề nhận thức trong việc quy hoạch, phát triển hạ tầng du lịch, bảo tồn và phát
huy các giá trị về văn hóa, lịch sử, cảnh quan chưa được xem xét đúng mức.
- Du lịch gây tác động xấu tới môi trường, làm du lịch phát triển kém bền vững như ô
nhiễm rác thải sinh hoạt của du khách, ô nhiễm nước thải sinh hoạt…
-
Nhiều địa phương còn chưa coi trọng và tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Hạ tầng lưu trú,
giao thông, điện, nước… đều hạn chế, công tác quảng bá, tôn tạo các di tích, danh thắng, bảo
vệ môi trường có nhiều bất cập, ví dụ như những việc cấp thiết như nhà vệ sinh cho du
khách…
- Chiến lược quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam còn yếu và chưa sáng tạo.
- Sự quản lí của nhà nước còn chưa đúng mức ,tình trạng chồng chéo quyền hạn ,trách
nhiệm trong quản lí du lịch.
- Nguồn lao động tuy đông đảo nhưng còn yếu kém về trình độ chuyên môn ,số lao
động có trình độ chuyên môn chiếm 58,3% số lao động. Chưa đáp ứng kịp thời về phát triển
du lịch .Đặc biệt, phẩm chất người lao động du lịch còn thiếu tác phong công nghiệp, tính kỉ
luật, tính hợp tác còn thấp …
- Cơ sở hạ tầng tuy được đầu tư nâng cấp cải thiện nhưng còn thiếu đồng bộ giữa các
vùng miền ,giữa các khu ,điểm du lịch .
- Khả năng cung cấp các dịch vụ đi kèm còn rất nghèo nàn. Bình quân một khách du
lịch đến Thái Lan chi tiêu từ 1.200 - 1.500 USD; tương tự tại Singapore khoảng từ 1.500 2.000 USD; ở các nước EU là 4.000 - 5.000 USD. Trong khi tại Việt Nam, trung bình một
khách du lịch quốc tế thuộc diện giàu có, mức chi tiêu cũng chỉ khoảng 300 - 700 USD và
bình quân cho tất cả các khách du lịch chỉ là 100 - 150 USD/người/ngày lưu trú, quá thấp so
với các nước trong khu vực.
o Nguyên nhân:
- Nguyên nhân khách quan: từ 2001 tới nay du lịch thế giới đứng trước nhiều biến
động, diễn biến bất lợi và khó lường. Trên thế giới, tình hình xung đột an ninh, chính trị diễn
ra tại nhiều nơi, dịch bệnh, thiên tai, khủng hoảng tài chính lan rộng.
Ở trong nước, tình hình kinh tế - xã hội của nước gặp nhiều khó khăn như tốc độ tăng
trưởng kinh tế có iểu cảm chậm lại; lạm phát tăng cao, vượt xa mức dự báo, thị trường tài
chính tiền tệ có nhiều biến động…Đặc biệt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu kéo theo mức sụt giảm lớn về du lịch trên toàn thế giới
- Nguyên nhân chủ quan: chủ yếu là do điểm xuất phát của nền kinh tế nước ta
còn thấp.
Nhận thức xã hội về du lịch còn bất cập, chưa đầy đủ và thiếu nhất quán, thể hiện thiếu
tầm nhìn chiến lược
Công tác quản lý nhà nước thì: các hoạch định chính sách vẫn còn tư tưởng bao cấp,
chưa bắt kịp xu thế hội nhập, chưa có chính sách huy động nguồn nhân lực nhất là nội lực để
phát triển ngành du lịch.
Qua nhiều lần chuyển đổi hình thức tổ chức, sự chỉ đạo trực tiếp của bộ máy tổ chức
quản lý nhà nước từ trung ương xuống địa phương và doanh nghiệp mất tính liên tục và kế
thừa dẫn tới tình trạng lỏng lẻo, hạn chế hiệu quả kinh doanh và tụt hậu so với các nước trong
khu vực có điều kiện tương đồng,
Do công tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển vẫn nhiều yếu kém…
2.3.2. Vận tải quốc tế.
o Thành tựu
Dịch vụ vận tải đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam trong
vài thập kỉ qua và đã giúp giảm nghèo thông qua kết nối tốt hơn với thị trường, giáo dục và y
tế. Dịch vụ vận tải là đầu vào cho lĩnh vực dịch vụ và nhiều lĩnh vực sản xuất.Do đặc điểm
địa lý, dịch vụ vận tải tại Việt Nam gồm tất cả phương thức vận tải, gồm vận tải đường bộ,
vận tải đường sắt, đường biển, hàng không, tàu thủy nội địa.
Bảng 2.7: Khối lượng vận chuyển năm 1995- 2007
(Đơn vị: Ngàn tấn)
Năm
Tổng
Đường sắt
Đường bộ
1995
2000
2005
2007
140709,9
223823,0
460146,3
569534,8
4515,0
6258,2
8786,6
9098,2
91202,3
144571,8
298051,3
369776,6
Vận tải thủy
nội địa
37653,7
57395,3
111145,9
190529,6
Vận tải biển
7306,9
15552,3
42051,5
Hàng
không
32,0
45,2
111,0
130,4
(Nguồn:Niên giám thống kế qua các năm 1995, 2000, 2005, 2007)
Khối lượng hàng hóa được chuyên chở bởi các phương thức vận tải tăng từ 140,7 triệu
tấn năm 1995 lên khoảng 570 triệu tấn năm 2007 và số lượng hành khách được chuyên chở
tăng từ 564,4 triệu năm 1995 lên 1.628,9 triệu năm 2007. Trong đó vận tải đường bộ chiếm đa
số dịch vụ vận tải hành khách liên tỉnh, lên tới 85% và 63% số lượng hành khách và số kmhành khách.