Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH CÂY TRỒNG đề tài lan hồ điệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI BÁO CÁO
MÔN KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH
CÂY TRỒNG

GVHD: DƯƠNG CÔNG KIÊN
SVTH: NHÓM 8
TRẦN THỊ ANH ĐÀO

1115115

NGUYỄN THỊ THU HỒNG 1115196
ĐỖ MINH KHUÊ

1218167


MỤC LỤC
I.

II.

III.

IV.

Tổng quan về lan Hồ điệp
1. Nguồn gốc lịch sử
2. Phân bố


3. Phân loại
4. Đặc kiểm
5. Điều kiệ sinh thái
Kỹ thuật nhân giống
1. Nhân giống truyền thống
1.1. Nhân giống hữu tính bằng hạt
1.2. Nhân giống vô tính bằng tách chiết
2. Nhân giống hiện đại
2.1. Nhân giống vô tính sử dụng chồi đỉnh
2.2. Nhân giống vô tính sử dụng phát hoa Phalaenopsis
2.3. Tạo mô sẹo
2.4. Tái sinh PLB từ mô lá
2.5. Tái sinh PLB từ nhiều nguồn mô
2.6. Phôi vô tính
2.7. Công nghệ tạo hạt nhân tạo
3. Những vấn đề trong nhân giống vô tính
Kỹ thuật trồng và chăm sóc
1. Kỹ thuật trồng
2. Chăm sóc
a. Nhiệt độ
b. Ánh áng
c. Tưới nước
d. Bón phân
e. Sự thông gió
f. Chậu, giá thể
3. Lưu ý trong chăm sóc
Bệnh trên lan Hồ điệp
A. Sâu hại
1. Rệp son
2. Bọ trĩ

3. Ốc sên, nhớt
4. Nhện đỏ
B. Bệnh do nấm
1. Bệnh thối đen


2. Bệnh đóm vòng
3. Bệnh khô lá
4. Bệnh héo rễ
C. Bệnh do vi khuẩn
1. Bệnh thối mềm
2. Bệnh thối nâu
D. Bệnh do virus
E. Bệnh do môi trường
1. Bệnh phồng rộp
2. Rụng hoa, thối nụ
V.
VI.

Giá trị kinh tế
Kết luận


KĨ THUẬT NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH CÂY TRỒNG
TRÊN LAN HỒ ĐIỆP( PHALAENOPSIS)
I.

Tổng quan:
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước đã và đang là xu thế chung của toàn
cầu, và tất nhiên Việt Nam cũng là thành viên của xu thế ấy. Với quy mô công

nghiệp dần mở rộng, trang thiết bị khoa học-kĩ thuật được đầu tư ngày càng hiện
đại, nền tri thức dần nâng cao,… thì tương lai không xa Việt Nam sẽ sớm đạt
được mục tiêu đó như dự định. Thế nhưng, dù khoa học, dù nền văn minh nhân
loại có hiện đại đến một giới hạn nào đó thì thiên nhiên với con người vẫn luôn
song hành cùng nhau không thể tách rời.Điều đó không chỉ là lí thuyết suông mà
đã được các nhà khoa học chứng minh bằng hoạt loạt các phát minh, các báo cáo
khoa học nói về sự tác động, ảnh hưởng của tự nhiên đến thế giới loài người.Và
tất nhiên khi nói về thế giới, về những bí ẩn của động thực vật lại luôn là những
đề tài có sức hút kì lạ với chúng ta. Thế nên, một ví dụ điển hình: “ Lan Hồ Điệp”,
đã được tìm ra, được ứng dụng và thu lại lợi ích từ nó là điều rất thiết thực. Hiện
nay Lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp.) nói chung với các loại Lan khác nói riêng
được xem là cây trồng đem lại nhiều hiệu quả kinh tế cao; do đó đã có nhiều nhà
vườn mạnh dạn đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ lúa, hoa màu sang trồng
Lan và đạt hiệu quả kinh tế cao gấp 2 - 3 lần so với cây trồng khác. Lan Hồ Điệp
là một trong những loài lan đang rất được ưa chuộng và đóng vai trò quan trọng
trong ngành công nghiệp hoa cắt cành cũng như cây cảnh trên thế giới. Không
những chỉ mang lại giá trị cho nền kinh tế nước nhà mà chúng còn là biểu tượng
cho “sắc đẹp”. Chúng đẹp về màu sắc, kiểu dáng và mang một vẻ đẹp sang trọng
và trang nhã. Tượng trưng cho sự ngây thơ, trong sáng. Không chỉ là sứ giả truyền
tải cảm xúc một cách nhẹ nhàng, hoa còn mang đến cho chúng ta vẻ đẹp tinh khiết
của tự nhiên, nét quyến rũ, sự sang trọng cho không gian sống.


1.Nguồn gốc lịch sử:
-Lịch sử về lan Hồ Điệp:
+Cây hoa lan được biết đến đầu tiên ở phương Đông, nói về hoa lan là phải nói
đến người Trung Hoa, họ đã biết về lan vào khoảng 2500 năm về trước tức là ở thời đại
của Đức Khổng Tử (551-479 trước công nguyên).
+Ở phương Đông, lan được chú ý đến vì vẻ đẹp duyên dáng của lá, hương thơm
của hoa do đó Khổng Tử đề cao lan là vua của những loài cỏ cây có hương thơm.

+Riêng với LanHồ Điệp thì được khám phá vào năm 1750, đầu tiên được ông
Rumphius đặt tên là Angraecum album. Đến năm 1753 thì Linne đổi tên thành
Epidendrum. Năm 1825, nhà thực vật Hà Lan định danh lại là Phalaenopsis.
- Lịch sử nghiên cứu:
+ Thế giới:
Năm 1949, ông Rotor là người đầu tiên nhân giống lan Hồ Điệp bằng cách sử
dụng cành phát hoa. Đây được xem là phương pháp chính để nhân giống vô tính lan


HồĐiệp.Phương pháp này tạo ra được một tỷ lệ cao các chồi duy trì trạng thái ngủ hoặc
có thể phát triển thành cuống hoa hay chồi sinh dưỡng.
Tanaka và Cộng sự (1976) đã sử dụng đỉnh rễ của cây lai phalaenopsis tạo
protocorm. Ông là người đầu tiên nghiên cứu tập trung trên việc tối ưu hóa quy trình
tạo chồi dinh dưỡng và nuôi lá ở nhiều yếu tố như protocorm, ánh sáng, nhiệt độ. Tuy
nhiên, hiệu suất vẫn chưa cao đồng thời không ứng dụng được trên nhiều giống.
Các thí nghiệm của Tanaka và Sakanishi (1977) cho thấy chồi ở các phần phía
trên có xu thế duy trì trạng thái ngủ bất chấp ảnh hưởng của nhiệt độ.Các chồi nảy
mầm đặt ở 200C hoặc 250C sẽ tăng trưởng sinh sản (trừ một số chồi ở phần gốc) và ở
280C các chồi đều tăng trưởng sinh dưỡng. Chồi nuôi cấy đang ở trạng thái ngủ sẽ được
kích thích nảy mầm nếu bổ sung BA vào môi trường.
Năm 1991, Sajise và Sagawa đã đưa ra báo cáo đầu tiên về sự hình thành mô
sẹo tạo phôi (embryogenic) và Tokuhara và Mii (2000) đã thực hiện cảm ứng thành
công mô sẹo tạo phôi từ các mẫu cấy đỉnh chồi trên cuống hoa lan hồ điệp trên môi
trường NDM (New Dogashima Medium) và cấy chuyền thành công mô sẹo sang dạng
huyền phù trong môi trường NDM lỏng.
Young, Murthy và Yoeup (2000) đã thành công trong việc sử dụng bioreactor để
nuôi cấy PLB từ các đoạn cắt lá, sau 8 tuần nuôi cấy, họ đã thu được khoảng 18.000
PLB từ khoảng 1.000 PLB ban đầu trong 2 lít môi trường Hyponex. Các PLB này được
chuyển sang môi trường Hyponex rắn để tạo cây con.
Năm 2002, Park So Young và Cộng sự, khảo sát tối ưu hóa quá trình tạo

protocorm từ lá, đưa ra quá trình hoàn chỉnh và kiểm chứng trên nhiều giống lan Hồ
Điệp khác nhau.
Theo nhiều tác giả khi tái sinh thành cây con từ protocorm chỉ cần sử dụng các
môi trường khoáng có bổ sung nước dừa, khoai tây…mà không sử dụng bất kì chất


điều hòa tăng trưởng nào. Tanaka và Sakanishi (1985) và Tanaka (1987) đã sử dụng
môi trường Knudson C cải tiến, còn Haas-von Schmude (1983,1985) sử dụng môi
trường MS trong việc tái sinh cây con từ protocorm. Griesbach (1983)sử dụng môi
trường Murashige và Skoog cho việc tái sinh cây con từ protocormtrong khi Lin (1986)
sử dụng môi trường Knudson C cải tiến có bổ sung BA (1mg/l) để chuyển protocorm
thành cây con.
Các nghiên cứu về chuyển gen cho phép đưa các tính trạng đặc biệt vào lan Hồ
Điệp như khả năng tổng hợp sRNA kháng virus gây cháy lá, khả năng tổng hợp chất
cay trong mù tạt để kháng bệnh (theo Rimaldi Sjahril, 2006). Có thể trong tương lai,
thế hệ lan Hồ Điệp mang gen kháng acetylene có hoa lâu tàn sẽ được sản xuất và bán
rộng rãi trên thị trường (theo Chai và Senthil, 2002).
-Việt Nam:
Bước đầu tìm hiểu về sự nuôi cấy in vitro lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp),Võ Thị
Bạch Mai 1996 và Lê Văn Hướng cho rằng dưới tác động của auxin vàcytokinin được
bổ sung riêng lẻ hay kết hợp vào môi trường MS cải tiến. Khi có bổ sung 5 ppm BA và
1ppm 2,4 D, mô cấy được kích thích tạo ra tiền củ. Trong môi trường MS bổ sung 2
ppm BA, mô cấy sẽ phát triển thành cây hoàn chỉnh.
Khi “nghiên cứu xây dựng quy trình nhân giống và nuôi trồng lan
Phalaenopsis” Nguyễn Quang Thạch và cs (2003), đã sử dụng vật liệu nuôi cấy mô
khởi đầu bằng lá non, mắt ngủ trên phát hoa và đỉnh phát hoa.
Liêu Hồng Phú 2005 nghiên cứu tạo phôi và hạt nhân tạo lan Hồ Điệp được thực
hiện tại Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học, Đại Học Nông Lâm Tp.Hồ Chí Minh nhằm tìm
hiểu ảnh hưởng của các chất kích thích tố sinh trưởng và các loại môi trường đến khả
năng tạo mô sẹo, phát sinh phôi, tái sinh chồi và tạo hạt nhân tạo lan Hồ Điệp.



Theo Trần Thị Dung, Trịnh Pari và Liêu Hồng Phú (2005): Khi nuôi cấy phát
sinh mô sẹo từ protocorm trên môi trường VW (Vacin &Went) có bổ sung 0,01 mg/ l
BA + 200 mg/ l nước dừa + 40 g/ l đường cho khả năng tạo mô sẹo cao nhất. Đối với
việc tạo phôi, môi trường thích hợp nhất là VW có bổ sung 2mg/ lTDZ sau đó cấy
chuyền sang môi trường ½ VW. Môi trường tốt nhất cho việc tái sinh lan Hồ Điệp từ
phôi là môi trường VW + 30 g/ l khoai tây + 1g / l than hoạt tính.
Theo Cung Hoàng Phi Phượng và Cộng sự (2007) sử dụng hệ thống nuôi cấy
ngập chìm tạm thời sẽ cung cấp chất dinh dưỡng và không khí cho các mô sẹomột cách
chủ động. Cũng nhờ đó hệ số nhân giống cây cao gấp 5-6 lần so với cách nhân giống
lan Hồ Điệp bằng phương pháp sinh sản vô tính. Trong môi trường nuôi cấy ngập chìm
tạm thời, các mô phát triển nhanh và nhân chồi liên tục. Trung bình, từ một mô sẹo sau
2-3 tháng có thể cho 20- 25 chồi con. Các chồi này có lálớn và ra rễ rất nhanh, chồi
phát triển thành cây con chỉ sau 2- 3 tháng. Khi đưa ratrồng ở môi trường tự nhiên,
100% cây con được nuôi cấy bằng kỹ thuật nói trênđều sống và phát triển tốt.
Theo Dương Tấn Nhựt và cs (2007) sử dụng vật liệu nuôi cấy khởi đầu là
protocorm có màu xanh, đường kính từ 1- 1.5 mm cấy chuyền 2-3 tháng 1lần, môi
trường MS cơ bản bổ sung 2mg/ l BA, 1mg / l NAA và 20% nước dừa và hệ thống nuôi
cấy bioreactor ( bioreactor với hệ thống cung cấp và xả môi trường, hệ thống cấp và
thoát khí vô trùng được thiết kế có khả năng tạo ra một môi trường nuôi cấy vô trùng,
kiểm soát các yếu tố môi trường bên trong như: sự lắc, sự thoáng khí, nhiệt độ, oxi hòa
tan, pH,…) rất thích hợp để nhân nhanh protocorm ( là những cấu trúc tế bào nhỏ và
được phát triển từ phôi hoặc từ nuôi cấy đỉnh chồi sau vài tuần, thường có dạng hình
cầu với đường kính 1-2mm, có màu xanh, được sử dụng trong nhân giống in vitro để
hình thành phôi soma ) của lan Hồ Điệp.
Monosaccharide (đường mía) không thích hợp cho nuôi cấy phôi vô tínhcây lan
Hồ Điệp, đặc biệt D- fructose có tác động rất xấu đến mẫu cấy (gây chết100% mẫu).



Các disaccharide thích hợp hơn cho nuôi cấy phát sinh phôi từ mẫu đoạn mắt ngủ là
phương pháp nhanh chóng và luân phiên để nhân giống cây trồng, nhờ cấy mô sẹo.
Môi trường nuôi cấy bổ sung 20g / l sucrose sẽ cho hiệu quả phát sinh phôi cao nhất
(Dương Tấn Nhựt và Cộng sự, 2007).
Theo Trần Thị Kim Liên (2008) khi nghiên cứu khả năng phát sinh chồi từmắt
ngủ trên phát hoa lan Hồ Điệp cho thấy: việc nuôi cấy mô từ các chấn thương,sẽ đạt
được nhiều cây con Hồ Điệp hơn so với các khúc mắc bình thường chỉ chomột cây con
duy nhất. Môi trường thích hợp để phát sinh chồi là môi trường MScó bổ sung 1 mg/ l
BA và 2 mg/ l NAA.
Hoàng Thị Hiền, 2009. Đề tài nghiên cứu “Xác định nồng độ nước javel cho quá
trình khử mẫu phát hoa lan Hồ điệp.Ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng BAP,
TDZ, NAA đến quá trình sinh trưởng, phát triển của lan hồ điệp lai (Phalaenopsis sp.)
in vitro” được tiến hành tại phòng di truyền và chọn giống - Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp miền Nam.
CN.Sinh học Đặng Thị Ánh Tuyết, 2009, đề tài nghiên cứu “Ứng dụng phương
pháp nuôi cấy lỏng tĩnh để nhân nhanh giống lan Hồ điệp (Phalaenopsis sp)”. Tại
Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao công nghệ Phú Yên.
Hồ Phan Thiết Toàn, 2011, đề tài nghiên cứu “Khảo sát một số yếu tố môi
trường ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của lan Hồ Điệp (Phalaenopsis) in
vitro.” Tại phòng thí nghiệm nuôi cấy mô của phòng Khoa học nông nghiệp – CNSH,
Trường Cao Đẳng Nguyễn Tất Thành Quận 4 TP. Hồ ChíMinh.
2.Phân bố:
-Thế giới:Hồ Điệp phân bố chủ yếu ở Malaysia, Indonesia, Philippin, phía đông
Ấn Độ và Úc.


Loài

Phân bố


Phalaenopsis amabilis

Đông Malaysia đến Papuasia

Phalaenopsis amboinensis

Sulawesi đến Moluccas

Phalaenopsis aphrodite

Đông Nam Đài Loan đến Philippines

Phalaenopsis appendiculata

Malaya đến đông bắcBorneo

Phalaenopsis chibae Việt Nam
Phalaenopsis fasciata

Philippines

Phalaenopsis luteola

Tây Bắc Borneo

Chúng có thể mọc ở nơi có khí hậu nhiệt đới và đồi núi cao 2000m, vì vậy chịu
được khí hậu nóng ẩm và cả khí hậu mát.
-Việt Nam: Cũng có một số loài, nhưng có hoa nhỏ nên được gọi là Tiểu Hồ
Điệp ( phalaenopsis manni, gibbsa, lobbi, fuscata, cornucervi).
Bên cạnh đó, Lan Hồ điệp không trồng được tại các vùng lạnh như Đà Lạt song

với đặc tính vừa chịu khí hậu nóng ẩm lại vừa chịu khí hậu mát nên điều kiện tự nhiên
của Di Linh được xem là địa điểm lí tưởng để nuôi trồng lan Hồ điệp. Tại đây toàn bộ
Lan Hồ điệp đều nuôi trồng trong nhà kín bằng nguồn giống cấy mô và được trang bị
lưới che, hệ thống quạt gió… để chủ động điều chỉnh lượng ánh sáng và nhiệt độ thích
hợp trong từng giai đoạn tăng trưởng, phát triển cụ thể của cây. Tuy nhiên, cần chú ý
đến nguồn giống khỏe mạnh, sạch bệnh và khả năng cung cấp với số lượng lớn.
- Họ lan của nước ta cũng phong phú, theo thống kê sơ bộ có 140 chi, trên 800
loài. Như vậy, hoa phong lan đã trở thành một đối tượng cực kỳ phong phú và đặc sắc
của hệ thực vật Việt Nam.


3.Phân loại:
- Phân loại khoa học:
Ngành: Magnoliophyta (thực vật hạt kín)
Lớp: Monocotyledoneae (lớp một lá mầm liliopsida)
Bộ: Orchidaceae
Họ: Orchidaceae( họ phong lan)
Giống: Phalaenopsis
Loài: Phalaenopsis spp

-Phân loại theo hình thái:
Lan Hồ Điệp có nhiều loại nhưng thường được chia làm hai nhóm chính:
+ Nhóm có cành hoa dài ( dài đến 1m), thân được phân nhánh, lớn, và hầu hết
hoa có viền màu hồng hoặc trắng.
+ Nhóm có thân ngắn và không tròn, hoa có nhiều màu sắc.
Bên cạnh đó còn có nhiều chi lan khác được lai với Phalaenopsis và lai ngay
trong cùng chi, tạo ra 40.000 loài lai (Nguyễn Thiện Tịch và Cộng sự, 1996), chi lan
Hồ Điệp có thể chia ra thành 5 nhóm trong đó có 2 nhóm quan trọng đó là:
+ Nhóm Euphalaenopsis:Với các loài tiêu biểu là Ph.amabilis, Ph.aphrodite,
Ph.philippinensis, Ph.sanderiana, Ph.schilleriana, Ph.stuartiana… chúng có đặc điểm

nổi bật là cánh hoa dài và rộng hơn lá đài, cánh môi rộng và có hai phụ bộ riêng biệt ở


phía trước, bộ lá thường có màu lục đậm hơn ở mặt trên nâu sẫm ở mặt dưới, hoa nhiều
và mảnh mai.

Phalaenopsis stuartiana

Phalaenopsis schilleriana

Phalaenopsis philippinensis

Phalaenopsis amabilis

Phalaenopsis sanderiana


+ Nhóm Stauroglottis chúng có đặc điểm khác biệt như sau: lá dài và cánh hoa
cùng một cỡ, cánh môi hẹp và không phụ bộ ở phía trước, bộ lá có màu xanh lục nhạt ở
cả mặt trên và mặt dưới lá, hoa nhỏ hơn và cánh dày hơn thường có màu hoa văn, một
vài loài tiêu biểu là P.amboinensis, P.gigantea theo (Phạm Hoàng Hộ, 2000).

Phalaenopsis amboinensis

Phalaenopsis lindenii

Phalaenopsis venosa

Phalaenopsis violacea


Phalaenopsis gigantean


Việt Nam có 7 loài Phalaenopsis: P.amabilis (L), P.cornucervi, P.lobbi,
P.gibbosa, P.mannii Reichbf, P.petelotii Mansf, P.fuscata Reichhf.
4.Đặc điểm của cây:
Hồ Điệp là cây đơn thân nhưng rất ngắn, có lá mọc khít nhau nên không có
lóng, lá tương đối dày và mập, thường rộng ở phần trên, hẹp ở phần dưới, phát hoa ở
nách lá, thường hay đứng có thể phân nhánh, hoa nhỏ hay khá to, mỗi hoa bền khoảng
2 – 3 tháng. Vì vậy, cành hoa nở liên tiếp hơn nửa năm, lá đài và cánh hoa gần như
nhau, đôi khi cánh hoa lớn hơn, nhưng nổi bật là cánh môi. Môi gắn vào chân của trụ
và không có cựa ở đáy, ba thùy với phụ bộ hay cục u ở đáy thùy giữa, hay thùy bên,
một trong những phụ bộ ấy là hai sợi râu của môi hay phiến nhỏ dựng đứng ở thùy
môi. Trụ tương đối dài và nhỏ, hai khối phấn tròn hay hình trứng, vĩ phấn kéo dài, rộng
ở phần trên và hẹp ở phần dưới, gót dẹp, nhiều loài thường cho cây con trên cọng phát
hoa và nhiều loài có vân màu trên lá.
- Cơ quan sinh dưỡng:
+ Rễ:
Hệ rễ của lan Hồ Điệp rất đặc biệt. Nó thuộc dạng phân nhánh, có dạng tròn, to,
mập và có lông hút rõ ràng, rễ không phân chia thành rễ chính, rễ phụ. Rễthường có
màu trắng, đầu rễ màu xanh, màu vàng trắng hoặc màu đỏ tối.Rễ của chúng thường
mọc tràn ra ngoài chậu, buông lơ lửng ra không khí, có lợi cho việc hút ôxi và nước.
Mặc khác, ngoài chức năng cố định cây ở bên dưới và hấp thụ nước, các chất
dinh dưỡng,… thì trong rễ còn chứa cả chất diệp lục nên có khả năng quang hợp và
đồng hóa.


\
Hình ảnh của rễ lan Hồ Điệp
Do hạt của hoa lan nói chung đều không có nội nhũ, không được cung cấp

đầy đủ dinh dưỡng khi nảy mầm, trong điều kiện nảy mầm tự nhiên, cần dựa vào các
nấm cộng sinh để hút chất dinh dưỡng. Trong quá trình sinh trưởng của cây, các loài
nấm này sống cộng sinh tại rễ của cây lan để hỗ trợ lẫn nhau, vì thế rễ lan còn được gọi
là rễ nấm. Đó cũng là lý do rễ lan Hồ Điệp có nấm cộng sinh và chúng ta cần cẩn thận
khi tưới nước và bón phân cho lan Hồ Điệp.
+ Thân:
Lan Hồ Điệp thuộc loại đơn thân, tức là thân của chúng rất ngắn, không hề có
giả hành, cũng không có thời kì ngủ nghỉ rõ rệt. Lan đơn thân sinh trưởng rất chậm
chạp, thân chính của nó trong môi trường thuận lợi hàng năm lại mọc ra các lá mới,
chúng mọc theo hướng cao hơn theo phương thẳng đứng còn các cành hoa thì mọc ở
rìa thân hoặc nảy ra từ nách lá, lá mọc xếp thành hai hàng, xem kẽ nhau. Theo sự sinh
trưởng của cây, các lá già ở dưới gốc dần héo và rụng đi, đến khi có chồi nách mọc ra,
nhưng không mọc dài ra được. Vì cây lan thường rất khó ra chồi, nhánh nên không
dùng phương pháp tách lấy cây để nhân giống. Thân của lan Hồ Điệp ngoài tác dụng
giữ cho cây thẳng đứng, còn có chức năng tích trữ chất dinh dưỡng và nước cho cây.


Hình ảnh của thân lan Hồ Điệp
+ Lá:
Lá của lan Hồ Điệp to, dày, đầy đặn. Lá mọc đối xứng, ôm lấy thân. Số lá trên
thân cây thường không nhiều, thông thường 1 cây lan trưởng thành có từ bốn lá trở lên.
Trong nách lá có hai chồi phụ, chồi phụ trên to hơn là chồi sơ cấp, bên dưới là chồi
dinh dưỡng sơ cấp.Các chồi sơ cấp này sinh trưởng đến một mức độ nào đó thì bắt đầu
đi vào giai đoạn ngủ nghỉ. Màu sắc của lá gồm ba loại: lá màu xanh, mặt trên và dưới
lá màu đỏ, mặt trên lá đốm và mặt dưới là màu đỏ. Căn cứ vào màu sắc có thể phân
biệt được màu sắc hoa của chính nó, lá màu xanh thường ra hoa màu trắng hoặc hoa
nhạt màu, còn các lá màu khác thường cho hoa màu đỏ.
Lá có khả năng quang hợp cố định cacbon và chức năng đồng hóa để lưu trữ
cacbon có sẵn.Ngoại trừ Ca và Mg thì phần lớn các chất dinh dưỡng khác có thể được
hập thụ trực tiếp từ lá.Chính vì thế, nguồn cacbon chủ yếu trong cây để cung cấp cho

cành hoa và hoa là đều từ lá.


Hình ảnh của lá lan Hồ Điệp
Lan Hồ Điệp dễ thích nghi với điều kiện sinh thái nguyên sinh, thông thường bề
mặt trên của lá không có khí khổng, chỉ có mặt dưới của lá mới có khí khổng. Lan Hồ
Điệp là loại thực vật CAM, giống như các thực vật CAM khác nên khi khổng mở ra
vào ban đêm thu nhận khí CO2 để tạo ra chất dự trữ trong cơ thể, vào ban ngày khí CO 2
đó được sử dụng cho quá trình quang hợp. Ưu điểm của loại thực vật này là khí khổng
không mở vào ban ngày nên cây không bị mất nước do quá trình thoát hơi nước. Điều
kiện này đối với cây không được cung cấp nước thường xuyên rất có lợi. Khi cây có đủ
nước thì khí khổng cũng mở ra vào ban ngày để hút khí CO 2 và quang hợp bình
thường. Nếu gặp phải điều kiện khô khạn nghiêm trọng thì khí khổng sẽ đóng lại, quá
trình quang hợp diễn ra chỉ vừa đủ cho lượng cacbônic tạo ra trong quá trình hô hấp.
Đây chính là nguyên nhân khiến cho cây lan Hồ Điệp có khả năng chống, chịu hạn tốt
mặc dù không có giả hành.
- Cơ quan sinh sản:
+ Hoa:
Cành hoa của lan Hồ Điệp mọc ra từ nách lá, thông thường đếm theo thứ tự từ
trên xuống thì cành hoa bắt đầu mọc ra từ lá thứ ba hoặc thứ bốn. Các cành hoa có thể


phân nhánh hoặc không phân nhánh. Hoa lan to thường ít phân nhánh, còn hoa lan nhỏ
phân nhánh rất rõ ràng, thậm chí một số giống hoa lan nhỏ có thể nở đến 200 bông hoa.
Cành hoa khi chưa phân hóa các đốt hoa thường ở dạng tiền chồi nách hoặc tiền chồi
hoa, ở nhiệt độ dưới 15 độ và bị bấm ngọn có nảy thành chồi hoa, nhưng nếu nhiệt độ
cao quá 28 độ thì chỉ có thể nảy chồi nách. Cơ quan này cũng có chứa diệp lục ( nên
màu sắc tự nhiên của nó là màu xanh) và khả năng quang hợp giống rễ, lá. Tuy nhiên,
vật liệu đồng hóa không đủ đáp ứng cho nhu cầu của cành hoa và hoa, thế nên vẫn nhờ
sự cung cấp từ lá.


Hình ảnh của hoa lan Hồ điệp


Đa số các giống hoa đơn cây chỉ ra một cành hoa, có một số giống khác hoặc
trong điều kiện tốt cho chồi hoa phân hóa có thể mọc ra hai hoặc ba cành hoa. Nói
chung, hoa lan Hồ Điệp đơn cây nếu phân hóa số cành hoa nhiều hoặc cành nhánh càng
nhiều thì hoa nhỏ do bị hạn chế dinh dưỡng. Để trồng được lan Hồ điệp có bông hoa to
đẹp, cần phải khống chế số bông trên một cành, hoặc cắt bớt đi một số cành nhánh.
Để đánh giá và thưởng thức hoa, người ta dùng hai khái niệm “hoa đều đặn”
hoặc “hoa cực kì đều đặn“. Hoa đều đặn là chỉ cánh hoa đều to rộng, giữa các cánh hoa
không có khe hở rất nhỏ, cánh môi trải xuống tạo dáng hình elíp, tất cả bông hoa tạo
nên dáng hình tròn, còn loại “cực kì đều đặn” là hoa chỉ có hình dáng rất tròn, cánh hoa
chồng khít lên nhau, không có khe hở. Loại có khe hở khá lớn là hoa không đều đặn.
+ Quả và hạt:
Hoa lan Hồ Điệp chỉ tạo quả qua thụ phấn nhân tạo hoặc thụ phấn nhờ côn
trùng. Vỏ quả có hình que, phát triển chậm thường qua bốn tháng mới chín và tách vỏ.
Số lượng hạt trong một quả khác nhau do sự khác nhau về bố mẹ đem thụ phấn. Những
hạt của chúng thường rất nhỏ, có dạng bột, không phôi nhũ, trong điều kiện tự nhiên rất
khó tự này mầm thành cây con, thường phải gieo hạt trong môi trường vô trùng thích
hợp mới có thể thu được cây con.


Hình ảnh của quả và hạt lan Hồ Điệp

5. Yêu cầu sinh thái của cây lan:
-Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của lan Hồ Điệp:
+Kiểu gen: các đặc điểm của kiểu gen rất đa dạng, bao gồm: màu sắc hoa, kích
thước hoa, số lượng cành hoa, số lượng hoa, chiều cao thân,…
+Tình trạng của cây: cây phải đủ trưởng thành trước khi làm mát, chất khô đầy

đủ lưu trữ trong cây, cây phải được bảo vệ chống lại thiệt hại của dịch bệnh, virut, thiệt
hại hóa chất, muối tích tụ trong cây trồng.
+Môi trường: phải đảm bảo rằng sự kết hợp của các yếu tố này là tối ưu nhất,
bao gồm: ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ, nước tưới, phân bón, chậu…
Nhân giống Lan hồ điệp
1. Nhân giống truyền thống
1.1.
Nhân giống hữu tính bằng hạt
II.

Trong môi trường tự nhiên, lan được thụ phấn nhờ vào côn trùng. Cánh môi hoa
lan có cấu tạo đặc biệt và hình dáng thuận lợi cho côn trùng đậu vào, tiếp xúc với khối
phấn và mang đi. Thường thì tỉ lệ thụ phấn thành công thấp nên con người muốn thu
hạt phải chủ động thụ phấn cho cây. Những hạt của chúng thường rất nhỏ, có dạng bột,
không phôi nhũ mà chỉ có một lớp vỏ rất mỏng, trong điều kiện tự nhiên rất khó tự nảy
mầm thành cây con, thường phải gieo hạt trong môi trường vô trùng thích hợp mới có
thể thu được cây con.
Năm 1899, nhà thực vật Pháp Noel Bernard đã phát hiện ra điều làm cho hạt lan
có thể nảy mầm: có liên quan tới sự cộng sinh của nấm, hệ rễ của nấm xâm nhập vào
hạt lan và cung cấp nguồn cacbon cho phôi phát triển


Năm 1922, Knudson đã nghiên cứu thành công việc thay nấm bằng đường ở môi
trường thạch để gieo hạt. Gieo hạt in vitro có thể làm cho các hạt chưa chín nảy mầm
và việc khử trùng cả quả dễ dàng hơn. Khi quả chín 2/3, có thể khử trùng bằng dung
dịch thuốc tẩy và cồn. Sau đó, dùng dao tách vỏ và lấy hạt ra để lên môi trường nuôi
cấy trong điều kiện vô trùng, hạt sẽ nảy mầm theo 2 cách:
-Mọc qua thể tiền chồi: khi mới nảy mầm hình thành nên thể tiền chồi màu
trắng, lớn dần lên, trên bề mặt sẽ xuất hiện rễ giả dạng lông hút, thể tiền chồi này sẽ
chuyển sang màu xanh lục, nhưng không mọc dài thêm nữa. Trên chóp của thể tiền

chồi sẽ nảy chồi. Thông thường thì các thể tiền chồi này có khả năng phân hóa thành
cây.
-Mọc qua thân rễ: khi hạt nảy mầm ban đầu là thể màu trắng, sau đó sẽ mọc dài
ra rất nhanh tạo thành một dạng hình trụ dài, rồi hình thành nên thân rễ. Sau đó trên các
kẽ của bề mặt thân rễ mọc ra các rễ giả dạng lông mao, trên môi trường phân hóa, đỉnh
chồi của thân rễ sẽ mọc ra cây con, nhưng tỉ lệ phân hóa ra cây con rất thấp.
Chuyển cây con sang môi trường mới sau mỗi 30 - 60 ngày. Khi cây con có 2 –
3 lá thì rễ bắt đầu hình thành. Khoảng 6 tháng sau thì có thể chuyển cây con ra vườn
ươm. Quá trình nhân giống này cho tới khi cây trưởng thành cho hoa mất khoảng 4
năm hoặc nhiều hơn nữa tùy vào từng giống.
Nhân giống bằng phương pháp này tốn rất nhiều thời gian, cây con mang tỉ lệ
biến dị cao, các cây con không đồng nhất về mặt di truyền và cây con cho hoa không
đẹp như cây mẹ. Từ những bất cập liên quan trực tiếp tới giá trị của lan hồ điệp mà
người ta ít sử dụng phương pháp gieo hạt.
1.2 Nhân giống vô tính bằng cách tách chiết


Thời vụ tách chiết tốt nhất đối với các loại lan là vào đầu mùa tăng trưởng.
Thường là mùa mưa, ẩm độ tốt hoặc là trồng trong các nhà kính mang tiểu khí hậu
nhân tạo thì có thể tiến hành tách chiết quanh năm
Hồ điệp là loại đơn thân, nhưng nếu biết chăm sóc và có biện pháp thích hợp thì
tạo được cây con ở gốc cây mẹ (thường tiến hành trên cây lớn hơn 3 năm tuổi) và ở gốc
phát hoa
a. Tách chiết cây con mọc từ cây mẹ

Ở những loài đơn thân như phalaenopsis không có giả hành nhưng trồng lâu
năm vẫn lên cao và cho nhiều rễ gió. Muốn cắt trồng nên cắt phần ngọn có 3-4 rễ gió,
bôi thuốc kích thích ra rễ, trồng phần ngọn trong giá thể thoáng với than gỗ.Phần gốc
còn lại chăm sóc tốt và bón phân đầy đủ thì nó sẽ nảy chồi 2-3 cây con ở nách lá.
Thông thường, để giữ lại cây mẹ khỏe mạnh, thì không cắt ngọn mà buộc dây kẽm vào

thân cây mẹ trên 2-3 lá dưới cùng (hình 1.2a1,a2) để hạn chế sự phát triển của phần
ngọn, tập trung dinh dưỡng cho cây nảy chồi con. Dây kẽm buộc lún sâu vào khoảng
1mm là được. Bón phân và tưới nước đầy đủ, khoảng 1-2 tháng sau ở phần nách lá
dưới gốc cây mẹ bắt đầu nhú chồi non. Ở giai đoạn này không nên tưới nước lên chồi
và không để giá thể chạm vào chồi, vì chồi non rất dể bị thối nhũn.Trong thời gian chờ
chồi non nảy mầm, nếu dây kẽm lỏng thì cứ siết thêm vào cho vừa chặt là được.Khi
chồi non đã nhú lên như vậy, tiến hành mở dây cho cây mẹ. Để cây con phát triển cùng
với cây mẹ trong vòng 6 tháng là cây hoàn chỉnh rễ, thân, lá và có thể tách khỏi cây mẹ
sang một chậu mới.
Ngoài ra, phương pháp nhân giống lan Hồ Điệp từ phát hoa cũng được sử dụng
phổ biến. Cho Hồ Điệp mọc cây con trên phát hoa nhờ nguồn dinh dưỡng của cây mẹ
(hình 1.2a3).Cách này thường dùng khi phát hoa sắp tàn, nhưng không nên để phát hoa
héo quá.Lúc này, cắt phát hoa chừa lại 1 đoạn có 3-4 chồi ngủ phát hoa trên cây
mẹ.Chăm bón tốt cây mẹ, khoảng 1 – 2 tháng sau thì chồi con nhú ra từ mắt ngủ của


gốc phát hoa. Khi cây con đã có hệ rễ khỏe mạnh (6 tháng) tách chiết cây con trồng vào
chậu mới.

Hình1.2 a1,2 : keiky từ gốc cây mẹ phalaenopsis

Hình 1.2a3: keiky từ phát hoa phalaenopsis
b. Tạo cây con bằng cách giâm phát hoa.


Bước 1: chuẩn bị đất kĩ càng
Ngâm các viên than bùn dưới vòi nước cho tới khi thấy ngấm đủ nước là
được
Trải than bùn vào một khay nhựa nhỏ, lấp khoảng trống giữa các viên than
bùn bằng cát silica

Thêm vào khay đất một ít nước + một ít nước dừa
Bước 2: chuẩn bị mẫu
Đầu tiên, ta chọn phát hoa to, khỏe, bông đẹp, phát hoa chỉ mới nở 1 -2 bông
Bỏ mắt ngủ đầu tiên, cắt phát hoa ra làm các đoạn có độ dài bằng nhau, khoảng
3 cm (cắt lấy 3 -4 đoạn).Theo nghiên cứu thì các mắt ngủ thứ 2-3-4-5 có tỉ lệ nảy chồi
cao hơn các mắt ngủ ở gần ngọn (hình 1.2b1).Lưu ý: dùng dao bén đã khử trùng cắt
thật gọn lẹ, tránh làm mô bị dập nát, tổn thương, nên cắt xéo 1 góc 45 độ
Cắt cành xong tiến hành gỡ bỏ lớp màng bao thật cẩn thận, tránh làm trầy xướt,
tổn thương tới mắt ngủ (hình 1.2b2).
Đặt mắt ngủ cào trong khay đất đã chuẩn bị: đặt nằm ngang như hình vẽ, chồi
hướng lên trên (hình 1.2b3).
Đậy hộp bằng nắp nhựa hoặc túi ni lông để đảm bảo độ ẩm, để hộp ở nơi ấm
và có tránh ánh nắng trực tiếp (hình 1.2b4).
Kiểm tra mỗi 3-4 ngày để chúng có đủ độ ẩm


Hình1.2b1: vị trí cắt phát hoa


×