TÌNH HÌNH VÀ CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU CAFE CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000-2010
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới cùng với việc chính thức trở thành thành viên của
tổ chức thương mại thế giới, từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu với
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp Việt Nam đã có những bước phát
triển nhanh chóng và trở thành một điểm sáng phát triển trong nền kinh tế
toàn cầu. Để làm được điều đó không thể không nói đến những đóng góp to
lớn của hoạt động ngoại thương. Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại
thương với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cùng với xu thế hội nhập, xuất
khẩu đã trở thành vấn đề sống còn của nhiều nền kinh tế. Việt nam từ khi
mở cửa cũng đã xác định xuất nhập khẩu là vấn đề then chốt trong công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam là một đất nước có thế mạnh về Nông nghiệp. Đặc biệt với khí hậu
nhiệt đới gió mùa, đất badan màu mỡ cùng nguồn nhân lực dồi dào, Việt
Nam có những điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển cây công nghiệp
trong đó có café. Và hiện nay, nước ta đã vươn lên trở thành một nước xuất
khẩu café lớn thứ hai trên thế giới. Café Việt nam cũng dần nâng cao được
uy tín và vị thế cuả mình, đóng góp quan trọng vào tổng kim ngạch xuất
khẩu của nước ta. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đã đạt được, ngành
café cũng bộc lộ nhiều điểm yếu kém làm giảm sức cạnh tranh của sản
phẩm. Điều đó một lần nữa đòi hỏi nhà nước phải nhanh chóng có những
chủ trương chính sách thích hợp để café Việt Nam tìm được vị trí xứng đáng
với những lợi thế hiện có của mình.
Trong khuôn khổ phạm vi môn học “quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu”
cùng với những hiểu biết thực tế và tài liệu thu thập được chúng em xin đi
sâu tìm hiểu và phân tích đề tài “ tTìmnh hình xuất khẩu café của Việt
Nam giai đoạn 2000-2010” với mong muốn sẽ đưa ra được một cái nhìn
tổng quan của ngành café Việt Nam hiện nay cùng những chính sách của
nhà nước trong vấn đề này.
Bài tiểu luận gồm có 3 phần với bố cục nội dung như sau:
Phần I: lời mở đầu
Phần II: Nội dung
1. vị trí, vai trò của café
2. Tình hình xuất khẩu
3. Những vấn đề còn tồn tại
4. Chính sách của nhà nước
Phần III: Kết luận
Do những hạn chế về mặt kiến thức và thời gian nên trong bài tiểu luận còn
có nhiều hạn chế và sai sót, chúng em rất mong nhận được sự hướng dẫn,
đánh giá và góp ý của thầy để bài làm được tốt hơn.
PHẦN II: NỘI DUNG
I.
VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH CAFÉ VIỆT NAM
1. Vị trí ngành café trong nền kinh tế quốc dân
Ngành cà phê Việt Nam mặc dù còn non trẻ so với nhiều nước trên
thế giới nhưng đã có những bước phát triển thần kỳ trong thời gian qua,
đóng góp một cách đáng kể vào sự ổn định và phát triển chung của ĐakLak,
Tây Nguyên và của Việt Nam. Café cũng được coi là mặt hàng xuất khẩu
nông sản chủ lực của Việt Nam, đóng góp lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu
chung của cả nước.
2. Vai trò ngành café trong nền kinh tế quốc dân:
Với Nông Nghiệp:
Ngành cà phê góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong ngành
nông nghiệp nước ta. Nếu như trước kia Việt Nam là một đất nước được biết
đến với sản phẩm là lúa gạo thì ngày nay Việt Nam còn được biết đến với
một mặt hàng nữa đó chính là cà phê. Điều này không chỉ giúp cho người
dân đa dạng được cơ cấu cây trồng trong ngành nông nghiệp mà còn đa dạng
hoá được các mặt hàng trong việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh trong ngành nông nghiệp: hoạt
động sản xuất cà phê gắn liền với hoạt động chế biến cà phê. Vì thế kéo theo
một loạt các dịch vụ của sản xuất nông nghiệp phát triển như: dịch vụ nghiên
cứu giống cây trồng, dịch vụ cung cấp thuốc trừ sâu, phân bón, dịch vụ cung
cấp máy móc thiết bị cho phơi sấy chế biến cà phê, dịch vụ bao gói, dịch vụ
tư vấn xuất khẩu…
Phân bổ lại nguồn lao động trong nền nông nghiệp. Nền nông nghiệp
nước ta trước kia chủ yếu là lao động phục vụ cho ngành trồng lúa nước.
Đây là lao động mang tính chất thời vụ vì thế có một lượng lao động dư thừa
khá lớn trong thời kỳ nông nhàn. Ngành cà phê phát triển kéo theo một
lượng lao động khá lớn phục vụ cho nó. Với quy mô diện tích cà phê ngày
càng mở rộng thì càng cần một đội ngũ lao động lớn. Điều này tạo cho
người dân các vùng miền núi cũng như các vùng đồng bằng chuyên canh lúa
có việc làm thường xuyên, tạo thêm thu nhập cho họ, hạn chế được các tệ
nạn xã hội.
Hạn chế được các vùng đất bị bỏ hoang: Vì đặc điểm của cây cà phê
là thích hợp với những cao nguyên, đồi núi cao nơi đây chưa được khai thác
triệt để… Vì vậy đã hạn chế được các vùng đất bỏ hoang, phủ xanh đất trống
đồi trọc.
Với Kinh Tế – Xã Hội:
Ngành cà phê góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế: ngành cà phê
gắn với cả một quá trình khép kín từ sản xuất đến tiêu dùng. Điều này kéo
theo theo một loạt các ngành kinh tế phát triển như ngành xây dựng các cơ
sở để nghiên cứu giống, ngành thuỷ lợi, ngành giao thông, ngành chế tạo
máy móc,... Vì thế đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các
vùng nơi có cây cà phê phát triển. Điều này góp phần đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá trong nông nghiệp nông thôn.
Ngành cà phê đã góp phần rất lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước.
Hàng năm ngành cà phê đem về cho đất nước từ 1- 1,2 tỷ USD/ năm chiếm
10% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Góp phần giải quyết công ăn việc làm cải thiện đời sống nhân dân. Là
một ngành sử dụng nhiều lao động, xuất khẩu cà phê góp phần tạo ra nhiều
công ăn việc làm, giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp cho nền kinh tế. Theo
Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (Vicofa) thì mỗi năm ngành cà phê thu hút
khoảng 600.000 – 700.000 lao động, thậm chí trong ba tháng thu hoạch số
lao động có thể lên tới 800.000 lao động. Lao động làm việc trong ngành cà
phê chiếm khoảng 2,93% tổng số lao động trong ngành nông nghiệp và
chiếm 1,83% tổng số lao động trên toàn nền kinh tế quốc dân.
II. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000 – 2010
1. SẢN LƯỢNG VÀ KIM NGẠCH:
Ngành cà phê Việt Nam trong một khoảng thời gian không dài - 26
năm kể từ năm 1995 đã có những bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ
lục so với nhiều nước trồng cà phê khác trên thế giới. Cà phê Việt Nam
đứng thứ hai trên thế giới về lượng xuất khẩu và đang có mặt ở nhiều
Châu lục. Tuy nhiên, trước sự biến động của kinh tế thế giới nói chung và
của thị trường cà phê nói riêng, tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam
cũng đã có nhiều thay đổi và ảnh hưởng tương ứng.
Giai đoạn trước năm 2000, xem xét tình hình xuất khẩu cà phê nước ta
qua các vụ 1995/96 đến 1999/2000 có thể thấy sự tăng trưởng nhanh
chóng về lượng xuất khẩu cùng với sự giảm sút nhanh chóng về giá cả.
Niên vụ
1994/95
1995/96
1996/97
1997/98
1998/99
1999/00
2000/01
Xuất (ha)
212.038
221.496
336.242
395.418
404.206
653.678
874.676
Đơn giá bình quân (USD/MT)
2.633,0
1.815,0
1.198,0
1.521,0
1.373,0
823,0
436,6
Nguồn: Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam-
* Giai đoạn 2000 - 2007
So với giai đoạn trước (từ năm 1995 đến năm 1999), trong 7 năm từ
2000 đến 2007, tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam có 2 đặc điểm
lớn là:
sản lượng tăng nhanh chóng cùng với sự gia tăng diện tích cà
phê
giá cà phê giảm mạnh.
- Trong 7 vụ từ 2000/01 đến 2006/07, khối lượng cà phê xuất khẩu
tăng nhanh chóng cùng với sự gia tăng của diện tích trồng. Năm 1975,
toàn quốc mới có 14.000 ha cà phê, sản lượng dưới 5.000 tấn, năng suất 4
tạ/ha. Đến năm 2000, Việt Nam đã mở rộng diện tích trồng cà phê lên
520.000 ha, năng suất bình quân trên 15 tạ/ha. Ta có thể minh chứng rõ
hơn sự tăng vượt bậc đó qua biểu đồ sau:
Diễn biến diện tích và lượng cà phê xuất khẩu trong 26 năm từ 1982 – 2007
Nguồn: VICOFA, theo C/O của VCCI
Đi vào cụ thể từng năm ta thấy: Mặc dù lượng cà phê xuất khẩu tăng
vượt bậc so với giai đoạn trước nhưng lượng tăng hàng năm lại không
lớn và tăng không đều.
Năm
Diện tích
Khối lượng
(ha)
xuất khẩu (MT)
Đơn giá
Giá trị (USD)
bình quân
(USD/tấn)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
535.000
535.000
522.200
509.937
503.241
491.400
488.700
506.000
705.300
844.452
702.018
693.863
889.705
803.647
822.299
1.074.709
464.342.000
658,36
338.094.000
400,37
300.330.686
427,81
446.547.298
643,57
576.087.360
647,53
634.230.772
789,20
976.919.435
1188,00
1.643.457.644
1529,20
Nguồn: VICOFA, theo C/O của VCCI
-Tuy vậy, mặt trái của sự tăng sản lượng và diện tích cà phê chính là
giá cà phê giảm mạnh. Ta sẽ chứng minh cụ thể qua biểu đồ sau:
Diễn biến bình quân của đơn giá xuất khẩu và Kim ngạch xuất khẩu
trong 17 năm từ 1991- 2007
Nguồn: VICOFA, theo C/O của VCCI
Qua biểu đồ trên ta thấy, từ năm 1999, cùng với cộng đồng cà phê thế
giới, ngành cà phê nước ta trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Giá
xuất khẩu liên tục xuống thấp đến mức kỷ lục trong vòng mấy chục năm lại
đây.
+ Hai năm 1999 và 2000 tuy sản lượng mỗi năm tăng trên 200 000 tấn
tức là tăng khoảng 3,5 triệu bao song đơn giá xuất khẩu hai vụ này lại giảm
mạnh, giá vụ sau chỉ bằng xấp xỉ 60% giá vụ trước.
+ Năm 2000, đơn giá xuất khẩu cà phê là 658,36 USD/tấn, trong khi
giá năm 1999 là 1213,60USD/tấn, nghĩa là giảm 1,84 lần.
+ Năm 2001, sự đi xuống của giá cà phê Việt Nam tới mức kỷ lục.
Giá bán FOB cảng Việt Nam quý III/2001 chỉ còn 380,8USD/tấn và quý IV
giảm tiếp còn 321USD/tấn; nghĩa là chỉ bằng gần một nửa giá thành. .
Nguyên nhân của tình trạng này là do giai đoạn trước năm 1998, giá cà
phê trên thị trường thế giới diễn biến theo hướng có lợi cho người sản xuất,
cà phê bán ra được giá cao. Sự kích thích của giá cùng với chính sách đổi
mới của nhà nước phù họp với nguyện vọng của nông dân là làm giàu trên
mảnh đất của mình, dựa và sự cần cù lao động của bản thân mình đã thúc
đẩy cà phê ở Việt Nam phát triển nhanh chóng. Và mặt trái của tác dụng đó
là tình trạng dư cung đẩy giá cà phê giảm nghiêm trọng. Ngành cà phê
Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi vì sản lượng càng lớn thua lỗ càng nhiều.
Từ năm 2003, giá cà phê bắt đầu được cải thiện và giá lên cao vào các
năm 2006 (1188,00 USD/tấn), 2007 (1529,20 USD/tấn). Tuy mức giá này
còn thấp nhiều so với giá cà phê các năm 1994 - 1997 nhưng với người trồng
cà phê thì mức giá trung bình từ 25-30 triệu đồng Việt Nam 1 tấn, và có lúc
lên trên 30 triệu đồng 1 tấn đã có sức hấp dẫn đáng kể. Lúc này lại có hiện
tượng ngược lại trước đây là người ta lại trồng mới, mở mang diện tích cà
phê. Riêng tỉnh Lâm Đồng diện tích cà phê vụ 2007/08 đạt 128.272 ha so
với vụ trước 2006/ 07 tăng 8,4%. Tỉnh Sơn La năm 2007 đã trồng mới 250
ha.
* Giai đoạn 2008-2010:
Thống kê khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
giai đoạn 2007 – tháng 3/2010
- Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt khoảng
2,2 tỷ USD với khối lượng xuất khẩu 1 triệu tấn. Con số này đã giảm 18,6%
về lượng, nhưng lại được tăng 7,2% về trị giá.
- Năm 2009, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới, xuất khẩu cà
phê có sự giảm sút song vẫn đạt mức 1,7 tỷ USD.
- Năm 2010:
+ Quý I: Trong khi hầu hết giá xuất khẩu bình quân của các nhóm
hàng nông sản (gạo, hạt điều, cao su, sắn…) đều tăng thì chỉ riêng có giá mặt
hàng cà phê bình quân giảm tới 7,4% so với cùng kỳ năm 2009, tương ứng
giảm 113 USD/tấn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, đơn giá
xuất khẩu bình quân cà phê trong quý I/2010 đạt mức thấp nhất trong vòng 3
năm qua, chỉ tương đương với mức giá quý IV/2006.
+ Tính chung 8 tháng đầu năm 2010, tổng lượng cà phê xuất khẩu là
855.362 tấn với trị giá 1.225,15 triệu USD, chiếm 2,7% tổng trị giá xuất
khẩu của cả nước, tăng 1,90% về lượng nhưng giảm 1,44% về trị giá so với
cùng kỳ năm 2009.
2. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU:
Hiện nay, cà phê đã trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam, đưa nước ta lên vị trí thị trường xuất khẩu cà phê lớn thứ
2 trên thế giới, chỉ sau Brazin với tỷ trọng chiếm gần 1/4 lượng cà phê xuất
khẩu của thế giới. Cà phê Việt Nam đã xuất khẩu đến 75 quốc gia và vùng
lãnh thổ.
Nếu xem xét thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam theo từng châu lục
thì có thể thấy thị trường lớn nhất là châu Âu với tỷ trọng 61,28%, thấp nhất
là châu Phi chỉ chiếm 3,75%. Ở khu vực châu Á thì Nhật Bản là nước nhập
khẩu lớn nhất với 52 ngàn tấn, Hàn Quốc: gần 40 ngàn tấn.
Châu Âu
Châu Á và châu
Đại Dương
Châu Mỹ
Châu Phi
Cộng
Khối
lượng bình
quân vụ
Thị phần
%
518.107
147.006
148.575
31.677
845.365
61,28
17,39
17,58
3,75
100
Thị trường cà phê Việt Nam bình quân của 7 vụ từ 2000/ 01 đến 2006/ 07
Đơn vị : tấn
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng mở rộng, ngoài
các nước ở châu Âu và Hoa Kỳ, cà phê Việt Nam còn xuất khẩu sang vùng
Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước trong Hiệp hội ASEAN và vùng
Trung Mỹ. Trong đó phải kể đến 10 nước nhập khẩu hàng đầu cà phê Việt
Nam gồm: Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Hàn Quốc,
Anh Nhật Bản. Nhóm 10 nước này chiếm thị phần rất lớn tới ¾ khối lượng
cà phê xuất khẩu của Việt Nam.
Trong 7
vụ cà ph
ê
từ 2000/
01
đến
2006/07, thống kê 10 nước hàng đầu mua cà phê Việt Nam đã mua
4.283.511 tấn cà phê bình quân mỗi vụ mua tới 611.930 tấn chiếm thị phần
tới 73,33%. Còn lại hơn 60 thị trường khác chỉ mua 1.557.556 tấn, bình
quân niên vụ 222.508 tấn chiếm thị phần chỉ có 26,67%. Có thể nói rằng
trong những năm qua trong thời gian không dài, chỉ có hơn 10 năm ngành cà
phê Việt Nam đã có được những thị trường lớn, có thể coi là thị trường
truyền thống của mình bởi lẽ các thị trường này nhập khẩu cà phê Robusta
Việt Nam với khối lượng tương đối lớn và đều đặn cả những năm khủng
hoảng giá thấp và những năm giá cao.
Trong nhiều năm qua, Đức và Hoa Kỳ vẫn là 2 thị trường nhập khẩu
cà phê lớp nhất của Việt Nam với tỷ trọng tính chung khoảng 22% tổng
lượng cà phê xuất khẩu. Số liệu thống kê của ICO cũng ghi nhận Đức và
Hoa Kỳ là 2 thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới nhưng thị phần
của cà phê Việt Nam tại 2 thị trường này trong năm 2008 chỉ đạt tương ứng
là 11.4% và 7,3%.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI
1. Việc quy hoạch sản xuất cà phê còn thiếu đồng bộ và lỏng lẻo.
a. Sản xuất nhỏ lẻ, phân tán.
Trên 80% diện tích cà phê cả nước do các hộ nông dân trực tiếp quản lý, số
diện tích cà phê còn lại thuộc các doanh nghiệp Nhà nước quản lý, nhưng
sau khi thực hiện cơ chế giao khoán đến từng người lao động thì số diện tích
này thực chất cũng do hộ nông dân quản lý. So với nhiều nước trồng cà phê
trên thế giới thì các hộ nông dân trồng cà phê của Việt nam đều thuộc dạng
nhỏ, lẻ, diện tích hẹp trung bình từ 0,5 – 1ha và mang tính tương đối độc lập.
Số hộ gia đình có diện tích lớn trên 5 ha và sản xuất dưới hình thức trang trại
chiếm một tỷ lệ không đang kể. Do hình thức tổ chức sản xuất dưới dạng hộ
gia đình phân tán, nhỏ lẻ và tương đối độc lập dẫn đến suất đầu tư/ tấn sản
phẩm của từng hộ gia đình nói riêng và toàn ngành cà phê nói chung tăng
cao do hộ gia đình nào cũng phải tự mua sắm máy bơm, phương tiện vận
chuyển, máy xay xát v.v… đầu tư xây dựng sân phơi, kho tàng, v.v… nhưng
hiệu quả sử dụng thấp vì chỉ sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn trong
năm từ đó làm tăng chí phí sản xuất dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Việc tiếp
cận với những tiến bộ khoa học công nghệ cũng như các dịch vụ khác như
vay vốn tín dụng, ngân hàng v.v… cũng hết sức khó khăn, do diện tích nhỏ,
manh mún và khả năng tài chính hạn hẹp. Nguồn tài nguyên bị khai thác cạn
kiệt, trong đó đặc biệt là nguồn nước ngầm và tài nguyên rừng. Cũng do
hình thức tổ chức theo kiểu sản xuất, nhỏ lẻ, phân tán và tính độc lập tương
đối của các hộ gia đình nên sản phẩm làm ra không những chất lượng không
cao mà còn không ổn định do điều kiện hiểu biết và mức độ đầu tư cho khâu
thu hái chế biến khác nhau, từ đó làm cho chất lượng cà phê của toàn ngành
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc xây dựng thương hiệu, chứng chỉ chất
lượng hàng hóa khó có thể thực hiện được
b. Nhiều diện tích cà phê đã chuyển sang giai đoạn gìà cỗi, phát triển
không theo quy hoạch.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt nam thì trong tổng
số trên 500.000 ha cà phê của cả nước hiện nay chỉ có khoảng 274.000ha,
chiếm 54,8% được trồng ở giai đoạn sau năm 1993, trong độ tuổi từ 10 – 15
năm. Đây là số diện tích cà phê đang ở giai đoạn sung sức và cho năng suất
cao nhất. Trong những năm tới sản lượng cà phê Việt nam phụ thuộc chủ
yếu vào diện tích này. Trong khi đó số diện tích cà phê còn lại có 139.600 ha
, chiếm 27,9% được trồng trong giai đoạn từ 1988 – 1993, đến nay ở tuổi từ
15 – 20 năm, phần lớn diện tích này đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn già cỗi
và khả năng cho năng suất giảm dần. Số diện tích cà phê trồng từ trước năm
1988 đến nay đã trên 20 năm tuổi có tới 86.400ha chiếm 17,3%. Những diện
tích này đã già cỗi và không còn khai thác có hiệu quả cần phải được thay
thế.
Như vậy có thể thấy rằng trong thời gian 5 – 10 năm tới sẽ có trên 50% diện
tích cà phê của Việt nam đã hết thời kỳ kinh doanh có hiệu quả phải cưa đốn
phục hồi hoặc phải trồng lại. Cùng với diện tích cà phê già cỗi tăng lên thì
tổng sản lượng cà phê của cả nước sẽ giảm xuống, không còn khả năng duy
trì ở con số khoảng 1 triệu tấn như hiện nay.Thực tế trong những năm qua đã
có hàng chục ngàn ha cà phê bị bệnh không có khả năng phục hồi phải thanh
lý và nhiều diện tích cà phê già cỗi sau khi thanh lý cũng không có khả năng
trồng lại được cà phê. Bên cạnh đó diện tích càphê già cỗi tăng nhanh song
việc tái canh cây càphê đang gặp khó khăn cũng đang là một vấn đề nan giải
của ngành càphê. Hiện diện tích càphê trên 15 năm tuổi chiếm gần 50%,
trong đó có khoảng 20% diện tích càphê trên 25 năm tuổi trong khi vòng đời
cây càphê chỉ 20 năm.
2. Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam còn thấp
Do sản xuất quy mô nhỏ lẻ manh mún nên việc thu hoạch, chế biến và bảo
quản cà phê còn kém, dẫn đến chất lượng không ổn định, chưa đáp ứng được
yêu cầu của thị trường. Vì vậy, cà phê Việt Nam thường được bán với giá
thấp hơn các mặt hàng cà phê cùng loại khác trên thị trường. Hơn nữa mặc
dù đã có bộ tiêu chuẩn chất lượng 4193/2005 do Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn ban hành nhưng do việc áp dụng là tự nguyện nên trên thực
tế chỉ có một số ít doanh nghiệp áp dụng và chất lượng café Việt Nam vẫn
chưa được nâng cao.
3. Xây dựng thương hiệu café Việt
Trong thời gian qua mặc dù chúng ta đã chú trọng tới việc xây dựng và phát
triển thương hiệu café nhưng trên thực tế vẫn chỉ có một số ít doanh nghiệp
Việt Nam làm được việc đó và có đủ sức cạnh tranh. Hơn nữa mặc dù là
nước xuất khẩu lớn thứ hai thế giới và lớn thứ nhất về xuất khẩu café
Robusta nhưng xuất khẩu café của chúng ta chủ yếu là xuất khẩu café nhân,
chất lượng thấp nên không nâng cao được chuỗi giá trị gia tăng và chưa thực
sự xây dựng được thương hiệu quốc gia
IV. CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU CAFE
1. Tổng quan chính sách trong thời gian qua
Hiện nay Việt Nam đã trở thành một cường quốc đứng thứ hai thế giới về
xuất khẩu café. Và thực tế café cũng đã có những đóng góp to lớn vào
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. để có được vị thế đó, bên cạnh
những yếu tố thuận lợi về mặt vị trí địa lý, đất đai, điều kiện khí hậu và
nguồn nhân lực là những chính sách của nhà nước không ngừng được ban
hành và ngày càng được hoàn chỉnh theo sát với tình hình thực tế trong
những năm qua đối với việc phát triển hoạt động sản xuất trong nước và
khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong thập kỷ 90, ngành cà phê cũng được lợi và khuyến khích phát
triển nhờ các chính sách như cho phép các công ty tư nhân nhập khẩu phân
bón (năm 1998), giảm thuế nhập khẩu phân bón xuống dưới 5%, luật doanh
nghiệp ra đời đã khuyến khích các trang trại tư nhân tham gia sâu rộng hơn
vào hoạt động kinh doanh
Chỉ từ năm 2000 đến nay, các chính sách của nhà nước liên tục được
ban hành nhằm khắc phục những ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng giá
gây ra và định hướng phát triển bền vững ngành cà phê Việt Nam. Các chính
sách bao gồm:
(i)
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tăng lượng hàng xuất
khẩu thông qua chính sách thưởng xuất khẩu;
(ii)
Thu mua tạm trữ cà phê nhằm hạn chế tốc độ giảm giá cà phê trên
thị trường trong nước và quốc tế;
(iii)
Chính sách tín dụng ưu đãi như khoan nợ, giãn nợ, lãi suất thấp
cho các đối tượng tham gia trồng, chế biến và tiêu thụ cà phê;
(iv)
Cấp đất, gạo, vải cho người trồng cà phê nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số.
(v)
Giảm thuế đất nông nghiệp 50% cho các hộ trồng cà phê.
(vi)
Cho phép công ty nước ngoài xuất khẩu cà phê
(vii)
Giảm 40.000 ha diện tích trồng cà phê ở những vùng đất không
thuận lợi
(viii)
Sắp xếp lại tổng công ty cà phê Việt Nam
(ix)
Ban hành quy định chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
(x)
Định hướng sản xuất cà phê chất lượng cao và bền vững, thay thế
dần phương thức sản xuất cũ
Nhà nước cũng có những chính sách dài hạn như:
Ngày 20 tháng 6 năm 2005, thủ tướng chính phủ ra quyết định phê duyệt
quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, thuỷ sản cả nước đến năm
2010 và tầm nhìn 2020. trong đó đối với cây café, tiếp tục giảm số diện tích
ở những địa bàn ít thích hợp, không có tưới, năng suất thấp, ổn định diện
tích 450-500 ngàn ha, xác định cơ cấu café chè phù hợp ở những vùng có
điều kiện thích hợp. bố trí diện tích chủ yếu ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ
và duyên hải Bắc Trung Bộ.
Ngày 26 tháng 08 năm 2008, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra
quyết định phê duyệt nâng cao năng lực cạnh tranh của café Việt Nam đến
năm 2015 và định hướng năm 2020. trong đó, Nâng cao năng lực cạnh tranh
của cà phê Việt Nam trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế so sánh của sản phẩm
trên thị trường xuất khẩu và nội địa; phát triển toàn diện, bền vững, hiện đại
hóa đồng bộ các khâu: sản xuất nông nghiệp – chế biến công nghiệp – giao
dịch thương mại. Đến năm 2020, toàn bộ sản phẩm cà phê Việt Nam được
sản xuất – chế biến hợp chuẩn, hợp quy, giao dịch bình đẳng tại các sàn giao
dịch trong nước và nước ngoài với giá bán ngang bằng hoặc cao hơn giá sản
phẩm cùng loại trên thị trường; giá trị gia tăng của sản phẩm do yếu tố chất
lượng mang lại tăng từ 30 - 50% (tính theo giá cố định); hạn chế tối đa
những thiệt hại đối với ngành cà phê do sự biến động bất lợi của thị trường
thế giới; góp phần ổn định cuộc sống, cải thiện thu nhập của người trồng cà
phê, trong đó phần đông là đồng bào các dân tộc thiểu số; nâng cao lợi
nhuận của doanh nghiệp và vị thế của cà phê Việt Nam trên trường quốc tế;
đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước
Như vậy có thể thấy các chính sách trên được ban hành với hai mục đích
chính. Đó là:
- Phát triển café theo hướng bền vững. trong đó bao gồm việc ổn định việc
diện tích đất canh tác, sản lượng cũng như số lượng xuất khẩu. Trong đó
nhấn mạnh chỉ trồng ở những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho năng
suất cao. Đồng thời việc ổn định về diện tích và sản lượng cũng nhằm đối
phó với tình trạng dư cung và rớt giá của café. Phát triển việc canh tác theo
chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng
cạnh tranh và củng cố vị thế của nước ta so với các cường quốc xuất khẩu
café khác trên thị trường thế giới.
- Nhóm chính sách thứ hai là tập trung vào việc hỗ trợ xuất khẩu.
Hiệu quả của chính sách
Không thể phủ nhận thực tế rằng các chính sách của nhà nước đã thúc đẩy
sự phát triển nhanh chóng của ngành café. Chất lượng hạt café Việt Nam
trong thời gian qua cũng tăng lên và nước ta đã có được một số thương hiệu
café nổi tiếng, có đủ sức cạnh tranh vơi thế giới. Tuy nhiên trên thực tế hiệu
quả của các chính sách vẫn còn nhiều hạn chế
Các chính sách như thưởng xuất khẩu, thu mua tạm trữ hay cho vay
tín dụng … đều chủ yếu là các chính sách tình thế để ứng phó với cuộc
khủng hoảng giá.Tuy nhiên, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu ICARD,
OXFAM Anh và Hongkong, các chính sách khắc phục tình hình nêu trên có
tác động tích cực nhưng không lớn.
Về chính sách giảm diện tích trồng cà phê ở những vùng đất không
thuận lợi, cho đến nay, Bộ Nông nghiệp vẫn chưa thống nhất được phương
pháp về điều kiện đất, khí hậu, các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường để xác
định các khu vực không thuận lợi cần giảm diện tích.
Việc thực hiện xuất khẩu cà phê theo quy định chất lượng do Bộ
Thương mại ban hành vẫn gặp nhiều khó khăn do chưa có cơ quan kiểm
định chất lượng thường xuyên giám sát việc này. Trong các tháng 10/2005
và tháng 3/2006, có đến 88% cà phê bị thải loại trên thị trường thế giới là cà
phê của Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam xuất phần lớn cà
phê xô, sau đó các doanh nghiệp, nhà máy chế biến mới đem về sơ chế, phân
loại nên lượng cà phê của Việt Nam loại ra khá lớn. Mặc dù bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn đã ban hành bộ tiêu chuẩn chất lượng café
4193/2005 tuy nhiên việc thực hiện những quy định này vẫn còn nhiều
vướng mắc. Nâng cao chất lượng cà phê, vì vậy vẫn còn là vấn đề khó khăn
mà ngành nông nghiệp cần giải quyết.
Để làm rõ hơn về tác động của chính sách đối với tình hình sản xuất và xuất
khẩu café, nhóm đã đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu và phân tích một cách cụ
thể chính sách thu mua tạm trữ café mà nhà nước ta đã thực hiện trong các
năm qua và đặc biệt là việc thu mua tạm trữ 200.000 tấn café trong năm nay.
Đây là một hành động của nhà nước đối phó với biến động bất lợi về giá trên
thị trường thế giới. Tuy nhiên chúng em vẫn quyết định việc lựa chọn phân
tích chính sách này không chỉ bởi đây là một vấn đề đang được xã hội quan
tâm hiện nay mà còn vì thông qua việc phân tích chính sách này chúng ta sẽ
hiểu được phần nào tầm quan trọng của nhà nước, vai trò của chính sách và
hiệu quả thực tế của chính sách đó. Có thể vấn đề cần quan tâm hiện nay là
các chính sách mang tính dài hạn hơn như việc xây dựng thương hiệu café
Việt, tuy nhiên do không có được đầy đủ tài liệu và thực tế chưa phản ánh
rõ hiệu quả của các chính sách đó nên chúng em xin phép được phân tích
chính sách đó khi có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu.
2. Chính sách thu mua tạm trữ 200.000 tấn café
a. Bối cảnh
Xu hướng giảm giá cà phê thế giới diễn ra suốt cả năm 2009 nhưng xen kẽ
giữa các giai đoạn giảm giá luôn có khoảng phục hồi trong thời gian ngắn.
Bắt đầu từ tháng 11/2009 giai đoạn giảm giá kéo dài liên tục sang tới nửa
đầu năm 2010. Giá cà phê Robusta thế giới chạm tới mốc thấp nhất trong
vòng 5 năm vào thời điểm tháng 2/2010, chỉ đạt khoảng 1.500 USD/tấn.
Tương ứng, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm mạnh và chạm
mốc thấp nhất trong vòng 5 năm vào tháng 3/2010, chỉ đạt 1.256USD/tấn.
Cùng với sự sụt giảm giá cà phê Robusta thế giới và giá xuất khẩu, giá thu
mua trong nước năm 2009 giảm mạnh, trung bình chỉ đạt 24.649 đồng/kg,
giảm tới 31% so với mức giá trung bình năm 2008. Tháng 3/2010 giá thu
mua trong nước tụt xuống mức thấp nhất còn 22.350 đồng/kg.
Đứng trước tình trạng giá cà phê xuất khẩu xuống đến mức thấp kỷ lục trong
vòng 5 năm và giá cà phê thu mua trong nước cũng giảm tương ứng khiến
người trồng cà phê lâm vào tình trạng lao đao, nhà nước đã ban hành chính
sách thu mua tạm trữ café để ngăn chặn đà giảm giá
b. Nội dung chính sách
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại
công văn số 661/BNN-KH ngày 10 tháng 3 năm 2010, ý kiến của các Bộ:
Công Thương, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Uỷ ban nhân
dân các tỉnh có sản lượng cà phê lớn trong cuộc họp ngày 09 tháng 4 năm
2010 tại Văn phòng Chính phủ, thủ tướng chính phủ đã ký ban hành “quyết
định về mua tạm trữ café niên vụ 2009-2010”. Trong đó đồng ý việc mua
tạm trữ tối đa 200.000 tấn cà phê sản xuất niên vụ 2009 - 2010; thời hạn mua
cà phê tạm trữ tính từ ngày 15 tháng 4 năm 2010 đến 15 tháng 7 năm 2010.
Nhà nước thực hiện hỗ trợ lãi suất với mức 6%/năm đối với số cà phê
mua tạm trữ; thời gian tạm trữ được hỗ trợ lãi suất tối đa là 6 tháng, tính từ
ngày 15 tháng 4 năm 2010 đến ngày 15 tháng 10 năm 2010; kinh phí hỗ trợ
lãi suất do ngân sách nhà nước cấp.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo ngân hàng thương mại cân đối
đủ vốn cho các doanh nghiệp vay thu mua cà phê, kể cả cà phê tạm trữ; thực
hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ, giãn nợ đối với các khoản nợ vay của các
hộ trồng cà phê đến hạn trả nhưng có khó khăn chưa trả được nợ, đồng thời
cho vay tiếp để các hộ trồng cà phê có vốn sản xuất vụ mới.
c. Hiệu quả của chính sách
Dường như vị thế nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới đã tăng thêm
sức nặng cho chính sách tạm trữ cà phê của Việt Nam. Không chỉ giá cà phê
trong nước có phản hồi tích cực sau khi tin tức về chính sách này được đưa
ra mà giá cà phê Robusta thế giới cũng quay đầu tăng mạnh.
Giá cà phê thu mua trong nước đã tăng từ mức trung bình 22.500đ/kg trong
tháng 3 lên tới trên 23.500đ/kg vào tháng 4 và tiếp tục tăng đến trên
27.000đ/kg, tương ứng, mức giá cà phê xuất khẩu cũng tăng từ trung bình
1.250
USD/tấn
lên
tới
trên
1.500
USD/tấn
Giá cà phê Robusta trên thị trường thế giới trong khoảng thời gian tương
ứng cũng tăng từ 67,25 cent/lb (1494 USD/tấn) lên 71,52 cent/lb (1589
USD/tấn) vào tháng 4, hiện nay là 85.36 cent/lb (1.897 USD/tấn)
Ngày 29-7-2010, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức họp đánh giá tình
hình triển khai Quyết định 481/QĐ-TTg của Thủ tướng. Thành phần tham
gia có đại diện Văn phòng Chính phủ, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Ngân
hàng Nhà nước, Hiệp hội Cà phê- Ca cao Việt Nam và các doanh nghiệp,
các tỉnh có sản xuất kinh doanh cà phê. Theo đánh giá của các bộ ngành,
Hiệp hội Cà phê- Ca cao và các doanh nghiệp thì chính sách thu mua tạm trữ
cà phê đã thành công vì đạt được các mục tiêu đề ra đó là: Đẩy giá cà phê
lên mức chấp nhận được để người sản xuất có lãi, giúp các tổ chức, cá nhân
yên tâm đầu tư sản xuất cà phê; cứu các doanh nghiệp và người dân còn tích
trữ cà phê từ nguy cơ thua lỗ. đồng thời cũng tạo áp lực trên thị trường để
nâng giá café Robusta, tăng kim ngạch xuất khẩu cho café Việt Nam cũng
như giúp ngành café Việt Nam phát huy được thế mạnh của mình và phát
triển bền vững. đến tại thời điểm diễn ra hội nghị, các địa phương đã thu
mua được hơn 60.000 tấn với tổng giá trị đạt 1400 tỷ đồng đạt trên 30% kế
hoạch
d. Những tồn tại
Nhưng trên thực tế, trong sáu tháng đầu niên vụ (tháng 10/2009- tháng
3/2010) Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 69% tổng sản lượng toàn niên vụ
09/10 (ước tính vào khoảng 900.000 tấn). Tức là tính đến thời điểm dự thảo
chính sách tạm trữ được đưa ra trình thủ tướng thì gần 2/3 tổng sản lượng cà
phê của Việt Nam đã được đưa ra thị trường thế giới. Lượng xuất khẩu trong
tháng 4/10 tiếp tục đạt 117,7 nghìn tấn (13% tổng sản lượng).
Như vậy, vào tháng 4/2010 khi thủ tướng chính phủ chính thức ban hành QĐ
841với các chỉ tiêu cụ thể: tạm trữ tối đa 200.000 tấn cà phê, thời hạn tạm
trữ 3 tháng, lãi suất hỗ trợ đối với các doanh nghiệp thu mua tạm trữ là 6%...
thì lượng cà phê niên vụ 09/10 xuất khẩu ra thế giới đã đạt 743.000
tấn/900.000 tấn hay lượng cà phê tồn lại trong nước chỉ còn khoảng 150.000
tấn.
Con số này có nghĩa là phần lớn cà phê đã được thu mua và xuất khẩu trong
giai đoạn giá thấp. Chỉ một thiểu số người trồng cà phê có cơ hội được đảm
bảo mức lợi nhuận tối thiểu 30%.
Điều này cũng có nghĩa là niên vụ vừa qua bước đi sai lầm của các năm
trước tiếp tục lặp lại: xuất khẩu ồ ạt ngay khi vừa thu hoạch xong. Giá cà
phê thế giới giảm sâu trong giai đoạn tháng 11- tháng 4 phần nào cũng là do
động thái tăng cung này của Việt Nam. Nếu như chính sách tạm trữ được bắt
đầu sớm hơn, và việc điều tiết thời điểm xả hàng/xuất khẩu phù hợp thì
ngược lại, ngành cà phê Việt Nam còn có thể tạo ra áp lực trở lại với các
biến động cung và giá trên thị trường thế giới, đặc biệt là trong những thời
điểm khi các quốc gia sản xuất cà phê theo niên vụ tháng 4 chưa bước vào
thời vụ thu hoạch khiến nguồn cung cà phê thế giới còn hạn chế.
Chính sách tạm trữ cà phê đi liền với nó là các giải pháp hỗ trợ tài chính như
cho vay với lãi suất ưu đãi tuy nhiên đến trung tuần tháng 6 các doanh
nghiệp mới tiếp cận được vốn vay, tức là chậm hơn hai tháng. Thủ tục rườm
rà, trình tự xét hồ sơ lòng vòng khiến cho doanh nghiệp không vay đủ vốn
khi cơ hội đến. Việc chênh nhau giữa cung và cầu khiến cho cả nông dân và
doanh nghiệp đều thiệt hại. thời điểm giá café ở mức 1220 USD/tấn doanh
nghiệp không có vốn để mua tạm trữ nay giá đã tăng lên trên dưới 1700
USD/tấn doanh ngiệp dẫu vay được vốn vẫn không thể mua được café vì
lượng café đã hết do nông dân bán non từ trước. Trong khi đó doanh nghiệp
Việt Nam không có khả năng dự trữ cà phê mà thường xuất khẩu ngay khi
có hợp đồng và thực hiện theo các các nguyên tắc trừ lùi và chưa chốt giá để
quay vòng vốn nhanh. Kết quả là, cà phê Việt Nam trên các sàn giao dịch
hàng hóa London và NewYork luôn bị ép giá.
Có chăng, hiệu quả của chính sách này chính là tác động tâm lý phần nào tới
người sản xuất cà phê Việt Nam và thị trường thế giới.
Sau khi tin tức về chính sách tạm trữ cà phê được công bố, tháng 5/2010 giá
cà phê thu mua trên thị trường Việt Nam đã nhích lên. Giá cà phê thế giới
cũng bắt đầu hồi phục gần như cùng thời điểm. Thực chất đây chỉ là tác
động tâm lý, vì lượng cà phê còn tồn của Việt Nam vào thời điểm này là
không đáng kể.
Tóm lại, chính sách tạm trữ cà phê đã ra đời quá muộn so với diễn biến thực
tế nên không đạt được các mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, nếu coi đây là một thử
nghiệm để đi đến hoàn thiện cơ chế điều tiết ngành hàng thì thử nghiệm này
đã đem lại nhiều bài học với những người làm chính sách và cả các doanh
nghiệp.
e. Những giải pháp khắc phục
Chính sách thu mua tạm trữ café là một chủ trương đúng đắn của nhà nước
trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân yên tâm sản xuất và mua bán
café. Thế nhưng mặc dù chủ trương đúng và chính sách đã có, việc thực hiện
lại không hiệu quả. Để khắc phục tình trạng đó, nhóm xin đưa ra một số
nhận xét và giải pháp như sau:
Về thời gian thực hiện: như đã thấy ở trên chính sách đã diễn ra chậm hơn so
với tình hình thực tế nên khi có chính sách thì nông dân đã bán phần lớn café
và không được hưởng lợi. do đó Tốt nhất là thu mua dự trữ bắt đầu từ tháng
11 dương lịch hàng năm, tức là lúc nông dân cần tiền để thanh toán công nợ
đầu tư, trả lương cho nhân công thu hái.
Cùng với chính sách thu mua tạm trữ café, nhà nước có hỗ trợ doanh nghiệp
được vay vốn với lãi suất thấp. tuy nhiên thủ tục rườm rà doanh nghiệp khó
tiếp cận nguồn vốn. hơn nữa một mình ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn khó có thể vừa đảm bảo lập tức nguồn vốn vay, vừa triển khai cấp
vốn. Do đó không nên tập trung vào một ngân hàng mà cần mở rộng cho 3-4
ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp được lựa chọn cũng phải tuyển kĩ càng
hơn, chỉ sử dụng những doanh nghiệp có khả năng tài chính , có thị trường,
mạng lưới mua hàng, kho dự trữ. Thêm nữa là thời gian tạm trữ 3 tháng là
qua ngắn và chúng ta vẫm chạy theo giải quyết sự việc. Do đó nhà nước nên
tăng thời gian tạm trữ lên 6-9 tháng để doanh nghiệp chủ động phân kì tiêu
thụ.