C. KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP......................................................................21
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ: ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH
THUỶ SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐỒNG HỚI
A. MỞ ĐẦU
Ở nước ta, nuôi trồng thuỷ sản được xem là một ngành kinh tế mũi
nhọn đóng góp một phần qua trọng vào GDP của đất nước. Trong đó Quảng
Bình là một tỉnh có tiềm năng rất lớn để phát triển nghàn với đối tuơng nuôi
khá phong phú như: Tom thẻ chân trắng, tôm sú, cua…và các đối tượng nuôi
nước ngọt như: Cá trắm cỏ, coa mè, cá ro phi, cá trê lai, cá chim…
Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi thuỷ sản mang lại hiệu quả khá khả
quan, một số hộ đã xoá đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu, ngành cũng đã
có sự đầu tư của các nhà đầu tư lớn, ngành không còn ở mức độ hộ gia đình
mà có những trang trại nuôi lớn.
Nhưng những năm gần đây do môi truờng thay đổi, phát triển nghề nuôi
thiếu quy hoạch, con giống không qua kiểm dịch… làm cho tình hình dịch
bệnh gia tăng ảnh hưởng đến hiệu quả của người nuôi.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nghiên cứu các loại bệnh thường xảy
ra trên các đối tượng thủy sản nuôi chúng tôi đã lựa chọn và nghiên cứu
chuyên đề: “Điều tra tình hình dịch bệnh trên các đối tượng nuôi thủy sản
ở địa bàn Đồng Hới-Quảng Bình".
B. NỘI DUNG
I. Tình nuôi thuỷ sản ở tỉnh quảng bình
Đến nay, tổng diện tích nuôi thủy sản mặn lợ của toàn tỉnh Quảng
Bình là 1.622 ha, với sản lượng nuôi 3.320 tấn (trong đó tôm nuôi chiếm
khoảng 92% sản lượng), còn lại là các loại thủy sản khác như: cua, rô phi, cá
mú, cá chẽm. Trong đó diện tích nuôi vụ 1 gần 1.200 ha (nuôi tôm sú 600ha,
nuôi tôm chân trắng 600 ha), tập trung chủ yếu ở huyện Quảng Trạch (466
ha), Bố Trạch (440 ha), TP Đồng Hới (200 ha), Quảng Ninh (120 ha). Tại
các vùng nuôi tôm trọng điểm như: vùng nuôi Phúc - Thuận (xã Quảng
Phong - Quảng Trạch), Bảo Ninh (Đồng Hới), Võ Ninh, Hàm Ninh (Quảng
Ninh)... hầu hết bà con đã thực hiện xong công tác cải tạo ao hồ, kênh
mương để tạo sự thông thoáng, lưu thông nguồn nước phục vụ sản xuất của
địa phương.
Tại các địa phương như Đồng Trạch (Bố Trạch), Quảng Phong
(Quảng Trạch), Hà Thiệp (Quảng Ninh)... bà con nông dân đã cùng tổ chức
cải tạo ao nuôi đồng loạt bằng cách tiến hành loại bỏ lớp mùn bã tầng hữu cơ
ra khỏi đáy ao nuôi, bỏ vôi trắng và phơi nắng đáy hồ trong thời gian khoảng
1 tuần, bồi đắp những nơi bờ ao bị sạt lở, tu bổ mương. Đối với những vùng
nuôi trên cát như: Bảo Ninh (Đồng Hới), Nhân Trạch (Bố Trạch), Hồng
Thủy (Lệ Thủy)... do có đặc thù riêng (thả nuôi 3-4 vụ/năm) nên các hộ và
đơn vị tham gia nuôi thường sau mỗi vụ thu hoạch đã dành thời gian cải tạo
ao ít nhất là 20 ngày nhằm hạn chế mầm bệnh lây truyền từ vụ trước sang vụ
sau.
3
Năm 2009, các hộ nuôi và các đơn vị tham gia đã thả khoảng 550
triệu con tôm giống (cả 3 vụ) gồm: 63 triệu con tôm sú loại P15 và 487 triệu
con tôm thẻ tôm trắng, nhưng 6 trại tôm giống trên địa bàn tỉnh chỉ có khả
năng sản xuất và dịch vụ được khoảng 65 triệu con (trong đó sản xuất được
17,7 triệu con PL15 tôm sú), chiếm 24,5% lượng tôm giống cung ứng trên
địa bàn.
Năm 2010 Trung tâm đã chủ động sản xuất và dịch vụ trên 30 triệu
con giống tôm sú và 70 triệu con giống tôm thẻ nhằm đáp ứng khoảng 30-
35% nhu cầu giống thủy sản mặn lợ trong toàn tỉnh.
II. Một số bệnh điều tra trên tôm
1. Bệnh trên tôm thẻ chân trắng
1.1. Bệnh đốm trắng ( White spot disease )
a) Những hiểu biết chung về bệnh đốm trắng
* Bệnh đốm trắng do virus
Tác nhân gây bệnh:
Tác nhân gây bệnh đốm trắng là virus hội chứng đốm trắng (WSSV) hoặc
virus đốm trắng (WSV), loại virus có DNA mạch đôi (dsDNA).
- Về đặc điểm của nhóm virus này là: Hình que, chiều dài từ 250 – 380 nm,
chiều ngang từ 80 – 120 nm
- Về cấu tạo cơ thể gồm có 3 phần là: Nhân dsDNA, vỏ (capsid) và màng vỏ
( glucid, lipid, protein, men ).
Hình 3: Cấu tạo của virus đốm trắng
Dấu hiệu bệnh lý
4
- Tôm thẻ chân trắng bị bệnh đốm trắng thường thể hiện dấu hiệu khả năng
tiêu thụ thức ăn giảm sút rõ ràng, cá biệt có trường hợp tăng cường độ bắt
mồi hơn bình thường, sau vài ngày mới có dấu hiệu bỏ ăn.
- Tôm bệnh thường dạt bờ, bơi lờ đờ với dấu hiệu đặc trưng là xuất hiện các
đốm trắng tròn dưới lớp vỏ kitin, đặc biệt là các đốm trắng tập trung ở giáp
đầu ngực và đốt bụng cùng. Những đốm trắng thường có đường kính từ 0.2
– 2 mm
- Tôm bệnh có thể chuyển sang màu hồng đỏ. Hiện tượng chết có thể xảy ra
ngay sau đó, tỷ lệ chết cao, có thể tới 90 – 100% trong vòng 3 – 7 ngày.
- Thường liên quan đến sự xuất hiện của bệnh đỏ thân.
- Những dấu hiệu khác: đầu tiên thấy tôm ở tầng mặt và dạt vào bờ, bỏ ăn,
hoạt động kém, các phần phụ bị tổn thương, nắp mang phồng lên và vỏ có
nhiều sinh vật bám.
Hình 4: Tôm bị bệnh đốm trắng, vỏ đầu ngực thấy rõ các đốm trắng
+ Dấu hiệu bệnh tích:
Những tế bào bị nhiễm virus có nhân tế bào phình to, trong đó có chứa chất
duy nhất một thể vùi (Inclusion bodies) hình cầu hoặc hình trứng bắt màu
thuốc tím hồng của Hematoxylin.
Nguyên nhân và biện pháp phòng, trị bệnh
Nguyên nhân:
Có rất nhiều nguyên nhân xảy ra dịch bệnh đốm trắng như:
- Do con giống có mang mầm bệnh. Theo phản ánh của người nuôi ở vùng
nghiên cứu thì mặc dù hầu hết các hộ đều sử dụng con giống đã qua kiểm
5
dịch (trừ một số hộ sử dụng con giống Trung Quốc chưa qua kiểm dịch)
nhưng do khâu kiểm dịch không đảm bảo nên con giống vẫn mang mầm
bệnh.
- Do môi trường nuôi không đảm bảo, người nuôi thiếu kinh nghiệm trong
việc quản lý các yếu tố môi trường (không đo nhiệt độ, hàm lượng khí độc
thường xuyên), trong khi đó người nuôi lại thả với mật độ rất cao (trung bình
158 con/m
2
, có hộ còn thả với mật độ từ 200 – 300 con/m
2
). Trong khi theo
khuyến cáo của ngành là từ 60 – 80 con/m
2
. Chính do mật độ lớn đã làm cho
môi trường nhiễm chất hữu cơ nặng và đây là môi trường “lý tưởng” để
virus đốm trắng phá hoại.
- Do lây lan từ hộ này qua hộ khác. Ở đây, ao nuôi của các hộ quá gần nhau;
mặt khác hầu hết các hộ nuôi không sử dụng ao lắng, ao xử lý nước mà chủ
yếu lấy nước vào và thải nước trực tiếp ra môi trường. Vì vậy khi một hộ
nuôi bị nhiễm thì các hộ khác cũng không tránh khỏi.
- Do các hộ nuôi không tuân thủ lịch thời vụ nên tôm dễ bị bệnh và vụ chính
phải hứng chịu bệnh tồn lưu trong môi trường. Trong khi điều tra chúng tôi
thấy một số hộ nuôi đang xuất bán tôm, một số hộ khác mới thả giống, còn
một số hộ nữa thì đang cải tạo ao. Nói chung, ở đây không có sự thống nhất
giữa các hộ nuôi. Đây cũng là nguyên nhân làm cho dịch bệnh dễ bùng phát.
- Do công tác cải tạo ao sau khi tôm bị bệnh chưa đảm bảo nên nhiều hộ
nuôi có tôm bị bệnh liên tục giữa các vụ nuôi.
Biện pháp phòng bệnh
+ Đối với nguồn bệnh:
- Sử dụng tôm bố mẹ không mang mầm bệnh trong sinh sản nhân tạo.
- Chọn đàn giống không nhiễm virus bằng kỹ thuật PCR.
- Hạn chế tối đa không để các loài giáp xác hoang dã nhiễm bệnh trở thành
nguồn bệnh bằng cách khi có ao nuôi tôm bị bệnh không xả nước chưa xử lý
ra kênh làm ô nhiễm nguồn nước. Nước ao khi bị nhiễm WSD cần dùng
chlorine > 70 ppm để xử lý trước khi thải ra môi trường.
- Khi có dấu hiệu bị bệnh phải vớt ngay những con lờ đờ, tấp mé và những
con chết ra khỏi ao để tránh mầm bệnh lây lan.
6
+ Đối với nhân tố trung gian truyền bệnh:
- Nhất thiết phải có ao lắng, nước được xử lý để ít nhất 5 ngày. Xử lý nước
có thể dùng formol 30 – 50 ppm, clorine 30 – 60 ppm... để làm mất khả năng
cảm nhiễm tự do của virus trong môi trường nước.
Công nhân, dụng cụ cũng có thể là nhân tố trung gian truyền bệnh.
+ Đối với động vật cảm thụ:
Tăng sức đề kháng cho tôm đặc biệt giai đoạn 1 – 2 tháng sau khi thả nuôi
bằng cách:
Quản lý tốt môi trường nuôi, quản lý tốt thức ăn, bổ sung vitamin C và
khoáng vi lượng..
Biện pháp trị bệnh
Đến nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị bệnh này. Một số nghiên cứu
cho thấy một số loại thảo dược như dịch chiết cây chó đẻ răng cưa, cây cỏ
sữa lá nhỏ, tỏi… có khả năng tốt trong điều trị bệnh đốm trắng gây ra trên
tôm nuôi. Nhưng đến nay vẫn chưa có thống kê rõ ràng công dụng của
những loại thảo dược này.
*) Bệnh đốm trắng do vi khuẩn
Những năm gần đây, một hội chứng bệnh khác ở tôm có nhiều biểu
hiện lâm sàng là các đốm trắng đã được xác định và thông báo với cái tên là
“hội chứng vi khuẩn đốm trắng” (BWSS), (Wang và cộng sự 1999 – 2000).
Vì những biểu hiện lâm sàng tương tự như vậy nên đã gây sự lúng túng
trong khi kiểm tra sơ bộ bệnh đốm trắng bằng kỹ thuật PCR cơ bản, tôm có
những biểu hiện lâm sàng của virus bệnh đốm trắng lại cho kết quả âm tính.
Những ảnh hưởng lâm sàng của hội chứng vi khuẩn đốm trắng nhỏ hơn rất
nhiều so với bệnh đốm trắng, mặc dù người ta lưu ý rằng nếu bị nhiễm nặng
có thể làm giảm sự lột xác và tốc độ lớn.
Tác nhân gây bệnh: Vi khuẩn Bacillus subtilis
Dấu hiệu bệnh lý: Tôm sinh trưởng bình thường không có dấu hiệu
tôm bị chết. Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục nhìn thấy trên vỏ khắp cơ
thể, khi bóc vỏ ra nhìn rõ hơn. Đốm trắng hình tròn nhỏ hơn đốm trắng của
bệnh virus (WSSV). Soi mẫu tiêu dưới kính hiển vi, đốm trắng có dạng hình
7
địa y, ở giữa rỗng khác với đốm trắng do virus có đốm đen ở giữa. Các đốm
trắng thường chỉ ở ngoài lớp biểu bì và tổ chức liên kết, ít nguy hiểm với tổ
chức phía trong. Các đốm trắng này có thể mất khi tôm lột vỏ (Wangetal.
2000).
b) Nhận xét tình hình bệnh trong quá trình điều tra
* Bệnh do virut
- Mùa vụ xuất hiện: Sau 30-45 ngày
- Tỷ lệ cảm nhiễm: > 50 %
- Tỷ lệ chết: 40-50%
=> Nhận xét: Ta thấy rằng tỷ lệ cảm nhiểm bệnh này tương đối cao, tỷ lệ
chết từ 50-60 % gây thiệt hại đối với người nuôi.
* Bệnh do vi khuẩn
- Mùa vụ xuất hiện: Sau 30-45 ngày
- Tỷ lệ cảm nhiễm: 35-40 %
- Tỷ lệ chết: 20-30%
Trái: Đốm trắng do vi khuẩn Phải: Đốm trắng do virus
Hình 5: Sự khác biệt giữa đốm trắng do vi khuẩn và đốm trắng do virus
1.2 Bệnh đỏ thân
a) Những hiểu biết chung về bệnh đỏ thân
8