TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
---------***--------
BÀI TIỂU LUẬN
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
PHÂN TÍCH
CHÍNH SÁCH HẠNNGẠCH XUẤT KHẨU
ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000-2006
&
CHÍNH SÁCH THẾ XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI
QUẶNG SẮT VIỆT NAM TỪ NĂM
2009-NAY.
Mục Lục
Trường đại học Ngoại Thương
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với việc phát triển thị trường và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế
thì sẽ có nhiều tác động không ít đến việc sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Do vậy, nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách của mình để đảm bảo cho
việc ổn định kinh tế trong nước. Một trong các chính sách đó là thuế và hạn
ngạch xuất khẩu.
Khoáng sản và dệt may là hai mặt hàng khá phổ biển trong thị trường
xuất khẩu của Việt Nam trong thời kì hiện nay. Tuy nhiên để tránh việc xuất
khẩu ồ ạt, Nhà nước đã thực hiện chính sách Thuế và Hạn ngạch xuất khẩu để
ổn định nền kinh tế đất nước. Vậy cơ sở là gì? Tác động của nó đối với nền sản
xuất trong nước như thế nào? Ưu, nhược điểm của chính sách đó là gì? Chúng
tôi chọn đề tài PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH HẠN NGẠCH XUẤT KHẨU
ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 20002006 & CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI QUẶNG SẮT
VIỆT NAM TỪ 2009 - NAY, nhằm làm rõ các vấn đề trên bằng việc áp dụng
lí thuyết vi mô trên lớp để vận dụng vào thực tiễn khắc sâu kiến thức.
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận bài tiểu luận gồm 2 phần:
Phần A: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH HẠN NGẠCH XUẤT KHẨU ĐỐI
VỚI HÀNG DỆT MAY VIÊT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2000-2006.
Phần B: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI
QUẶNG SẮT VIÊT NAM TỪ 2009-NAY.
3
Trường đại học Ngoại Thương
hần A
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH HẠN NGẠCH XUẤT
KHẨU ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIÊT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2000-2006.
1 Cơ sở lý thuyết
1.1 . Định nghĩa
Hạn ngạch xuất khẩu là quy định của một nước về số lượng cao nhất của
một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu ra nước ngoài trong
một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép.
Hiện nay ở Việt Nam chế độ cấp hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo
bởi Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm Bộ Thương mại công bố danh mục các
mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ quản lý sản xuất và được Chính phủ duyệt.
1.2 Mục đích
Nhằm hạn chế xuất đồng thời kiểm soát một vài mặt hàng xuất khẩu đặc
biệt, quý hiếm, những nguyên liệu, tài nguyên của đất nước, hoặc những mặt
hàng mang tính chiến lược đối với nền kinh tế.
Đem lại quyền lợi cho người tiêu dùng trong nước.
1.3 Đồ thị
1.3.1. Khi không có hạn ngạch (tự do xuất khẩu)
P
Giá bán trong nước PW cao hơn
S
PW
A
giá cân bằng, người tiêu dùng bị
C C
B
thiệt.
P0
CS = - A - B
PS = A + B + C
D
P
0 PW
QD
Pq
A B
Q0
C
D
QSE
NW =
C
S
Q
P0
1.3.2Có hạn ngạch xuất khẩu
QD QD1 Q0 QS1 QS
CS = A + B
D + quota
PS = - A - B - C - D - E
Người có quota = D
4
D
DWL = - C - E
Q
Trường đại học Ngoại Thương
2. Phân tích thị trường
2.1 Tổng quan thị trường dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2000-2006
Trong nhiều năm qua, dệt may vẫn đang là ngành tiên phong, dẫn đầu
trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài của Việt Nam, là ngành
hàng chiến lược trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đem lại lượng
ngoại tệ rất lớn trị giá hàng tỷ đôla cho nước nhà. Trong giai đoạn 2000 –
2005, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may ra nước ngoại đạt trung bình 20%
năm1. Dệt may đang từng ngày khẳng định được vai trò của mình trong nền
kinh tế quốc dân, không ngừng phát triển, tăng lên về số lượng, đa dạng chủng
loại, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong thời kì hiện tại và
tương lai. Hàng dệt may Việt Nam đã có mặt trên 100 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, trong đó có các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Nhật Bản…
Chỉ riêng ba thị trường này đã chiếm hơn 81% giá trị xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam, mặc dù đã giảm so với mức đỉnh điểm gần 85,9% vào năm
2004.
Theo thị trường, Hoa Kỳ có mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất, đặc biệt
là kể từ năm 2002 trở lại đây khi Hiệp định Thương mại song phương Việt
Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Chỉ riêng trong năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng
1Số
liệu từ trung tâm xúc tiến thương mại & đầu tư TP Hồ Chí Minh thông báo.
5
Trường đại học Ngoại Thương
dệt may vào thị trường Hoa Kỳ đã tăng hơn 21 lần lên hơn 950 triệu USD, so
với mức 45 triệu USD của năm 2001.
Bảng. Kim ngạch xuất khẩu dệt may từ năm 2003 đến năm 20062
Kim ngạch xuất khẩu
2003
3.609,1
2004
4.385,6
2005
2006
4.838,4 5.834,0
Bảng. Kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, Canada và Thổ Nhĩ Kỳ
tháng 8/2005
STT
Thị trường
Kim ngạch 8
tháng 2005
Tăng giảm so Tỷ trọng trong
với cùng kỳ tổng KN XK dệt
2004
may
1
EU
537 triệu USD
+5,8%
18,5%
2
Canada
50,5 triệu USD
+47%
1,7%
3
Thổ Nhĩ Kỳ
1,55 triệu USD
-24%
Không đáng kể
Tuy nhiên ngành dệt may vẫn xòn đối mặt với nhiều hạn chế, khó khăn,
và thách thức :
- Năng lực sản xuất được nâng cao nhưng vẫn còn thấp hơn so với năng lực sản
xuất được thiết kế, năng lực sản xuất thực tế. trình độ tay nghề , kĩ thuật của
công nhân còn thấp, hạn chế, trình độ kỹ thuật, thiết kế, sáng tạo còn chưa đáp
ứng được với thị trường .
- Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng hiệu quả không cao, có tới 70% mặt
hàng xuất khẩu là sản phẩm của gia công lại hàng của nước ngoài.
- Nguyên liệu sản xuất còn phụ thuộc rất nhiều vào nước ngoài mà chưa chủ
động được nguồn nguyên liệu trong nước.
2
Nguồn: Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may
6
Trường đại học Ngoại Thương
-
Thị trường ngoại còn nhỏ, chưa tương xứng với nang lực sản xuất, còn phụ
thuộc, gò bó vào hạn ngạch và thuế xuất khẩu, trong khi đó thị trường trong
nước đang ngày càng phát triển thì không được chú trọng đúng mức.
2.2 Các thực trạng diễn biến trên thị trường khi thực hiện chính sách hạn
ngạch đối xuất khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam
Bảng. Xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các thị trường chính qua các năm Đơn
vị tính: triệu USD
Nước
Mỹ
EU
Nhật Bản
Tổng cộng
2004 2005
2006
2007
2008
2009
2719 2880
3396
4558
5425
4494
762
882
1225
1500
1700
4071
531
604
636
700
420
1042
4368 4838
5927
7780
9130
9607
(Nguồn : Tổng cục thống kê Việt Nam)
Các doanh nghiệp dệt may Mỹ , các nước EU ở giai đoạn này không phát
triển, chú trọng nhiều do nhân công khá đắt,lao động không dồi dào. Do vậy,
phần lớn thị trường ở những nước này được cung cấp từ các nước như Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam… sau Trung Quốc gia nhập WTO, hàng dệt may của
nước này không bị đặt hạn ngạch nữa nên 9 tháng đầu năm 2005 xuât khẩu dệt
may vào thị trường Mỹ đã đạt 1.4 tỷ đôla tăng tới 65.26% so với cùng kì năm
2004 (số liệu từ tổng cục thống kê Trung Quốc) 3. Trước động thái này, để đảm
bảo được thị phần và lợi ích của các doanh nghiệp trong nước mình chính phủ
Mỹ đã dựa vào điều khoản về cơ chế tự vệ để đặt ra hạn ngạch đối với nhiều
nước xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ và EU, trong đó có Việt Nam. Hàng
dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ và EU đều bị áp dụng
hạn ngạch hạn chế số lượng xuất khẩu. Hạn ngạch được chính phủ đưa ra dựa
trên hạn ngạch do Mỹ và EU dành cho hàng dệt may Việt Nam cho đến khi
Việt Nam gia nhập WTO để bảo vệ các doanh nghiệp Hoa kỳ và EU trên thị
trường này. Để đảm bảo thực hiện đúng lượng xuất khẩu sang thị trường Mỹ,
3Theo
Việt Báo, ngày 11/03/2005, trên website />
7
Trường đại học Ngoại Thương
chính phủ Việt Nam đã thực hiện áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may
sang Mỹ và EU.
Theo lý thuyết về hạn ngạch đã phân tích ở phần trên về một mặt hàng
xuất khẩu khi giá thế giới cao hơn giá trong nước lúc đầu, các doanh nghiệp
thích xuất khẩu hơn để kiếm được nhiều lợi nhuận, làm cho lượng hàng trong
nước có thể bị khan hiếm và giá cả người dân trong nước phải trả để tiêu dùng
mặt hàng đó cao hơn, thiệt hại đến người tiêu dùng trong nước. Từ đó khi
chính phủ áp dụng hạn ngạch nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong nước, giảm
xuất khẩu, hạ giá thành trong nước. Trong trường hợp đó, hạn ngạch của chính
phủ tuy làm thất thoát thặng dư xã hội, giảm thặng dư người sản xuất, nhưng
vẫn đặt được mục đích bảo vệ người tiêu dùng trong nước. Thực tế, việc xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ và EU trong giai đoạn
2000-2006 (Việt Nam chưa gia nhập WTO) được đặt hạn ngạch bằng việc
thương lượng giữa chính phủ Việt Nam và Mỹ, EU. Sau đó, nhà nước quản lý,
phân bổ quota (hạn ngạch) hợp lí đến những doanh nghiệp có năng lực sản
xuất đáp ứng yêu cầu, mà Mỹ muốn nhập ở Việt Nam.
Như đã phân tích lý thuyết về hạn
P
PW
S
ngạch, khi chính phủ áp dụng hạn
ngạch đối với một mặt hàng, đường
Pq
cầu hàng dệt may gồm đoạn đường
P0
D + quota cầu trong nước tại mức giá trên mức
D
giá thế giới Pw và phần dưới đường
cầu ban đầu dịch sang phải song song
Điều đó làm giảm lượng xuất khẩu củamột
dệt đoạn
may sođúng
với lúc
có hạn
bằngchưa
lượng
hạn
ngạch
nướcQS
giảm xuống
còn PQ, ngạch.
đồng thời lượng cung giảm từ Q S
QD, giá
QD1trong
Q0 QS1
Q
xuống còn QS1, lượng cầu tăng lên từ Q D lên QD1, thặng dư người sản xuất
giảm một cách đáng kể (giảm xuống phần tô đậm).
Kể từ ngày 1/1/2005 các nước Trung Quốc, Ấn Độ đã được bãi bỏ hạn
ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kì và được hưởng ưu đãi thuế
8
Trường đại học Ngoại Thương
quan phổ cập (GSP) nên sức cạnh tranh của họ rất lớn. Các loại quần áo sơ mi,
cotton của Trung Quốc vào Hoa Kì tăng mạnh 1.250% trong quý I/2005 làm
cho các nước có hạn ngạch xuất khẩu như Việt Nam gặp khá nhiều khó khăn
trong việc cạnh tranh (do các doanh nghiệp trong nước giai đoạn này còn phải
nộp phí quota xuất khẩu). Do vậy, Chính phủ lại dùng chính sách trợ cấp cho
doanh nghiệp dệt may bằng chính sách bãi bỏ lệ phí hạn ngạch ở thị trường
Hoa Kỳ4, EU và Canada5, cùng nhiều chính sách ưu tiên về thuế để giúp đỡ các
doanh nghiệp xuất khẩu dệt may trong giai đoạn này. Nhờ đó, vừa hạn chế
xuất khẩu ồ ạt vừa hỗ trợ xuất khẩu đem về lượng ngoại tệ cho cán cân thương
mại của nước ta.
2.2.3 Ưu và nhược điểm của chính sách
Ưu điểm
• Chính sách hạn ngạch dệt may giúp chính phủ có thể kiểm soát quản lí lượng
hàng xuất khẩu tốt hơn dùng thuế quan.
• Hạn ngạch là biện pháp hành chính nên tác động nhanh và dễ kiểm soát.
• Bảo vệ được người tiêu dùng trong nước, tránh hiện tượng khan hàng do xuất
khẩu quá nhiều
Nhược điểm
• Hạn ngạch làm giảm sản lượng xuất khẩu, có thể dư thừa hàng trong nước nếu
năng lực sản xuất cao, thị trường trong nước không phát triển mạnh. Làm các
doanh nghiệp dệt may trong nước lâm vào hoàn cảnh khó khăn.
• Không minh bạch trong vấn đề phân bổ hạn ngạch, dẫn đến dễ có hiện tượng
tham nhũng, cậy quyền của cán bộ cấp hạn ngạch.
• Dẫn đến hiện tượng xuất, nhập lậu hàng hóa qua biên giới.
• Việc phân bổ hạn ngạch xuất khẩu dệt may của nhà nước trong giai đoạn 2000
- 2006 còn nhiều bất cập, không đảm bảo được tính công bằng giữa các doanh
nghiệp. Xuất hiện tham ô hối lộ hạn ngạch. Không những vậy, Xuất khẩu dệt
4Quyết
định số 52 /2005/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính ban hành ngày 25/07/2005.
5 Quyết định
số 02 /2005/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính ban hành ngày 12/01/2005.
9
Trường đại học Ngoại Thương
may Việt Nam còn xuất hiện hiện tượng “cò hạn ngạch” làm cho các doanh
nghiệp xuất khẩu dệt may trong giai đoạn này phải tốn thêm một chi phí nữa là
chi phí chuyển nhượng hạn ngạch.
2.3 Đề xuất giải pháp
Chính sách hạn ngạch của chính phủ đặt vào hàng dệt may gây ra khá
nhiều bất cập bên cạnh những tác động tích cực mà nó đem lại. Mặc dù, việc
đặt hạn ngạch xuất khẩu dệt may không còn nữa, nhóm cũng đưa ra giải pháp
để hạn chế tiêu cực của hạn ngạch xuất khẩu để có thể ứng dụng vào các mặt
hàng khác cũng như là phát triển xuất khẩu ngành dệt may hiện nay của nước
ta. Giải pháp nhóm đưa ra như sau:
Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam rất chênh lệch giữa các nước.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, ba thị trường quan trọng nhất
của dệt may Việt Nam vẫn là: Mỹ, thị trường EU và Nhật Bản. Đầu năm 2006
xuất khẩu dệt may sang Mỹ đạt 2.17 tỷ đôla, chiếm tới 54.8% tổng kim ngạch
xuất khẩu ngành dệt may, còn thị trường EU đứng thứ 2 với 819 triệu đôla
tương đương với khoảng 20.6% tổng kim ngạch, thị trường Nhật đạt 410 triệu
đôla ( 10.35%)6 . Sự chênh lệch lượng hàng xuất khẩu như thế nếu những thị
trường chủ lực gặp vấn đề sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu dệt
may. Vì vậy việc chú trọng, quan tâm tìm kiếm, thâm nhập thị trường mới có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển bền vững, lâu dài ngành dệt may.
Việc thực hiện hạn ngạch rất khó tránh khỏi những gian lận, tham nhũng trong
khâu phân phối, bàn cấp hạn ngạch cho các doanh nghiệp. Việc đấu giá công
khai, có giám sát sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp đủ năng lực, uy tín được
nhận hạn ngạch xuất khẩu.
Chính phủ nên áp dụng một số chính sách trợ cấp khác nữa cho doanh nghiệp
để giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất, vượt qua khó khăn như giảm thuế, hỗ
trợ vốn vay.
6Thông
tin từ bộ Thương mại được đăng trên báo sài gòn giải phóng, wesite
/>
10
Trường đại học Ngoại Thương
Thị trường trong nước là thị trường rộng mở, đầy tiềm năng, quan tâm đầu tư
tìm kiếm thị trường trong nước sẽ là biện pháp rất có khả thi để giải quyết
lượng hàng tồn kho. Doanh nghiệp có thể tăng khuyến mãi quảng bá thương
hiệu đến với người tiêu dùng, hoặc hợp đồng với các doanh nghiệp ngành hàng
dân dụng để họ dùng hàng dệt may làm khuyến mại khi mua sản phẩm…
Ngành dệt may khá phát triển nhưng hầu hết nguồn nguyên nhiên vật liệu phục
vụ sản xuất đều do các doanh nghiệp nhập khẩu từ nước ngoài nên tốn chi phí,
không chủ động được nguồn sản xuất. Vì vậy chính phủ nên tăng cường đầu tư
vào ngành sản xuất nguyên vật liệu cho dệt may của nước nhà: khuyến khích
trồng dâu, nuôi tằm, đay… đầu tư các công ty sản xuất kim, chỉ, len, vải nhân
tạo, thốc nhuộm, khuy cúc, dây kéo khóa….
11
Trường đại học Ngoại Thương
hần B
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT KHẨU
ĐỐI VỚI QUẶNG SẮT VIÊT NAM TỪ 2009-NAY.
1 Cơ sở lý thuyết
1.1
Thuế xuất khẩu
1.1.1 Định nghĩa
Thuế xuất khẩu là thuế áp dụng với hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu,
biên giới Việt Nam; hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới và
hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất khẩu7.
1.1.2 Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế xuất khẩu là hàng hóa:
- Hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam;
-Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan8.
1.1.3 Mục đích
Giảm xuất khẩu các mặt hàng Nhà nước không khuyến khích (các nguồn
tài nguyên tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà
tính chất quan trọng của nó đối với an ninh lương thực hay an ninh quốc
gia).
Tăng ngân sách Nhà nước.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp
cần nguyên liệu để tinh chế quặng trong nước tránh khỏi việc thiếu
nguyên liệu.
7Theo
tapchithue.com, Thuế xuất khẩu, ngày 15 tháng 9 năm 2010.
8Theo
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu , số 45/2005/QH11, ban hành ngày 14 tháng
06 năm 2005.
12
Trường đại học Ngoại Thương
Chứng minh:
Khi chưa có thuế xuất khẩu, trong điều
B P
PW A
kiện tự do xuất khẩu, giá bán trong nước
S
C
là PW cao hơn giá cân bằng P0:
W
CS = - A - B
P0
PS = A + B + C
NW =
D
0
PW
PW(1-t)
P0
0
QD
Q0
C
Xuất khẩu
QS
S
C
Như vậy, người tiêu dùng bị thiệt hại
phần diện tích A và B theo hình bên.
Gọi t là mức thuế suất Chính phủ áp
dụng cho hàng hoá xuất khẩu.
Khi thực hiện chính sách thuế xuất
khẩu, người tiêu dùng trong nước mua
được hàng hoá với mức giá thấp hơn là
PW(1-t). Thặng dư tiêu dùng tăng lên
CS = A + B so với khi thực hiện tự do
QS1
QD1
D
Khi thực hiện chính sách thuế xuất hoá
khẩu,
xuấtkhông
khẩu. những người tiêu dùng
mua được hàng với mức giá thấp hơn so với việc tự do xuất khẩu, còn tăng
thêm
nguồn thu
sách Chính phủ:
QD
Q0cho ngânQS
S
D
W
G = (Q 1 – Q 1)*(P – PW(1-t)) = C.
→ Lượng hàng hoá xuất khẩu cũng giảm từ (QS – QD) xuống (QS1 – QD1).
1.2 Khoáng sản - Quặng sắt
1.2.1 Khoáng sản
Theo Luật Khoáng sản định nghĩa, khoáng sản là tài nguyên hầu hết
không tái tạo được, là tài sản quan trọng của quốc gia, phải được quản lý, bảo
vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội
trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
13
Trường đại học Ngoại Thương
1.2.2 Quặng sắt
Quặng sắt là khoáng sản thuộc nhóm 2601 được phép xuất khẩu có điều
kiện do Luật khoáng sản quy định.
Quặng sắt có các kiểu nguồn gốc khác nhau đã được phát hiện ở nhiều
nơi như Hà Tĩnh, Thái Nguyên, Yên Bái, Cao Bằng, đáng chú ý là ở đồng
bằng ven biển Thạch Khê (Hà Tĩnh).
Ở Việt Nam, việc xuất khẩu quặng sắt phải tuân theo quy định của Chính
phủ. Trung Quốc là thị trường chính nhập khẩu mặt hàng này (khoảng 90%
tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam).
2 Phân tích thị trường
2.1 Tổng quan thị trường xuất khẩu quặng sắt Việt Nam từ năm 2009-nay
Trong các loại khoáng sản, quặng sắt có vai trò rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhu cầu sử dụng sắt, quặng sắt là
vô cùng lớn và không ngừng gia tăng; vì vậy, nhiều nước phải nhập khẩu sắt
và quặng sắt. Việt Nam có lợi thế về tài nguyên khoáng sản, khoáng sản khai
thác hiện phục vụ hai mục đích chính là sản xuất trong nước và xuất khẩu.
Xuất khẩu khoáng sản, cụ thể là quặng sắt, đã góp phần giảm bớt khó khăn cho
các doanh nghiệp địa phương, nhất là ở miền núi và góp phần đảm bảo an sinh
xã hội, tạo thêm việc làm cho người lao động trên địa bàn có mỏ. Xuất khẩu
quặng sắt có xu hướng giảm trong 3 năm gần đây. Năm 2010, nước ta xuất
khẩu tổng cộng 9082,1 nghìn tấn sắt thép các loại, trị giá 6154,9 nghìn USD 9.
Xuất khẩu quặng sắt năm 2011 đạt 1843,7 nghìn tấn với trị giá 1.682 nghìn
USD10. Giá xuất khẩu đạt trung bình 41,34 USD/tấn, tăng khoảng 40% so với
cùng kì 2010. Thống kê sơ bộ tới 15/7/2012, nước ta xuất khẩu được khoảng 4
triệu tấn quặng, trị giá 3.296 triệu USD11.
Tuy xuất khẩu quặng sắt mang lại lợi ích trước mắt, nhưng về lâu dài, để
đảm bảo lợi ích của đất nước, bảo tồn tài nguyên quốc gia, cần phải xây dựng
99,
10
, 11 Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan tháng 12/2010, 12/2011 và 7/2012
10
11
14
Trường đại học Ngoại Thương
lộ trình giảm xuất khẩu khoáng sản thô, tiến tới hướng vào chế biến sâu, loại
bỏ xuất khẩu khoáng sản thô. Việc tăng thuế quặng sắt lên 40% kể từ tháng
7/2011 có tác dụng hạn chế việc xuất khẩu loại khoáng sản này và cũng góp
phần tăng nguồn thu ngân sách cho Nhà nước.
2.2 Các diễn biến của thị trường sau khi thực hiện chính sách thuế xuất khẩu
đối với quặng sắt ở nước ta
Sau đợt tăng thuế xuất khẩu quặng sắt từ 30% lên 40% có hiệu lực từ
ngày 2/7/2011 (theo thông tư của Bộ tài chính số 67/2011/TT-BTC ngày
18/05/2011), đã có ý kiến đề xuất Bộ Tài chính tăng thêm thuế suất và bổ sung
thêm thuế tổn thất tài nguyên để hạn chế lượng xuất khẩu quặng sắt.
Bảng. Mức thuế suất xuất khẩu sửa đổi đối với quặng sắt và tinh quặng
sắt kể cả pirit đất đã nung thuộc nhóm 2601.
Số
TT
Mô tả hàng hoá
Thuộc các nhóm, Thuế suất
phân nhóm
(%)
12
Quặng sắt và tinh quặng sắt, kể cả pirit sắt
đã nung
- Quặng sắt và tinh quặng sắt, trừ pirit sắt đã
nung:
- - Chưa nung kết
2601 11 00 00
40%
- - Đã nung kết
2601 12 00 00
40%
- Pirit sắt đã nung
2601 20 00 00
40%
Sau khi thực hiện chính sách tăng thuế lên 40% của chính phủ( 2/7/2011)
sẽ làm cho trị giá thực sự mà các nhà sản xuất thu được từ việc xuất khẩu sẽ
giảm xuống vì họ phải bán theo giá của thế giới khi xuất khẩu.Khi đó, các nhà
xuất khẩu quặng sắt chỉ thu được khoản tiền là P W(1-t) trên một đơn vị khối
lượng quặng xuất khẩu. Do đó, các doanh nghiệp mua quặng sắt trong nước
chỉ cần mua với giá là PW(1-t) thì nhà khai thác quặng đã có thể bán được rồi.
Đường cầu mới bao gồm đoạn phía trên mức giá P W(1-t) của đường cầu cũ và
đoạn nằm ngang song song với trục hoành tại mức giá P w(1-t). Mức giá mà
15
Trường đại học Ngoại Thương
người tiêu thụ trong nước phải trả chỉ là P W(1-t) chứ không phải mức giá P W
như ban đầu.
P
P
PW
PW(1-t)
P0
S
A
B
S
PW
D’
A
B
D’
PW(1-t’)
D
D
0
0 của người xuất khẩu sau khi tăng
Nhìn vào đồ thị, ta thấy phần thặng dư
Q0
Q0
Q
Q
thuế tức 40% nhỏ hơn thặng dư của người xuất khẩu quặng sắt khi còn thuế
thấp 30%, đó là nguyên nhân chính làm hạn chế lượng xuất khẩu quặng sắt thô
của nước ta như hiện nay.
Ở mức thuế cao như vậy, cộng với suy thoái kinh tế như hiện nay đã làm
cho việc xuất khẩu quặng sắt của nước ta giảm giảmtrong 6 tháng đầu năm
2012 so với cùng kì năm trước.Tháng 6/2012 sản lượng xuất khẩu quặng các
loại của nước ta là 200 nghìn tấn giảm 38% so với cùng kì năm 2011(326
nghìn tấn)12. Việc giảm sản lượng xuất khẩu mặt hàng khoáng sản, trong đó có
quặng sắt thô đã đảm bảo cung ứng nguồn nguyên liệu sản xuất thép, phôi thép
trong nước trong thời kì khó khăn như hiện nay khi giá nguyên liệu quặng sắt
thô trên thế giới đang tăng cao. Làm cho doanh nghiệp sản xuất thép trong
nước có khả năng cạnh tranh với các nước khác do đã giảm chi phí nhập
nguyên liệu cao từ bên ngoài, đảm bảo cung ứng nguồn nguyên liệu trong
nước và xuất khẩu.
2.3 Ưu điểm, nhược điểm của chính sách
Ưu điểm:
12Phụ
lục báo cáo sơ kết tình hình sản xuát công nghiệp và hoạt động thương mại 6
tháng đầu 2012( Bộ công thương).
16
Trường đại học Ngoại Thương
Giảm bớt lượng quặng sắt thô ra nước ngoài, đảm bảo cung ứng nguồn nguyên
liệu để đảm bảo cho các công ty tinh chế thép trong nước.
Tăng nguồn thu ngân sách chính phủ. Đây là một trong những khoản thu khá
lớn cho ngân sách nước ta, theo sơ bộ tới 15/7/2012, nước ta xuất khẩu được
khoảng 4 triệu tấn quặng, trị giá 3.296 triệu USD( Tổng cục hải quan tháng
7/2012), với mức thuế là 40% thì đóng góp khoảng 1.3184 triệu USD cho ngân
sách.
Giảm bớt việc khai thác khoáng sản quá mức tại các khu vực có mỏ góp phần
hạn chế ô nhiễm môi trường.
Nhược điểm:
Làm giảm kim ngạch xuất khẩu của nước ta, cán cân thương mại thay đổi.
Xuất hiện xuất khẩu lậu khoáng sản qua biên giới. Đặc biệt là biên giới Việt
Nam - Trung Quốc hết sức phức tạp, gây mất trật tự an ninh.
3 Đề xuất giải pháp
Việc xuất khẩu lậu quặng sắt sang biên giới là vấn đề khá là nhức nhối.
Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần phải thắt chặt an ninh nữa các khu vực
cửa khẩu biên giới. Đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng các nhà máy luyện thép
trong nước để có thể tận dụng tài nguyên quặng sắt trong nước, tránh thất thoát
quặng sắt sang nước ngoài.
Hỗ trợ vốn, tái cơ cấu nợ, cho vay với lãi suất thấp cho các doanh nghiệp
luyện quặng sắt trong nước để họ có thể phát triển sản xuất, hạ chi phí sản
phẩm có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu thép nước ngoài. Từ
đó giúp cho nước ta khai thác được lợi thế tài nguyên trong nước, tránh cung
cấp cho nước ngoài, đồng thời sẽ đảm bảo việc cung ứng nguyên liệu trong
nước về vật tư xây dựng và giải quyết một phần vấn đề việc làm. Không những
vậy, bên cạnh việc áp dụng thuế.
17
Trường đại học Ngoại Thương
18
Trường đại học Ngoại Thương
KẾT LUẬN
Mặc dù các chính sách thuế và hạn ngạch xuất khẩu có tác dụng tích cực
nhất định đối với nền kinh tế trong nước, tuy nhiên cũng còn tồn tại một số
nhược điểm. Qua phân tích, nghiên cứu, tìm hiều về hai thị trường trên, chúng
tôi rút ra những đặc điểm như sau:
Đối với chính sách hạn ngạch xuất khẩu dệt may trong giai đoạn 2000-2006.
Trong giai đoạn này, ngành dệt may Việt Nam phát triển mạnh đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng trong nước. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam
tăng đáng kể qua các năm. Đồng thời trong giai đoạn này cũng đánh dấu sự
xâm nhập rộng rãi của hàng dệt may Trung Quốc trên thị trường Thế giới làm
cho việc cạnh tranh của hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam sang nước ngoài
vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt, cũng như trong bối cảnh Việt Nam chưa là
thành viên chính thức của WTO đã không được ưu đãi như các nước khác làm
cho tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam gặp vô cùng khó khăn.
Chính vì điều này, mặc dù chính phủ đặt ra hạn ngạch là để đảm bảo giá cả
hàng dệt may trong nước, bảo vệ người tiêu dùng bên cạnh đó cũng có một số
ưu đãi để nâng cao sức cạnh tranh về chi phí của mặt hàng dệt may Việt Nam
trên thị trường Thế giới thông qua giảm phí hạn ngạch và một số ưu đãi khác.
Chính sách hạn ngạch dệt may có những ưu điểm: hạ thấp giá cả tiêu dùng
hàng dệt may trong nước, bảo vệ người tiêu dùng , song nó cũng tồn tại nhiều
bất cập trong việc sở hữu hạn ngạch xuất khẩu cũng như công bằng giữa các
doanh nghiệp xuất khẩu không được đảm bảo. Để hạn chế điều này, bên cạnh
việc ban hành quota xuất khẩu, chính phủ nên hỗ trợ các doanh nghiệp trong
nghiệp trong việc mở rộng thị trường ra các nước phi hạn ngạch trong giai
đoạn này như: Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Phi…. Đồng thời tiến hành cho
đấu giá hạn ngạch qua các thị trường lớn như EU và Mỹ để hạn chế tiêu cực
trong việc phân bổ hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong giai
đoạn này và tăng thêm nguồn thu chính phủ. Đến thời điểm hiện nay (2012),
19
Trường đại học Ngoại Thương
Việt Nam đã gia nhập WTO thì chính sách hạn ngạch xuất khẩu dệt may
không còn nữa, trong nền kinh tế tự do hóa toàn cầu, chính phủ cũng cần hỗ
trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may bằng cách giảm thuế, hỗ trợ
cho vay lãi suất thấp, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tái cơ cấu nợ… để cho
các doanh nghiệp qua thời kì khó khăn khi mà sức cầu yếu, hàng dệt may trong
nước tồn kho rất nhiều.
Đối với chính sách thuế xuất khẩu quặng sắt ở nước ta trong giai đoạn 2009 nay. Tình hình sản lượng khai thác và xuất quặng sắt thô của nước ta tăng
nhanh trong các năm gần đây làm các doanh nghiệp trong nước thiếu nguyên
liệu lại phải đi nhập nguyên liệu nước ngoài, gia tăng chi phí sản xuất. Mặc
khác việc ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên cũng rất đáng quan tâm.
Mức thuế xuất khẩu hiện nay là 40%,nếu cần thiết chính phủ nên tăng mức
thuế này để giảm tối thiểu việc xuất khẩu quá mức ra nước ngoài, hoặc áp
dụng hạn ngạch và tiến hành đấu giá hạn ngạch xuất khẩu đối với mặt hàng
này, Đồng thời cũng tăng cường an ninh khu vực biên giới để tránh việc khai
thác và xuất khẩu trái phép sang biên giới làm chính sách thuế xuất khẩu
không còn tác dụng → nhằm hạn chế bớt lượng xuất khẩu quặng như hiện nay
để đảm bảo cung ứng đủ nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp tinh chế
quặng trong nước..
Bên cạnh các biện pháp trên, chính phủ cũng nên nâng cao tính minh
bạch trong hệ thống tổ chức để đảm bảo các chính sách được đưa ra phát huy
tác dụng cao nhất.
20
Trường đại học Ngoại Thương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ công thương (2011), Phụ lục báo cáo sơ kết tình hình sản xuất công
nghiệp và hoạt động thương mại 6 tháng đầu 2011, ngày 06/7/2011.
2. Bộ Công Thương, Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Chuyên
đề Tình hình thương mại mặt hàng quặng sắt, thép phế liệu và phôi thép của
Việt Nam quý I/2011 và dự báo, năm 2011.
3. Bộ tài chính (2005), Quyết định số 02 /2005/QĐ-BTC ngày 12/01/2005.
4. Bộ tài chính (2005), Quyết định số 52 /2005/QĐ-BTC ngày 25/07/2005.
5. Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính, Thuế xuất khẩu quặng sắt tăng lên 40%
kể từ 2/7, 26/05/2011.
6. GS.TS Đỗ Đức Bình &PGS.TS.Nguyễn Thường Lạng (2008), Giáo trình kinh
tế quốc tế,Nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 159 trang.
7. Hải quan Việt Nam, Thống kê Hải quan tháng 12/2010, 12/2011 và tháng
07/2012,
8.
9.
10.
11.
www.customs.gov.vn/Lists/HoTroTrucTuyen/ThongKeHaiQuan.aspx
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu , số 45/2005/QH11, ban hành ngày 14
tháng 06 năm 2005.
Luật Khoáng sản, ban hành ngày 20/03/1996 Quốc hội khoá X.
Quốc hội (14/6/2005), Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, số 45/2005/QH11.
Sài Gòn Giải Phóng Online, Phan Thảo, Không xuất khẩu khoáng sản thô,
/>
san-tho/, Chủ nhật, 06/11/2011.
12. tapchithue.com, Thuế xuất khẩu, www.tapchithue.com/c22t15366-thuexuatkhau.htm, 15/09/2010.
13. Tổng cục Thuế - Bộ Tài Chính (2010), Thông tư của Bộ Tài chính số
147/2010/TT-BTC ngày 24/9/2010 về việc sửa đổi mức thuế suất thế xuất khẩu
đối với một số mặt hàng thuộc nhóm 2601 tại danh mục mức thuế suất của
biểu thuế xuất khẩu.
14. Việt báo, Xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc tăng mạnh (2005),
ngày 11/03/2005.
15. VOVonline – Đài tiếng nói Nhân dân Việt Nam, Xuân Thân/VOVonline, Việt
Nam sẽ giảm xuất khẩu thô, 10/04/2012.
21