BÀI TIỂU LUẬN VỀ KIẾN TRÚC VIỆT NAM
GVHD : NGUYỄN MẠNH TRÍ
SV
: PHAN HỮU VINH
LỚP : 53KD4
MSV : 21184.53
ĐỀ BÀI: Phân tích, trình bày về kiến Trúc Việt Nam tập trung vào một
trong các thể loại său:
• Công trình tôn giáo( đình, đền, chùa)
• Công trìng công cộng (làng tấm)
• Nhà ở
BÀI LÀM
Việt Nam là đất nước có nhiều dân tộc, trong đó nhóm dân tộc Việt
chiếm vị trí chủ yếu, người việt có nền văn hoá lâu đời, đó là nền văn hoá
Đông Sơn rất nổi tiếng tồn tại cách đây hơn 2000 năm trước công nguyên,
tạo dựng những nét cơ bản của văn hoá Việt Nam său này và đóng vai trò
chủ đaọ trong nền văn hoá của đất nước. Bên cạnh đó, với vị trí địa lý đặc
biệt nằm trên đường giao nhău giữa hai nền văn minh cổ đại của châu Á đó
là Ấn Độ và Trung Quốc.
Nền kiến trúc truyền thống Việt Nam phát triển chủ yếu trong thời kì
phong kiến trước thế kỉ XIX. Nền kinh tế hoàn toàn dựa vào nông nghiệp,
sức sản xuất thấp, đời sống xã hội nói chung là nghèo nàn và lạc hậu. Do đó
kiện trúc ít có điều kiện phát triển, chỉ có một phần cung điện lâu đài, dinh
thự của giai cấp phong kiếnvà mộ số công trình tôn giáo tín ngưởng do huy
động được sức người,sức của nên có quy mô dáng kể và tồn tại lau dài. Song
do thiên nhiên khắc nghiệt lại thêm các cuộc chiến tranh giữ nước và nội
chiến liên miên khiến nhiều công trình kiến trúc bị tàn phá.
Về công trình Tôn Giáo( đình, đền, chùa):
Đặc điểm các công trình kiến trúc thể loại này thường được xây dựng ở
những nơi có phong cảnh đẹp, gắn bó với núi đồi, sông hồ, đất dựng chùa
phải là đất thiêng… vào thời Lý các chùa tháp đều xây dựng trên các sườn
núi, lấy núi làm chổ dựa, trước mặt là một không gian rộng mở, có dòng
sông uốn quanh. Kiến trúc của các ngôi chùa thời Lý là các ngôi tháp. Tháp
1
cao nhất là tháp 13 tầng. Tháp chính là chùa. Thời Lý còn có một số ngôi
chùa lớn, xây dựng ở lưng chừng núi, kiêm làm Hành cung của vua.
Tháp Bình Sơn
Tháp Bình Sơn thuộc địa phận thôn Bình Sơn, xã Tam Sơn, huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Tháp Bình Sơn là một di sản của kiến trúc độc đáo
thời Lý - Trần còn được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay.
2
Chùa Trấn Quốc- Hà Nội
chùa được xây dựng vào thời kỳ tiền Lý Nam Ðế (544- 548) với tên gọi
"Khai Quốc" (nghĩa là mở nước, ứng với sự ra đời của nhà nước Vạn Xuân).
Sau này tên gọi của chùa còn thay đổi nhiều lần như "An Quốc" năm Ðại
Bảo đời Lê Thánh Tông (1434- 1442), "Trấn Quốc" năm Vĩnh Tộ thứ X
(1628); "Trấn Bắc" năm 1844 do vua Thiệu Trị đặt nhân dịp nhà vua ra thăm
xứ Bắc và đến ngày nay thì người dân Hà Nội vẫn gọi chùa là chùa Trấn
Quốc.
Tháp Phước Duyên Chùa Thiên Mụ(1601)
3
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa nằm
trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng
5km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601),
đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Đây
có thể nói là ngôi chùa cổ nhất của Huế.
Về mặt bằng , trong tổng thể ngôi chùa từ ngoài vào ta thấy có tổng tam
quan hay tứ trụ tiếp đến là tháp chuông, sân rộng, dãy hành lang bao quanh
ba mặt và cuối cùng là điện thờ hay còn gọi là tòa Tam Bảo thường gồm ba
ngôi nhà nằm kế nhău: tòa Tiền đường là nơi dâng hương hanh, tòa Thêu
hượng là nơi đốt hương , gõ mõ, tụng kinh và tòa thượng điện là nơi đặt
tượng phật trên bện gọi là tòa “ Tam Bảo” tượng trưng cho sự tu hành đắc
đạo đạo của đức phật. Trong khu vực chùa còn có Tháp mang tính chất chế
ngự và nhấn mạnh bố cục của công trình theo phương đứng. Trên trục chính
của quần thể kiến trúc chùa phía trước đặt Tháp tích phật còn phía său đặt
Tháp mộ theo kiểu tư do.
4
Chính điện chùa Thiên Mụ
Sau này kiến trúc của các ngôi chùa Việt Nam đều là một tầng giống như
những ngôi nhà ở làng quê. Nhưng đó là một toà nhà to, rộng, hình chữ "T",
phần dọc là chỗ thâm nghiêm để thờ Phật.
Chùa được xây dựng bằng những cột gỗ lim cao to. Vì, kèo, xà ngang,
xà dọc cũng bằng gỗ lim. Mái chùa được uốn cong, lợp bằng ngói ta không
có mấu, mũi lượn tròn, phía dưới là ngói chiếu. Các góc của mái chùa đều có
đầu đao xây cong lên nhễ hình lưỡi đao hoặc nhễ hình cái đuôi chim
phượng.
5
Chùa Bút Tháp(Bắc Ninh)
6
Chùa Một Cột
Hệ thống bộ mái của chùa chiếm hai phần ba công trình. Đó là đặc trưng
kiến trúc của chùa Việt Nam. Những ngôi chùa ở miền Bắc mang tính chất
chùa cổ, vì kiến trúc trên bộ khung bằng gỗ. Còn ở miền Nam kiến trúc theo
kiểu bê- tông hoá, gọi là kiến trúc chùa đúc.
7
Bên hông chùa
Chùa Vĩnh Tràng
8
Chùa Vĩnh Tràng là một ngôi chùa ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành
phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho khoảng
3km. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng ở miền Nam, được xếp hạng di tích lịch
sử – văn hóa cấp quốc gia, và là một điểm du lịch nổi tiếng. Chùa Vĩnh
Tràng được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Chính điện được bài trí trang
nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều tượng cổ, bao lam chạm trổ công phu. Bộ
Thập bát La hán thượng kỳ thú là những tác phẩm tượng tròn độc đáo được
các nghệ nhân Nam Bộ tạc vào những năm đầu thế kỷ 20. Chùa được xây cất
do công trình kiến trúc của nhiều người, trong nhiều năm, là một chùa lớn,
được kiến trúc khá tinh vi, đa dạng theo lối kiến trúc tổng hợp Á – Âu (Pháp,
La Mã, Thái, Miên, Chàm). Tuy nhiên, chùa vẫn mang đậm nét lối kiến trúc
điêu khắc truyền thống Việt Nam. Chùa Vĩnh Tràng được kiến trúc theo
dạng chữ Quốc, gồm 4 gian nối tiếp nhau (tiền đường, chánh điện, nhà tổ và
nhà hậu) rộng 14.000 m², dài 70 m, rộng 20 m, xây bằng xi măng và gỗ quý,
nền đúc cao 1 m, xung quanh xây tường vững chắc. Chùa Vĩnh Tràng được
kiến trúc theo dạng chữ Quốc, gồm 4 gian nối tiếp nhau (tiền đường, chánh
điện, nhà tổ và nhà hậu) rộng 14.000 m², dài 70 m, rộng 20 m, xây bằng xi
măng và gỗ quý, nền đúc cao 1 m, xung quanh xây tường vững chắc.
Chùa thường được xây dựng theo hướng Nam (hướng của trí tuệ) hay
hướng Tây (hướng dương - yên tâm một chỗ).
Trước chùa bao giờ cũng có Tam quan, trên có gác chuông, hình thức là
ba cửa, nhưng nội dung là một tuyên ngôn ba lối nhìn của Đạo Phật: Không
qúan, giảquán, trung quán. Ngoài cửa của Tam quan thường có đôi lần ở trên
đỉnh, tượng trưng cho sức mạnh ở trên cao, sự hiểu biết, kiểm sát tâm linh
của các chúng sinh khi bước vào cửa chùa. Sau Tam quan có con đường
"Nhất chính đạo" để đi vào chùa.
9
Cổng tam quan chùa Mía
Vào chùa là bước vào Tiền đường (nhà phía trước) phải vào cửa bên trái. ở
đây có bàn thờ thứ 9 thờ Đức Ông, mặt đỏ. Lễ Đức Ông xong, mới đến lễ ở
bàn thờ chính giữa nằm ở chùa trong (Nhà dọc theo kiểu chuôi vồ). Đây là
chỗ thờ Phật, có 6 bàn thờ từ cao xuống thấp, là 6 hàng trễng bày các tượng
Phật bằng gỗ hoặc bằng đồng và các thứ đồ thờ nhễ đỉnh hương, cây đèn...
Khi lễ Phật, không nên vái lia lịa, mà chỉ để tay trước ngực, thắp hương một
nén, không thắp nhiều.
Bàn thờ chính của chùa có các hàng cao thấp như sau:
-Hàng 1 thờ Tam thế Phật, là 3 vị: Quá khứ, hiện tại, vị lai (ba thời).
-Hàng 2 thờ Di Đà tam tôn. Tượng Di Đà ở giữa. Bên trái là Quan Thế Âm
Bồ Tát. Bên phải là là Đại Thế Trí Bồ Tát.
10
Chùa Tây Phương
-Hàng 3 thờ Thích Ca Mâu Ni (cầm bông sen dơ lên). Hai tượng hai bên là
Văn Thù cưỡi sễ tử và Phổ Hiền cưỡi voi trắng 6 ngà là hai đệ tử của Thích
Ca.
-Hàng 4 thờ Di Lặc Tam Tôn. Tượng Di Lặc béo phệ, miệng cười rộng.
-Hàng 5 thờ Thích Ca sơ sinh. Tễợng là một chú bé đứng trên đài sen mặc
quần ngắn, xung quanh có 9 con rồng, nên còn gọi là tễợng Cửu Long.
-Hàng 6 thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế đội mũ Bình Thiên. Bên trái là Nam
Tào cầm sổ đỏ ghi việc sinh. Bên phải là Bắc Đẩu cầm sổ tử. Sau khi lễ ở
bàn thờ chính xong, còn lễ ở hai bàn thờ nữa là bàn thờ số 7 và 8 ở Tiền
đường. Bàn thờ số 7 thờ Ông Thiện và Ông ác (khuyến thiện và trừ ác). Hai
ông này đội mũ và mặc áo võ tướng, chân đi giày, còn được gọi là tượng
Kim Cương hoặc Hộ Pháp (bảo vệ Phật). Có chùa còn có 10 tễợng nhỏ đứng
hai bên là
"Thập điện Diêm Vương" và ở ngoài hành lang có 18 tượng, gọi là "Thập
bát La Hán".
11
Hàng tượng La Hán.
Phần sau chùa có Tĩnh thờ chư vị là những vị thần về Đạo giáo. Ngoài ra
còn có Nhà thờ tổ thờ những vị tăng ni đời trước ở chùa đã mất. Nhà Hậu
thờ những người mua hậu chùa đã mất. Tăng phòng là nơi để các nhà sư ở.
Phương Trượng là nơi để vị sư trụ trì ở.
Trong khu vực chùa còn có các tháp. Đó là nơi chôn cất các nhà sư trẻ
chết. Tháp một tầng nhễng to là nơi chôn cất các bà hậu, ông hậu là những
ngễời có công xây dựng, tu sửa chùa. Tháp 3 tầng là tháp chôn cất các Hoà
thượng.
Bên cạnh các công trình kiến trúc đó, trong khu vực chùa thường chỉ trồng
các loại cây như: cây đề (khuyên chúng sinh đẹp lòng trần để làm điều
thiện), cây đại (cây thiên mệnh, hút sinh lực từ tầng trên xuống dưới), cây
gạo (là bậc thang nối trời đất), cây muỗm (để các linh hồn không nơi nương
tựa đến nương nhờ), cây sen (biểu tượng cho âm-cõi niết bàn), cây cúc (biểu
tượng cho dương), cây mẫu đơn, cây phù dung...
12
Chùa Thiên Mụ
Chùa chính là chốn tịnh viên (vườn tĩnh mịch). Đây là nơi con người đến
tâm linh, thánh thiện, cầu mong trừ được điều ác, làm được nhiều điều thiện,
để sống thư thái, tốt lành hơn.
Chùa cũng là một nét đẹp văn hoá mang tính dân tộc cao. Đó cũng là một tác
phẩm nghệ thuật cổ kính, trang nghiêm của con người hoà nhập với khung
cảnh thiên nhiên tươi xanh tĩnh lặng góp thêm cho bức tranh toàn cảnh của
làng quê được hoàn mỹ.
Kết cấu của ngôi thượng diện mang giá trị của kiến trúc cổ Việt Nam.
Trong đó ta thấy biể hiện đặc trưng của kiến trúc khung gổ Việt Nam khác
với Trung Quốc và các nước Đông Á, ỏ kiến truc Việt Nam là CỘT-XÀ-KẺ.
13
Tên gọi máicác cấu kiện bộ vì nhà và hệ
Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột:
- Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính
- Cột quân hay cột con: cột phụ nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính;
- Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước.
14
Liên kết đầu cột
Liên kết đầu cột
15
Liên kết cột - kẻ nóc
Liên kết chân cột
Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà
nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà
nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả
cột cái và cột quân, gồm:
- Xà lòng hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;
- Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.
16
Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng
liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau:
- Kẻ ngồi gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
- Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được
kéo dài conson qua cột hiên để đỡ phần chân mái.
Chi tiết hiên
17
Chi tiết đỡ mái
Về điêu khắc trang trí , trong chùa các bộ phận câus tạo bằng gỗ của
công trình như, cột xà kẻ hoặc bẩy đều được chạm khắc tinh vi. Các tháp
đều được trang trí trên mặt đứng, diềm mái khung cửa… với các đề tài tôn
giáo như tứ linh hay rồng mây hoa lá, cảnh sông nước bằng đất nung, màu
sắc chủ đạo trong chùa thường là màu vàng- amud của lý tưởng cao quý.
Ngoài ra, các bức tượng được điêu khắc một cách rất tinh xảo, mang tính
nghệ thuật rất cao…
Tóm lại, bằng những vất liệu gỗ, những nhà kiến trúc, nhà điêu khắc cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã chạm khắc những hình tượng mang mầu sắc
tôn giáo huyền ảo, thoáng đượm vẻ vương quyền, qua đó ta thấy được
những công trình điêu khắc của người xưa – qua những hình tượng sống
động ấy ta thấy rõ cuộc sống vui tươi và ý chí vươn lên của dân tộc Việt
Nam – một dân tộc tự nhận mình là dòng dõi con rồng cháu tiên thể hiện qua
chạm khắc hình tượng tứ linh.
18
19
20
Những bức tượng ở chùa Tây Phương
21
Nét điêu khắc trang trí trên mái chùa Tây phương
Trang trí mái lưỡng long chầu hổ phù
22
Các chi tiết chạm khắc trên gỗ
Hình tượng rồng thời Lý
Là biểu tượng của sự cao quý, của sức sống vĩnh hằng và sức mạnh vũ trụ
nên hình tượng r vua chúa. H ồng được sử dụng nhiều trong kiến trúc cung
đình, đình chùa, trang phục ình tượng con rồng cũng thay đổi theo dòng lịch
23
Hình tượng rồng thời Trần
Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong
tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như đuôi
rắn. Vẩy lưng vẫn thể hiện từng chiếc, nhưng không tựa đầu vào nhau như
rồng thời Lý. Có khi vảy lưng có dạng hình răng cưa lớn, nhọn, đôi khi từng
chiếc vẩy được chia thành hai tầng. Chân rồng thường ngắn hơn, những túm
lông ở khủy chân không bay ra theo một chiều nhất định như rồng thời Lý
mà lại bay lên phía trước hay phía sau tùy thuộc vào khoảng trống trên bức
phù điêu. Và có sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi tay
Hình tượng rồng thời Lê
Đến thời Lê, rồng có sự thay đổi hẳn, rồng không nhất thiết là một con vật
mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng
to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to.
Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như thẳng ra,
bao quanh có một hàng vải răng cưa kết lại như hình chiếc lá. Răng nanh
24
cũng được kéo dài lên phía trên và uốn xoăn thừng ở gốc. Lông mày vẫn giữ
hình dáng biểu tượng ômêga, nhưng được kéo dài ra và đuôi vuốt chếch lên
phía sau. Trên lông mày và chiếc sừng hai chạc, đầu sừng cuộn tròn lại.
Rồng có râu ngắn và một chân trước thường đưa lên đỡ râu, tư thế thướng
thấy ở các con rồng đời sau. Cổ rồng thường nhỏ hơn thân, một hiện tượng ít
thấy ở những con rồng trước đó. Như vậy rồng mang dạng thú xuất hiện cuối
đời Trần đã thấy phổ biến ở đời Lê Sơ nhưng vẫn còn mang dáng dấp truyền
thống của loài rắn.
Hình tượng rồng thời Nguyễn
Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã được
nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy rồng con
quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.
Trang trí lá đề tháp Bình Sơn - Vĩnh Phúc
Lá đề:
25