MỞ ĐẨU:
Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề thông qua tăng cường sự liên kết giữa các trường dạy nghề
1. Tính cấp thiết của đề tài:
và doanh nghiệp.
Lực lượng lao động lành nghề là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia dựa trên sự phát triển của sản xuất. Chúng ta
trung
cứusựvềthay
vấnđổi
đề diễn
chất lượng
tạo nghề,
sự triển
liên
đang Luận
sống văn
trongtậpmột
thếnghiên
giới mà
ra từngđào
ngày,
sự phát
kết
giữangừng
các trường
dạy nghề
vớithuật
doanhthúc
nghiệp
đào tạo
hệ
không
của khoa
học kỹ
đẩy trong
sản xuất
phátnghề,
triển.mối
Vôquan
số các
giữa
đào mới,
tạo vàcác
mức
giữađược
trường
doanh
công chất
nghệ,lượng
kỹ thuật
loạiđộvậtliên
liệukếtmới
ứngvới
dụng
vào nghiệp
sản xuấttrong
đòi
đào
tạo nghề.
hỏi người
lao động phải được đào tạo ở những trình độ lành nghề nhất định.
Về
tập nhiều
trung trường
nghiên dạy
cứu nghề
về chất
lượng
Hiệnkhông
nay, ỏgian:
Việt luận
Namvăn
có rất
đang
thực đào
hiệntạo
đàonghề
tạo
và
sự với
liên quy
kết với
đàocấu
tạongành
nghề tại
15 phong
trườngphú.
dạy nghề
thuộc
nghề
mô doanh
tương nghiệp
đối lớntrong
và cơ
nghề
Tuy nhiên,
dự
Giáo dục
Dạycác
nghề,
Tổngdạy
cụcnghề
Dạy chưa
nghề.cao. Rất nhiều người sau
chấtánlượng
đào Kỹ
tạo thuật
ở hầuvàhết
trường
khi đã
nghiệp
dạytrung
nghềnghiên
vẫn không
đáp trạng
ứng được
công
Vềtốtthời
gian: các
luậntrường
văn tập
cứu thực
trongyêu
giaicầu
đoạn
từ
việc.
Một
trong
những
nguyên
nhân
quan
trọng
của
hiện
tượng
này
là
do
thiếu
năm 2003 đến năm 2007. Các giải pháp cho giai đoạn tiếp theo.
sự liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề. Cung đào tạo
4. Phương pháp nghiên cứu:
do các trường dạy nghề đưa ra chủ yếu dựa trên khả năng của mình mà không
Sử đường
dụng phương
pháp
tíchdoanh
tổng nghiệp.
hợp, so Điều
sánh, này
điềudẫn
tra đến
mẫu,
kê
tính tới
cầu tương
ứngphân
từ các
sựthống
mất cân
số
đốiliệu.
cung - cầu đào tạo cả về quy mô, cơ cấu và đặc biệt là chất lượng, gây ra
những
phí lớn
giảm hiệu quả đào tạo.
5. lãng
Kết cấu
luậnvàvăn:
Xuất phát Tên
từ thực
trên và
điều cao
kiện chất
nghiên
cứu đạo
của bản
giả chọn
luậntế văn:
“Nâng
lượng
nghềthân,
bằngtácbiện
pháp
đề tài “Nâng cao
chấtcường
lượngsự
đàoliên
tạo kết
nghềgiữa
bằngcác
biệntrường
pháp tăng
kết
tăng
dạy cường
nghề sự
vớiliên
doanh
giữa các trường nghiệp.
dạy nghề với doanh nghiệp” làm luận văn thạc sỹ cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Kết cấu luận văn: Ngoài mục lục, lời mở đầu, danh mục chữ viết
Việc nghiên
đề tài
nàybảng
nhằmbiểu,
mụckết
đích:
tắt,cứu
danh
mục
luận và các tài liệu tham khảo, luận
văn
được chia
chương:
Hệ thống
mộtlàm
số 3vấn
đề lý luận cơ bản về đào tạo nghề, chất
sự lượng
liên kết
và doanh
+ Chương 1: Cơ sở lượng
lý luậnđào
về tạo
nângnghề
cao và
chất
đàogiữa
tạo nhà
nghề trường
bằng biện
pháp
nghiệp
trong
đào
tạo
nghề.
Đồng
thời
luận
văn
cũng
giới
thiệu
tăng cường sự liên kết giữa trường dạy nghề và doanh nghiệp.
một số phương pháp đào tạo nghề và mô hình liên kết đào tạo
+ Chương 2: Phân nghề
tích phổ
thựcbiến
trạng
về Nam
chấtvàlượng
đào tạo và sự liên kết giữa
ở Việt
các nước.
trường và doanh nghiệp tại các trường dạy nghề thuộc dự án giáo dục kỹ thuật
và dạy nghề. Tập trung phân tích và đưa ra những đánh giá, kết luận về chất
lượng đào tạo, mức độ liên kết giữa các trường và doanh nghiệp
CHƯƠNG 1: cơ SỞ LÝ LUẬN VỂ NÂNG CAO CHÂT LƯỢNG ĐÀO
TẠO NGHỂ BẰNG BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG sụ LIÊN KÊT GIỮA
TRƯỜNG DẠY NGHỂ VÀ DOANH NGHIỆP.
1.1 Đào tạo nghề và chất lưựng đào tạo nghề.
1.1.1
Khái niệm về đào tạo nghé, phân loại và các hình thức đào tạo nghề.
1.1.1.1
Khái niệm về đào tạo nghề.
Luật dạy nghề ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006 định nghĩa: “Dạy
nghề (đào tạo nghề) là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”.
Mục tiêu dạy nghề là đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất,
dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo, có đạo đức,
lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ
nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc
làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, nội dung của đào tạo nghề bao gồm: trang bị các kiến thức lý
thuyết cho học viên một cách có hệ thống và rèn luyện các kỹ năng thực hành,
tác phong làm việc cho học viên trong phạm vi ngành nghề họ theo học nhằm
giúp họ có thể làm một nghề nhất định.
Đào tạo nghề bao gồm: đào tạo công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí,
điện tử, xây dựng, sửa chữa ...); đào tạo nhân viên nghiệp vụ (nhân viên đánh
máy, nhân viên lễ tân, nhân viên bán hàng, nhân viên tiếp thị ...) và phổ cập
nghề cho người lao động (chủ yếu là lao động nông nghiệp).
Có rất nhiều cách phân loại đào tạo nghề, tuỳ theo mỗi loại tiêu thức ta có
thể phân loại đào tạo nghề thành các loại hình khác nhau. Trong phạm vi bài
này chỉ xét hai tiêu thức phân loại như sau:
• Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề:
- Đào tạo ngắn hạn: Là loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo dưới
một năm, chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề. Loại hình này có ưu điểm là có
thể tập hợp được đông đảo lực lượng lao động ở mọi lứa tuổi, những người
không có điều kiện học tập tập trung vẫn có thể tiếp thu được tri thức ngay tại
chỗ, với sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan đoàn thể, địa phương, Nhà nước về
mặt giáo trình, giảng viên...
- Đào tạo dài hạn: Là loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo từ một
năm trở lên, chủ yếu áp dụng đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên
nghiệp vụ. Đào tạo nghề dài hạn thường có chất lượng cao hơn các lớp đào tạo
ngắn hạn.
• Căn cứ vào nghề đào tạo đối với người học:
- Đào tạo mới: Là loại hình đào tạo nghề áp dụng cho những người chưa
có nghề (đào tạo mới là để đáp ứng yêu cầu tăng thêm lao động có nghề).
- Đào tạo lại: Là quá trình đào tạo nghề áp dụng với những người đã có
nghề song vì lý do nào đó, nghề của họ không còn phù hợp nữa.
- Đào tạo nâng cao: Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc
phức tạp hơn.
b) Các hình thức đào tạo nghề.
Các hình thức đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng nhìn chung là
rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, về cơ bản đào tạo nghề hiện nay thường
áp dụng
mộttạo
sốnghề
hìnhchính
thức chính
Đào
quy: sau đây:
Theo quy định của Luật dạy nghề, đào tạo nghề chính quy đuợc thực hiện
với các chương trình sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các cơ sở
dạy nghề theo các khoá học tập trung và liên tục.
Có thể hiểu đào tạo nghề chính quy là loại hình đào tạo tập trung tại các
trung tâm dạy nghề, các trường nghề với quy mô đào tạo tương đối lớn, chủ yếu
là đào tạo các công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề cao.
Việc đào tạo công nhân kỹ thuật thường chia làm hai giai đoạn: giai đoạn
học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn. Giai đoạn học tập cơ bản là
giai đoạn đào tạo nghề theo diện rộng, thường chiếm từ 70% đến 80% nội dung
giảng dạy và tương đối ổn định. Còn trong giai đoạn học tập chuyên môn, người
học được trang bị những kiến thức chuyên sâu và rèn luyện những kỹ năng, kỹ
xảo để nắm vững nghề đã chọn.
Ưu điểm cơ bản của hình thức đào tạo này là: Học sinh được học một
cách có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, tạo điều
kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức nhanh chóng và dễ dàng; Đào tạo tương đối
toàn diện cả lý thuyết lẫn thực hành.
Với hình thức đào tạo chính quy, sau khi đào tạo, học viên có thể chủ
động, độc lập giải quyết công việc, có khả năng đảm nhận các công việc tương
đối phức tạp, đòi hỏi trình độ lành nghề cao. Cùng với sự phát triển của sản xuất
và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hình thức đào tạo này ngày càng giữ vai trò
quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật.
Tuy nhiên, đào tạo chính quy cũng có nhược điểm là: Thời gian đào tạo
tương đối dài; Đòi hỏi phải đầu tư lớn để đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, đội ngũ
giáo viên, các cán bộ quản lý... nên kinh phí đào tạo cho một học viên là rất
lớn.
• Đào tạo nghề tại nơi làm việc (đào tạo trong công việc):
Đào tạo nghề tại nơi làm việc là hình thức đào tạo trực tiếp, trong đó
qua thực tế thực hiện công việc và thường là dưới sự hướng dẫn của những người
lao động có trình độ cao hơn. Hình thức đào tạo này thiên về thực hành ngay
trong quá trình sản xuất và thường là do các doanh nghiệp (hoặc các cá nhân
sản xuất) tự tổ chức.
Chương trình đào tạo áp dụng cho hình thức đào tạo tại nơi làm việc
thường chia làm bai giai đoạn: Giai đoạn đầu, người hướng dẫn vừa sản xuất vừa
hướng dẫn cho học viên; Giai đoạn hai, giao việc làm thử cho học viên sau khi
họ đã nắm được các nguyên tắc và phương pháp làm việc; Giai đoạn ba, giao
việc hoàn toàn cho học viên khi họ đã có thể tiến hành làm việc một cách độc
lập.
Hình thức đào tạo tại nơi làm việc có nhiều ưu điểm như: Có khả năng
đào tạo nhiều người cùng một lúc ở tất cả các doanh nghiệp, phân xưởng; Thời
gian đào tạo ngắn; Không đòi hỏi điều kiện về trường lớp, giáo viên chuyên
trách, bộ máy quản lý, thiết bị học tập riêng... nên tiết kiệm chi phí đào tạo;
Trong quá trình học tập, người học còn được trực tiếp tham gia vào quá trình lao
động, điều này giúp họ có thể nắm chắc kỹ năng lao động.
Nhược điểm cơ bản của đào tạo tại nơi làm việc là: Việc truyền đạt và
tiếp thu kiến thức không có tính hệ thống; Người dạy không có nghiệp vụ sư
phạm nên hạn chế trong quá trình hướng dẫn, việc tổ chức dạy lý thuyết gặp
nhiều khó khăn... nên kết quả học tập còn hạn chế; Học viên không chỉ học
những phương pháp tiên tiến mà còn có thể bắt chước cả những thói quen không
tốt của người hướng dẫn. Vì vậy, hình thức đào tạo này chỉ phù hợp với những
công việc đòi hỏi trình độ không cao.
• Tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp:
Đây là hình thức đào tạo theo chương trình gồm hai phần lý thuyết và
thực hành. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật
phụ trách. Còn phần thực hành thì được tiến hành ở các xưởng thực tập do các
dụng để đào tạo cho những nghề phức tạp, đòi hỏi có sự hiểu biết rộng về lý
thuyết và độ thành thục cao.
ưu điểm nổi bật của các lớp cạnh doanh nghiệp là: Dạy lý thuyết tương
đối có hệ thống, đồng thời học viên lại được trực tiếp tham gia lao động ở các
phân xưởng, tạo điều kiện cho họ nắm vững nghề; Bộ máy đào tạo gọn, chi phí
đào tạo không lớn. Tuy nhiên, hình thức đào tạo này chỉ áp dụng được ở những
doanh nghiệp tương đối lớn và chỉ đào tạo cho các doanh nghiệp cùng ngành có
tính chất giống nhau.
• Đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp:
Hình thức đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp được áp dụng
khá rộng rãi trên thế giới nhưng mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong những năm
gần đây và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu “đào tạo nghề kết
hợp tại trường và doanh nghiệp là hình thức đào tạo dựa trên hệ thống dạy và
học có hai chỗ học, sự tích hợp chức năng của hai chỗ học tạo thành chức năng
chung của hệ thống”.
Đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp có thể được tổ chức dưới
nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo điều kiện, quan điểm ở từng vùng, lãnh thổ
và khu vực.
Hình thức đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp xuất hiện ở
Việt Nam còn quá yếu, mới chỉ thực hiện ở một số khía cạnh của việc kết hợp
đào tạo và được biểu hiện ở các hoạt động như:
Đào tạo theo đơn đặt hàng (Một số doanh nghiệp đặt hàng cho các trường
đào tạo);
Một số tổng công ty lớn thành lập trường đào tạo riêng;
Nhà trường có xưởng sản xuất;
Một số trường liên kết đưa sinh viên đi thực tập ở các doanh nghiệp.
Chất lượng là một khái niệm tương đối trừu tượng, cùng với sự phát triển
của xã hội, khái niệm chất lượng cũng có những thay đổi đáng kể. Trước đây,
người ta coi chất lượng là một khái niệm “tĩnh” với tiêu chuẩn chất lượng được
coi là cố định và tồn tại trong một thời gian dài. Ngày nay, khái niệm chất lượng
không được gắn với một tiêu chuẩn cố định nào đó, mà “chất lượng là một hành
trình, không phải là một điểm dừng cuối cùng mà ta đi tới”. Đây là quan niệm
“động” về chất lượng, trong đó chất lượng được xác định bởi người sử dụng sản
phẩm - dịch vụ hay trong nền kinh tế thị trường còn gọi là khách hàng. Khách
hàng cảm thấy thoả mãn khi sử dụng sản phẩm - dịch vụ có nghĩa là sản phẩm dịch vụ đó có chất lượng.
Bên cạnh sự thay đổi về thời gian thì từ những cách tiếp cận khác nhau
cũng dẫn đến những khái niệm khác nhau về chất lượng. Có một số khái niệm
tiêu biểu về chất lượng như:
“Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của
sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự
vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra
bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm
một, gắn bó với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách
rời khỏi sự vật. Sự vật khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất đi chất
lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật. về căn
bản, chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với tính qui định về số lượng của nó
và không thể tồn tại ngoài tính qui định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống
nhất giữa số lượng và chất lượng” - theo từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn
hoá - Thông tin, năm 1999.
“Chất lượng là mức độ mà một tập hợp các đặc trưng vốn có đáp ứng
được các yêu cầu của khách hàng và những người khác có quan tâm” - theo ISO
9000 (năm 2000).
Trên đây là các khái niệm chung về chất lượng mà khi xét cho từng đối
1.1.2.2
Quan điểm về chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là vấn
đề cơ bản và là mục tiêu phấn đấu không ngừng của các cấp quản lý giáo dục đào tạo cũng như các cơ sở đào tạo trực tiếp. Có nhiều cách hiểu khác nhau về
chất lượng đào tạo nghề với những khía cạnh khác nhau.
Quan điểm nguồn lực ở phương Tây cho rằng chất lượng đào tạo nghề
phụ thuộc đầu vào của hệ thống đào tạo. Khi có các yếu tố đầu vào có chất
lượng như: giáo viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi, cơ sở vật chất đầy đủ, học sinh
giỏi ... thì chất lượng đào tạo nghề được nâng cao. Cũng có quan điểm cho rằng
chất lượng đào tạo nghề được đánh giá bằng sản phẩm của quá trình đào tạo
(đầu ra), tức là bằng mức độ hoàn thành của học viên tốt nghiệp. Một số quan
điểm khác lại khẳng định chất lượng đào tạo nghề được quyết định bởi các quá
trình hoạt động bên trong, đặc biệt là hệ thống thông tin và hệ thống các quyết
định tối ưu.
Theo GS.TS Đặng Quốc Bảo, chất lượng đào tạo là kết quả cuối cùng đạt
được bởi sự tác động tích cực của các yếu tố cấu thành của quá trình đào tạo. Có
MT
GV
HV
ND
pp, PT
csvc, TC
Trong đó:
MT: muc tiêu đào tao.
- pp, PT: phương pháp đào tạo, phương tiện phục vụ đào tạo.
- GV: giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo.
- HV: học viên.
- ND: nội dung đào tạo.
- csvc, TC: cơ sở vật chất, tài chính phục vụ đào tạo.
- Q: chất lượng đào tạo.
Hệ thống kiểm định quốc gia Việt Nam quan niệm “Chất lượng sẽ được
đánh giá bằng cách khách hàng xếp hạng tầm quan trọng của các đặc trưng
phẩm chất đối nghịch với tính nhất quán và giá trị bằng tiền”. Đào tạo nghề sẽ
đảm bảo, nâng cao chất lượng nếu thực hiện tốt các yếu tố như: đáp úng yêu cầu
của khách hàng; tập trung vào con người và mọi người đóng góp xây dựng tổ
chức của mình; có tầm nhìn dài hạn; quản lý sự thay đổi một cách có hiệu quả;
có đổi mới; hữu hiệu; tổ chức tiếp thị tốt với thị trường.
Xuất phát từ những khái niệm chung về chất lượng và các quan niệm về
chất lượng đào tạo nghề nêu trên, có thể hiểu chất lượng đào tạo nghề với những
điềm cơ bản như sau: “Chất lượng đào tạo nghề là kết quả tác động tích cực
của tất cả các yếu tô cấu thành hệ thông đào tạo nghê và quá trình đào tạo
vận hành trong môi trường nhất định ”.
1.1.3 Các yếu ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng giáo dục nói chung và đào tạo nghề nói riêng chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan. Có thể phân các
yếu tố chủ yếu thành các nhóm để xem xét như sau:
1.1.3.1Các yếu tố bên trong (yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo nghề):
Đào tạo nghề chịu ảnh hưởng trước tiên là của các nhân tố bên trong của
văn bằng chứng chỉ..nhũng yếu tố này được coi là những yếu tố đảm bảo chất
lượng của đào tạo nghề. Chúng ta xét một số yếu tố chính như sau:
* Cơ sở vật chất, tài chính:
Co sở vật chất bao gồm: phòng học, xưởng thực hành co bản và thực tập
sản xuất, thư viện - học liệu, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập...
Đây là yếu tố hết sức quan trọng, nó tác động trực tiếp đến chất lượng đào tạo
nghề. Máy móc, trang thiết bị là những thứ không thể thiếu trong quá trình đào
tạo nghề, nó giúp cho học viên có điều kiện thực hành để hoàn thiện kỹ năng.
Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề càng tốt, càng hiện đại, theo sát
với công nghệ sản xuất thực tế bao nhiêu thì người học viên càng có thể thích
úng, vận dụng nhanh chóng trong công việc bấy nhiêu. Do vậy, cơ sở vật chất
trang thiết bị cho đào tạo nghề đòi hỏi phải theo kịp với tốc độ đổi mới của máy
móc, công nghệ sản xuất.
Tài chính cho đào tạo nghề cũng là một trong những yếu tố cơ bản đảm
bảo chất lượng đào tạo, nó tác động gián tiếp tới chất lượng đào tạo nghề thông
qua khả năng trang bị về cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị giảng dạy, khả
năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên, .... Tài chính đầu tư cho đào
tạo nghề càng dồi dào thì càng có điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo nghề.
Các nguồn tài chính chủ yếu cho đào tạo nghề bao gồm: các nguồn lực từ Ngân
sách nhà nước, đóng góp của bên hợp tác (doanh nghiệp), các nguồn hỗ trợ
khác.
* Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý:
Giáo viên dạy nghề là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức lý thuyết
cũng như các kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của mình cho các học viên trên cơ
sở trang thiết bị dạy học hiện có. Vì vậy, năng lực giáo viên dạy nghề tác động
trực tiếp đến chất lượng đào tạo nghề.
Đào tạo nghề có những nét khác biệt so với các cấp học khác trong nền
cũng có trình độ văn hóa rất khác nhau. Bên cạnh đó, cấp trình độ đào tạo ở các
cơ sở đào tạo nghề cũng rất khác nhau (chưa có nghề, trung cấp nghề, cao đẳng
nghề, bồi dưỡng, nâng bậc thợ). Sự khác biệt này dẫn đến đội ngũ giáo viên dạy
nghề cũng rất đa dạng với nhiều cấp trình độ khác nhau.
Vì vậy, giáo viên dạy nghề phải có đủ cả về số lượng và chất lượng, có đủ
về số lượng thì mới có thể tận tình hướng dẫn, theo sát học viên và đội ngũ giáo
viên có chất lượng thì mới có thể giảng dạy và truyền đạt cho các học viên học
nghề một cách hiệu quả.
Một loại nhân lực khác cũng có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề
đó là đội ngũ cán bộ quản lý dạy nghề. Trong giai đoạn trước đây, vai trò của
các cán bộ quản lý trong các cơ sở đào tạo không được đánh giá cao, tuy nhiên
trong giai đoạn hiện nay, nhất là trước bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh
trong lĩnh vực dạy nghề đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải là những người thực
sự có trình độ. Chất lượng cán bộ quản lý cũng có ảnh hưởng rất lớn đến đào tạo
nghề, thể hiện qua khả năng tổ chức, quản lý, điều phối quá trình đào tạo, tìm
kiếm cơ hội hợp tác, liên kết đào tạo...
* Học viên học nghề:
Học viên học nghề là nhân tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối
với công tác đào tạo nghề, nó ảnh hưởng toàn diện tới công tác đào tạo nghề.
Trình độ văn hoá, sự hiểu biết, tâm lý, cá tính, khả năng tài chính, quỹ thời
gian... của bản thân học viên đều có ảnh hưởng sâu sắc tới quy mô và chất
lượng đào tạo nghề. Trình độ văn hoá cũng như khả năng tư duy của học viên
càng cao thì khả năng tiếp thu các kiến thức trong quá trình học nghề càng tốt,
khi ấy chất lượng đào tạo nghề càng cao và ngược lại.
* Mục tiêu đào tạo:
Hệ thống mục tiêu đào tạo bao gồm: các mục tiêu ngành, quốc gia; mục
tiêu trường (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn); mục tiêu đáp ứng yêu cầu thực tiễn
của thị trường chung; mục tiêu đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp họp tác đào
càng được nâng cao. Do đó, khi xây dựng mục tiêu đào tạo cần phải có sự khảo
sát, nghiên cứu kỹ lưỡng đối với từng yếu tố.
* Chương trình, giáo trình đào tạo:
Chương trình đào tạo là điều kiện không thể thiếu trong quản lý nhà nước
các cấp, các ngành đối với hoạt động của các cơ sở đào tạo nghề. Chương trình
đào tạo phù hợp được các cấp có thẩm quyền phê duyệt là một trong những yếu
tố quan trọng, quyết định chất lượng đào tạo. Không có chương trình đào tạo sẽ
không có các căn cứ để xem xét, đánh giá bậc đào tạo của các đối tượng tham
gia đào tạo và việc đào tạo sẽ diễn ra tự phát không theo một tiêu chuẩn thống
nhất.
Trong lĩnh vực dạy nghề, chương trình đào tạo gắn với nghề đào tạo.
Không có chương trình đào tạo chung cho các nghề mà mỗi loại nghề đều có
chương trình riêng. Do vậy, một cơ sở dạy nghề có thể có nhiều chương trình
đào tạo nếu như cơ sở đó đào tạo nhiều nghề. Điều này đòi hỏi việc nghiên cứu,
đánh giá thực trạng về chương trình đào tạo nghề xét ở mức độ có hay không có,
không thể chí căn cứ vào cơ sở đào tạo nghề mà phải căn cứ vào các nghề mà cơ
sở đó đào tạo.
Chương trình đào tạo bao gồm phần lý thuyết và phần thực hành, tương
úng với mỗi nghề thì tỷ lệ phân chia giữa hai phần này là khác nhau về lượng
nội dung cũng như thời gian học.
Với giáo trình cũng tương tự, giáo trình là những quy định cụ thể hơn của
chương trình về từng môn cụ thể trong đào tạo. Nội dung giáo trình phải tiên
tiến, phải thường xuyên được cập nhật kiến thức mới thì việc đào tạo mới sát
thực tế và hiệu quả đào tạo nghề mới cao.
Việc nghiên cứu, xây dựng các chương trình, giáo trình sao cho họp lý và
sát với nhu cầu đào tạo cũng như sát với nghề đào tạo để học viên có thể nắm
vững được nghề sau khi tốt nghiệp là vấn đề rất quan trọng và ảnh hưởng trực
Trên đây là các yếu tố cơ bản bên trong của quá trình đào tạo nghề. Chất
lượng của các yếu tố này sẽ tác động quyết định tới chất lượng đào tạo nghề.
Tuy nhiên, hệ thống đào tạo nghề vận hành trong môi trường văn hoá,
chính trị, xã hội ... nhất định và cũng chịu sự tác động qua lại của điều kiện môi
trường.
1.1.3.2
Các yếu tố bên ngoài:
Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề bao gồm các
điều kiện môi trường của hệ thống đào tạo nghề. Các yếu tố này ảnh hưởng tới
chất lượng đào tạo nghề với tính chất là điều kiện, hỗ trợ cho hệ thống, hợp với
các yếu tố bên trong thành hệ các yếu tố tác động đến chất lượng đào tạo nghề.
Các yếu tố bên ngoài tác động đến chất lượng đào tạo nghề thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau như: thể chế chính trị, kinh tế - xã hội, khoa học - công
nghệ, địa lý, truyền thống - văn hoá, .... Tuy nhiên cần quan tâm hơn đến một
số yếu tố cơ bản như: Hội nhập kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá; Sự phát triển
của khoa học kỹ thuật; Thể chế chính trị; Sự phát triển kinh tế - xã hội; Cơ chế chính sách; Qui mô - cơ cấu lao động; Nhận thức xã hội về đào tạo nghề. Các
1.2 Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề.
1.2.1 Các nội dung và hình thức liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp
trong lĩnh vực đào tạo nghề.
Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề đang được
hiểu với nhiều ý nghĩa, khía cạnh khác nhau ở những mức độ khác nhau. Trong
phạm vi luận văn này, khái niệm “liên kết” được hiểu là mọi quan hệ tương tác
giữa nhà trường và doanh nghiệp, hợp thành một hệ thống đào tạo nghề thống
nhất và phù hợp, trong đó chức năng của hệ thống được tích họp từ hai bộ phận
tạo thành là nhà trường và doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề.
1.2.1.1
Liên kết về tổ chức đào tạo.
Nội dung liên kết phổ biến giữa các cơ sở dạy nghề và các doanh nghiệp
hiện nay là liên kết trong việc tổ chức đào tạo, tức là việc đào tạo (dạy nghề)
cho học viên sẽ được thực hiện bởi cả hai chủ thể là nhà trường và doanh
nghiệp. Nội dung, thời gian đào tạo mà mỗi chủ thể phải thực hiện tuỳ thuộc
vào sự thoả thuận, phân công ban đầu. Chương trình đào tạo của từng nghề,
nguồn lực về tài chính, nhân sự, cơ sở vật chất... của từng chủ thể là căn cứ để
phân chia công việc mà nhà trường hay doanh nghiệp phải thực hiện trong toàn
khoá đào tạo. Thông thường, việc đào tạo lý thuyết sẽ do nhà trường thực hiện
còn phía doanh nghiệp sẽ đảm nhận việc dạy thực hành. Tuy nhiên, tuỳ theo
điều kiện cụ thể của mỗi bên trong quá trình hên kết, việc tổ chức đào tạo sẽ có
những biểu hiện cụ thể khác nhau hay nói cách khác là hình thức đào tạo sẽ
khác nhau.
1.2.1.2
Liên kết về tài chính và cơ sở vật chất.
Liên kết về tài chính là phía doanh sẽ hỗ trợ trực tiếp (hoặc gián tiếp) cho
nhà trường một phần (hoặc toàn bộ) kinh phí đào tạo nghề cho học viên .
Trên thế giới hiện nay, việc doanh nghiệp đóng góp kinh phí cho đào tạo
nghề rất phổ biến, thậm chí là bắt buộc ở một số nước nếu doanh nghiệp muốn
sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề. Mức độ liên kết về tài chính giữa nhà
trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề tuỳ thuộc quy định của từng quốc
gia và khả năng tài chính cũng như nhu cầu về nhân lực của doanh nghiệp. Trên
thực tế có nhiều kiểu liên kết tài chính, tiêu biểu là các kiểu liên kết như sau:
Doanh nghiệp tới các trường để tuyển lao động, sau khi tuyển dụng
xong họ trả lại tiền đào tạo cho Nhà nước. Căn cứ vào số lượng lao động mà
doanh nghiệp tuyển dụng, Nhà nước lại chuyển số tiền mà doanh nghiệp đã nộp
vào cho nhà trường (mô hình liên kết tại Hàn Quốc).
Căn cứ nhu cầu sử dụng lao động của mình, doanh nghiệp đặt hàng
với nhà trường và chi trả toàn bộ kinh phí đào tạo cho nhà trường. Người lao
động sau khi được đào tạo sẽ làm việc cho doanh nghiệp (việc tuyển sinh có thể
do nhà trường thực hiện hoặc do doanh nghiệp tuyển người và gửi đến trường để
học.
Hàng năm, doanh nghiệp cấp một lượng học bổng nhất định cho
các học viên của trường. Nhà trường sẽ có những ưu tiên trong việc giới thiệu
học viên sau khi tốt nghiệp tới làm việc tại doanh nghiệp.
Doanh nghiệp khi sử dụng học viên đã tốt nghiệp phải nộp cho
trường nghề hoặc cho Nhà nước một khoản thuế (thuế học nghề) bằng 0,5% quỹ
lương của doanh nghiệp. Trong đó, 0,2% cho trường và 0,3% cho cán bộ doanh
nghiệp tham gia đào tạo nghề (mô hình đào tạo kết hợp điển hình tại Pháp).
Trường hợp các học viên đến thực tập tại doanh nghiệp và làm ra
sản phẩm, doanh nghiệp sẽ trích một phần doanh thu đó trả cho nhà trường để
đầu tư trở lại cho đào tạo.
Doanh nghiệp đầu tư thiết bị, phương tiện thực hành cho nhà
trường đối với những nghề mà doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động.
Doanh nghiệp cho nhà trường tận dụng máy móc, thiết bị, nhà
1.2.1.3
Liên kết về nhân sự.
Liên kết về nhân sự bao gồm có liên kết về giáo viên giảng dạy và cán bộ
quản lý đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Đội ngũ giáo viên là yếu tố co bản có tính chất quyết định sự đảm bảo và
nâng cao chất lượng đào tạo. Thông thường, khi kết hợp về mặt giáo viên giữa
nhà trường và doanh nghiệp thì sự kết hợp đó được biểu hiện dưới các hình thức
như sau:
Các trường đào tạo nghề sẽ cung cấp toàn bộ đội ngũ giáo viên
giảng dạy lý thuyết và chịu trách nhiệm tổ chức đào tạo các nội dung lý thuyết
của khoá học. Các doanh nghiệp sẽ tổ chức đào tạo phần thực hành với đội ngũ
giáo viên dạy thực hành là các cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp.
Nhà trường tổ chức đào tạo cả lý thuyết và thực hành co bản. Cuối
khoá học, khi học viên bước vào giai đoạn thực tập sản xuất (thực tập tốt
nghiệp), doanh nghiệp sẽ cử những công nhân lành nghề hoặc kỹ sư hướng dẫn
trực tiếp tại các phân xưởng sản xuất của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp mời giáo viên tại các cơ sở đào tạo tới giảng dạy trực
tiếp tại các lớp học do doanh nghiệp tự tổ chức. Hình thức này thường áp dụng
cho các lớp học ngắn hạn nhằm đào tạo lại hoặc đào tạo bồi dưỡng, nâng cao
kiến thức cho người lao động của doanh nghiệp.
Nhà trường mời các cán bộ của doanh nghiệp tham dự các buổi
thảo luận, trao đổi trực tiếp với học viên về những công nghệ sản xuất mới của
doanh nghiệp để giúp học viên cập nhật kiến thức mới và tích luỹ kinh nghiệm.
Cùng với đội ngũ giáo viên, các cán bộ quản lý của nhà trường cũng phải
liên kết chặt chẽ với cán bộ quản lý của các doanh nghiệp trong quá trình đào
tạo kết hợp nhằm tổ chức và quản lý việc đào tạo có hiệu quả hơn.
1.2.1.4
Liên kết về thiết kế và xây dựng chương trình đào tạo.
thị trường lao động. Việc xây dụng chương trình đào tạo sát hơn với yêu cầu
thực tiễn của nền sản xuất hiện đại làm cho chất lượng đào tạo nghề được đánh
giá là cao hơn. Muốn như vậy, nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với doanh
nghiệp trong việc xây dựng chương trình đào tạo. Mỗi chương trình đào tạo phải
được xây dựng với sự tham gia của các chuyên gia về phát triển tài liệu, cán bộ
có nghiệp vụ chuyên môn, giáo viên có trình độ - kinh nghiệm giảng dạy và các
chuyên gia thực tiễn của các doanh nghiệp. Hình thức liên kết xây dựng chương
trình tiêu biểu là: Căn cứ theo chương trình khung thống nhất của Nhà nước,
nhà trường phối hợp với khối cơ quan quản lý Nhà nước về đào tạo nghề xây
dựng Chương trình đào tạo lý thuyết; phối hợp với các hiệp hội nghề nghiệp,
phòng công nghiệp và doanh nghiệp xây dựng chương trình đào tạo thực hành
có định hướng theo yêu cầu phát triển công nghệ sản xuất của các doanh
nghiệp.
Liên kết xây dựng chương trình đào tạo giữa nhà trường, doanh nghiệp và
cơ quan quản lý của Nhà nước sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề,
đảm bảo mục tiêu “đào tạo những cái xã hội cần chứ không phải đào tạo những
cái mà mình có”.
1.2.1.5
Liên kết về thông tin.
Liên kết về thông tin tức là phải thiết lập các kênh thông tin giữa nhà
trường và doanh nghiệp. Các thông tin về nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp
về số lượng, chất lượng lao động cũng như ngành nghề đào tạo là một trong
những căn cứ để các trường xác định qui mô, cơ cấu đào tạo, nội dung đào tạo.
Đồng thời, các trường cũng dựa vào các thông tin phản hồi của doanh nghiệp
khi sử dụng lao động được đào tạo bởi nhà trường để có những điều chỉnh phù
hợp chương trình đào tạo.
Liên kết về mặt thông tin giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo
nghề có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Tiêu
Các doanh nghiệp báo cáo định kỳ về nhu cầu sử dụng lao động tới
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc hiệp hội nghề nghiệp hay phòng
công nghiệp. Các trường có thể thu thập thông tin từ các tổ chức này để tổng
hợp và xác định qui mô, cơ cấu ngành nghề đào tạo, xu hướng đổi mới ngành
nghề, công nghệ sản xuất để có những điều chỉnh và đầu tư kịp thời về nội
dung, chương trình đào tạo cũng như phương tiện, thiết bị giảng dạy và giáo
viên.
Hằng năm, nhà trường tiến hành điều tra, khảo sát trực tiếp về nhu
cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp, thu thập thông tin phản hồi từ phía
doanh nghiệp khi sử dụng lao động được đào tạo...
Tổ chức các buổi giao lưu, trao đổi kinh nghiệm hoặc tổ chức hội
thảo, phổ biến về các công nghệ sản xuất mới... giữa nhà trường và doanh
nghiệp.
1.2.2 Tương quan tổ chức giữa trường và doanh nghiệp và các mức độ liên
kết trong đào tạo nghề.
1.2.2.1 Các kiểu tương quan về tổ chức giữa trường và doanh nghiệp.
Mối quan hệ về mặt tổ chức giữa trường nghề và doanh nghiệp chi phối
rất nhiều tới mức độ, hình thức cũng như hiệu quả liên kết giữa hai đối tượng
này trong lĩnh vực đào tạo nghề. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay
đang tồn tại nhiều kiểu quan hệ giữa trường nghề và doanh nghiệp song có thể
gộp lại thành ba nhóm quan hệ chủ yếu như sau:
Tổ chức trường nằm trong doanh nghiên:
Trường nghề nằm trong (thuộc) doanh nghiệp tức là nhà trường được coi
như một phân xưởng đào tạo của doanh nghiệp, chịu sự quản lý trực tiếp của
doanh nghiệp và do doanh nghiệp cấp kinh phí hoạt động. Kiểu tổ chức này
thường chí có ở một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn được cơ quan quản lý nhà
nước về đào tạo cho phép mở các trường đào tạo nghề trực thuộc doanh nghiệp
Với kiểu tổ chức này, quá trình đào tạo nghề mang một số đặc điểm như
sau:
- Giáo viên hầu hết là kỹ sư, công nhân giỏi của doanh nghiệp được cử
làm chuyên trách về đào tạo;
- Tuyển sinh chủ yếu theo yêu cầu phát triển nhân lực của doanh nghiệp
và một phần là đào tạo theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp khác (nếu đủ
điều kiện). Vì vậy, hầu hết học sinh tốt nghiệp đều được doanh nghiệp bố trí sử
dụng ngay;
- Chương trình đào tạo có thể theo chương trình quốc gia hoặc theo yêu
cầu riêng biệt của doanh nghiệp. Những khoá đào tạo theo chương trình quốc
gia được đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và sau khi tốt nghiệp,
học sinh được cấp bằng tốt nghiệp theo hệ thống văn bằng quốc gia. Đối với
những học sinh được đào tạo theo chương trình của doanh nghiệp sẽ được cấp
giấy chứng nhận tốt nghiệp. Giấy chứng nhận tốt nghiệp có giá trị trong phạm vi
doanh nghiệp và làm căn cứ để thăng tiến trong việc phân công lao động của
doanh nghiệp.
Trong kiểu tổ chức này, doanh nghiệp là chủ thể của quá trình liên kết
đào tạo và mọi hoạt động đào tạo của nhà trường đều phụ thuộc vào sự điều
hành của doanh nghiệp.
Việc liên kết ở đây có ưu điểm là: thực hiện trực để được nguyên lý học
đi đôi với hành, đào tạo gắn với sử dụng và quy luật cung cầu của cơ chế thị
trường trong đào tạo; Chất lượng đào tạo được nâng cao do học sinh được thực
hành thường xuyên trong điều kiện sản xuất thực tế với đầy đủ các phương tiện
sản xuất hiện đại, điều mà các trường nghề độc lập thường không có được.
Nhược điểm của loại hình tổ chức liên kết này là: Giáo viên của doanh
nghiệp thường giỏi về kỹ năng chuyên môn nhưng lại chưa được đào tạo hoặc
bồi dưỡng về sư phạm nên thường chỉ quan tâm đến rèn luyện kỹ năng nghề mà
ít quan tâm đến rèn luyện năng lực sáng tạo cho người học, điều này cũng ảnh
tạo thường hướng nhiều tới công việc và kế hoạch của doanh nghiệp nên có khi
ảnh hưởng đến kế hoạch đào tạo.
Ngoài ra, để tổ chức liên kết đào tạo theo mô hình này cũng cần phải có
những điều kiện nhất định mà ít doanh nghiệp có thể đáp ứng. Trước hết, doanh
nghiệp phải đủ mạnh, có tiềm năng và nhu cầu phát triển nhân lực trong tương
lai thì mới đủ sức và có nhu cầu mở trường dạy nghề thuộc xí nghiệp. Ở Việt
Nam cũng có chủ trương đưa trường dạy nghề về trực thuộc các Tổng công ty,
tuy nhiên có một số trường như trường của Bộ công nghiệp sau đó lại phải đưa
về trực thuộc các Bộ ngành.
Tổ chức doanh nghiệp nằm trong trường:
Để phát huy ưu điểm của việc học tập kết hợp với lao động sản xuất, ở
nhiều nước trên thế giới cũng như Việt Nam, các trường dạy nghề được phép
thành lập các doanh nghiệp (thường là dưới hình thức các đơn vị sản xuất) trong
trường. Doanh nghiệp này chịu sự quản lý trực tiếp của trường, do nhà trường
đầu tư kinh phí hoạt động. Trong mô hình tổ chức này, trường là chủ thể của
việc liên kết giữa đào tạo và sản xuất, doanh nghiệp (đơn vị sản xuất) được coi
như xưởng thực hành của trường. Như vậy, doanh nghiệp này phải thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ là vừa đào tạo vừa sản xuất ra sản phẩm đưa ra tiêu thụ
như các doanh nghiệp khác.
Với kiểu liên kết này, chất lượng đào tạo cũng được nâng cao do học sinh
được tiếp xúc trực tiếp với sản xuất. Tuy nhiên, hạn chế của kiểu tổ chức này là
các trường nghề thường không có đủ kinh nghiệm trong sản xuất và ít có điều
kiện để đầu tư được các trang thiết bị hiện đại như các doanh nghiệp khác. Hơn
nữa, các xưởng sản xuất mà doanh nghiệp thành lập thường chỉ phục vụ cho một
số lượng hạn chế nghề đào tạo của trường. Học sinh học nghề trong quá trình
học tập cũng chưa đủ những kỹ năng cần thiết để sản xuất ra những sản phẩm
có chất lượng có thể cạnh tranh trên thị trường.
Với loại hình tổ chức này, trường nghề và doanh nghiệp là những đơn vị
hoàn toàn độc lập với nhau, có mục tiêu và chức năng riêng. Việc liên kết đào
tạo ở đây được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, hai bên cùng có lợi.
Liên kết đào tạo nghề giữa trường nghề và các doanh nghiệp độc lập này
có tính linh hoạt cao, mỗi trường có thể thiết lập mối quan hệ liên kết với nhiều
doanh nghiệp khác nhau và ngược lại, mỗi doanh nghiệp cũng có thể liên kết
với nhiều trường nghề khác nhau tuỳ theo yêu cầu nhân lực của mình. Ưu điểm
của nó là tận dụng được thế mạnh của mỗi bên, thậm chí là của từng doanh
nghiệp khác nhau để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nhằm
phục vụ lợi ích của các bên mà không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ và kế hoạch
của bản thân họ. Tuy nhiên, khó khăn trong việc thực hiện liên kết đào tạo đối
với mô hình này trước hết là do nhiều đầu mối nên sẽ phức tạp trong việc quản
lý cũng như tổ chức thực hiện. Mặt khác, do trình độ công nghệ sản xuất của
các cơ sở khác nhau với các chuẩn chất lượng khác nhau sẽ tạo ra những khó
khăn cho nhà trường trong việc xác định chuẩn đào tạo.
1.2.2.2 Các mức độ liên kết.
Trên thực tế, sự liên kết đào tạo giữa trường nghề và các doanh nghiệp
được thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu và khả năng
của mỗi bên. về cơ bản, có thể chia sự liên kết này thành các mức độ như sau:
- Liên kết toàn diện: là sự liên kết trong đó có sự tham gia phối hợp của
phía doanh nghiệp cùng với nhà trường trong mọi lĩnh vực, mọi khâu của quá
trình đào tạo nghề. Đối với cấp độ liên kết này, phía doanh nghiệp sẽ góp phần
đầu tư trang thiết bị cho nhà trường hoặc tổ chức các phân xưởng đào tạo để nhà
trường và doanh nghiệp cùng sử dụng, cử kỹ sư và các công nhân lành nghề
cùng tham gia vào việc giảng dạy, tham gia với nhà trường từ khâu hướng
nghiệp học sinh phổ thông chọn nghề phù hợp để học, xây dựng mục tiêu, nội
dung chương trình đào tạo, tham gia đào tạo đánh giá kết quả học tập của học
sinh, tham gia giới thiệu việc làm cho học sinh...
Liên kết toàn diện thường chỉ có ở các mô hình tổ chức doanh nghiệp
nằm trong trường hoặc trường nằm trong doanh nghiệp. Đối với các mô hình tổ
chức độc lập giữa trường và doanh nghiệp thì khó đạt được mức độ liên kết toàn
diện song trên thực tế vẫn có một số trường thiết lập được hợp đồng liên kết
toàn diện và thường xuyên.
- Liên kết từng phần (có giới hạn): là sự liên kết chỉ được thực hiện trong
một số lĩnh vực hoặc một số khâu của quá trình đào tạo nghề. Ví dụ, doanh
nghiệp hàng năm nhận học sinh của trường vào thực tập sản xuất, thực tập tốt
nghiệp...
Với mức độ liên kết từng phần, có thể chia ra làm hai loại là liên kết
thường xuyên và liên kết rời rạc. Liên kết thường xuyên là hai bên duy trì sự
liên kết một cách liên tục, đều đặn trong thời gian dài ở một số nội dung nhất
định. Liên kết rời rạc là sự liên kết không đều đặn, mang tính thời điểm và chỉ
thực hiện khi các bên có nhu cầu và điều kiện.
Như vậy, sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề
rất đa dạng, có thể thực hiện dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau tuỳ theo
yêu cầu và điều kiện của các bên tham gia liên kết với mục tiêu sự hợp tác liên
kết này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai bên.
1.2.3 Một sô mô hình liên kết giữa trường dạy nghê và doanh nghiệp phổ
biến trên thẻ giới.
Đào tao kết hơp theo mô hình “Alternation”
“Altemation” theo cách gọi của tổ chức GTZ Việt Nam (trong tài liệu về
các hình thức đào tạo nghề trên thế giới) là “đào tạo phối hợp” là hình thức kết
hợp đào tạo điển hình tại Pháp. Đặc trưng của hình thức này là:
Chương trình đào tạo: Đào tạo chính quy cấp bằng nghề hoặc bồi dưỡng
nâng cao tay nghề, về đào tạo chính quy, trường hoàn toàn tuân thủ theo quy
chuẩn quốc gia, không được tự do về nội dung chương trình giảng dạy. về bồi
dưỡng nâng cao trình độ, không bắt buộc phải cấp văn bằng, chứng chỉ nghề và
Phương pháp tổ chức đào tạo: Các môn cơ bản - đại cương, các môn lý
thuyết chuyên môn, thực hành cơ bản được đào tạo tại trường cho giáo viên của
trường thực hiện. Thực tập sản xuất được tiến hành tại doanh nghiệp với sự tham
gia của cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp;
Tài chính: Doanh nghiệp khi sử dụng học viên đã tốt nghiệp phải nộp cho
trường đào tạo nghề hoặc cho Nhà nước một khoản thuế (thuế học nghề) bằng
0,5% quỹ lương của doanh nghiệp. Trong đó, 0,2% cho trường và 0,3% cho cán
bộ doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề;
Đánh giá kết quả đào tạo: Việc thi, kiểm tra, tốt nghiệp được thực hiện tại
trường. Kiểm tra tay nghề (thi thực hành) được tiến hành tại doanh nghiệp với
Hội đồng kiểm tra bao gồm giáo viên của trường và cán bộ của doanh nghiệp.
Đào tao kết hơv theo mô hình “Dual System”
Trong các tài liệu về đào tạo nghề tại Việt Nam, “Dual System” được gọi
bằng nhiều cách như “song tuyến”, “song hành”, “kép”... Tuy nhiên, dù được
gọi bằng cách nào thì về bản chất nội dung và hình thức của nó vẫn là “kết hợp
đào tạo tại trường và doanh nghiệp”. Trong phạm vi bài viết này sẽ sử dụng khái
niệm “song tuyến”.
Đào tạo kết hợp theo hình thức song tuyến là hình thức đào tạo nghề cơ
bản của Đức và chủ yếu là đào tạo để phục vụ cho doanh nghiệp. Đặc điểm cơ
bản của đào tạo song tuyến là:
Xây dựng mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo: Căn cứ theo chương
trình khung thống nhất của Nhà nước, khối cơ quan quản lý Nhà nước về đào
tạo nghề xây dựng Chương trình đào tạo lý thuyết và các hiệp hội nghề nghiệp,
phòng công nghiệp sẽ xây dựng chương trình đào tạo thực hành có định hướng
theo yêu cầu phát triển công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp;
Cơ sở vật chất sư phạm - trang thiết bị thực hành: đào tạo được tiến hành
cả ở trường và doanh nghiệp nên cơ sở vật chất trang thiết bị đào tạo gồm cả của
Cán bộ giáo viên: gồm cả giáo viên của trường và doanh nghiệp, trong đó
giáo viên của các trường sẽ dạy các môn lý thuyết;
Tài chính: do cả phía trường và doanh nghiệp đóng góp. Tài chính của
nhà trường lấy từ ngân sách Nhà nước và các khoản thu hợp lệ khác, về phía
doanh nghiệp sẽ cấp học bổng cho học sinh, đầu tư tuyển cán bộ hướng dẫn thực
hành tại doanh nghiệp, đầu tư cơ sở vật chất - sư phạm;
Đánh giá tốt nghiệp: Kết quả thi thực hành quyết định việc tốt nghiệp của
học viên, kết quả thi lý thuyết chỉ có giá trị tham khảo. Đề thi thực hành do các
phòng công nghiệp ra.
Mô hình đào tao tuần tư
Kết hợp theo mô hình đào tạo tuần tự tức là quá trình đào tạo được chia
làm hai giai đoạn và tiến hành ở hai địa điểm là trường và doanh nghiệp: Giai
đoạn một đào tạo lý thuyết và thực hành cơ bản tất cả các công việc của nghề tại
trường; giai đoạn hai là thực hành sản xuất theo từng công việc và thực hành tốt
nghiệp tại cơ sở sản xuất trong một thời gian dài.
Ưu điểm của mô hình này là đơn giản trong việc tổ chức quá trình đào tạo
kết họp và tận dụng được ưu thế của mỗi bên trong việc kết hợp. Tuy nhiên,
nhược điểm của nó là học lý thuyết và thực hành cũng như thực hành cơ bản và
thực hành sản xuất được tiến hành ở những khoảng thời gian cách xa nhau nên
học sinh dễ bị quên những điều đã học.
1.2.4 Tăng cường kiên kết giữa trường và doanh nghiệp nâng cao chất lượng
đào tạo nghề.
Như đã phân tích, chất lượng đào tạo nghề được đảm bảo bởi một hệ
thống các yếu tố, trong đó cơ bản là các yếu tố như: mục tiêu, nội dung chương
trình đào tạo; tổ chức và quản lý đào tạo; đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý;
cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo; tài chính... Nếu chất lượng của
Liên kết đào tạo giữa trường và doanh nghiệp sẽ tác động co bản, toàn
diện tới chất lượng của tất cả các yếu nói trên. Cụ thể là:
- Khi có sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp thì mục tiêu, nội
dung chương trình được xây dựng sát hơn với yêu cầu thực tiễn của những người
sử dụng lao động.
- Đa số đội ngũ giáo viên ở các cơ sở đào tạo nghề được đào tạo cơ bản,
đạt chuẩn của Nhà nước đề ra, song kinh nghiệm sản xuất trực tiếp và việc làm
thì chưa thành thục bằng những người thợ cả tại các cơ sở sản xuất. Khi nhà
trường và doanh nghiệp kết hợp đào tạo sẽ tận dụng được thế mạnh của cả phía
nhà trường và doanh nghiệp, đội ngũ giáo viên cho đào tạo nghề được tăng lên
cả về qui mô và chất lượng, đặc biệt là đội ngũ giáo viên thực hành, từ đó nâng
cao chất lượng đào tạo.
- Đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo tại các cơ sở đào tạo chủ yếu được chọn
ra từ đội ngũ giáo viên. Khi liên kết với các doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ quản
lý được bổ sung từ phía doanh nghiệp. Điều này rất có lợi cho việc tổ chức,
quản lý quá trình đào tạo, đặc biệt là các khâu tuyển sinh, thực tập sản xuất,
việc làm, tham gia xây dựng chương trình...
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo là một trong những yếu tố
cơ bản đảm bảo chất lượng đào tạo nghề. Liên kết đào tạo với doanh nghiệp thì
cơ sở vật chất phục vụ đào tạo sẽ tăng lên, thiết bị phục vụ đào tạo được cập
nhật, tăng lên về số lượng cũng như chất lượng. Đồng thời giúp học viên tiếp
cận với thực tế thiết bị hiện đại đang vận hành, dây chuyền sản xuất hiện đại.
- Tài chính phục vụ đào tạo nghề gồm các nguồn từ ngân sách, học phí,
các nguồn thu và hỗ trợ khác. Hiện nay, ngân sách nhà nước cấp rất hạn chế và
ở mức thấp so với quốc tế. Khi có sự liên kết về mặt tài chính, doanh nghiệp sẽ
đầu tư và đóng góp một phần kinh phí cho đào tạo học viên (mà họ sẽ sử dụng)
để phát triển nguồn nhân lực.