Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM - ASEAN GIAI ĐOẠN 1986 - 1995

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.15 KB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
---------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ

ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUAN HỆ ĐỐI
NGOẠI VIỆT NAM - ASEAN
GIAI ĐOẠN 1986 - 1995

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS VŨ QUANG VINH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài khóa luận tốt nghiệp,
em luôn nhận được sự quan tâm và giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo bộ
môn trong khoa Lịch sử. Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô
giáo trong khoa Lịch sử, đặc biệt là PGS.TS Vũ Quang Vinh - thầy đã luôn
giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Cảm ơn
các thầy cô đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thiện khóa luận
tốt nghiệp.
Mặc dù đã nỗ lực, cố gắng hết sức mình, song do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan nên chắc chắn rằng khóa luận sẽ không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của thầy cô và bạn đọc để khóa luận của em được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn


Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Hồng Hà


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1

1.

Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 2

3.

Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu............................................. 4

4.

Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................ 4

5.

Kết cấu của khóa luận ............................................................................... 5


Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN ................. 6
1.1. Tình hình thế giới và khu vực Đông Nam Á ............................................. 6
1.1.1. Những biến động chính trị, kinh tế phức tạp của tình hình
thế giới và khu vực Đông Nam Á ................................................... 6
1.1.2. Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và
công nghệ .................................................................................... 18
1.1.3. Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á ............ 20
1.2. Thực trạng kinh tế - xã hội nước ta trước năm 1986 ............................... 25
Chương 2. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM - ASEAN (1986 - 1995) ........... 29
2.1. Chủ trương đối ngoại đổi mới của Đảng ta trong quan hệ với các
nước ASEAN .......................................................................................... 29
2.1.1. Đại hội VI - Bước ngoặt về đổi mới tư duy và thực tiễn hoạt
động đối ngoại của Đảng ta với các nước Đông Nam Á .............. 29
2.1.2. Đảng ta tiếp tục phát huy và đẩy mạnh chủ trương đối ngoại
trong quan hệ với các nước Đông Nam Á .................................... 35
2.2. Tranh thủ thời cơ thuận lợi, chọn bước đột phá, chuyển từ đối đầu
sang đối thoại, đưa việt nam hội nhập ASEAN ...................................... 44
2.2.1. Giải quyết vấn đề Campuchia, tháo gỡ vướng mắc lớn nhất
trong quan hệ Việt Nam - ASEAN ............................................... 44


2.2.2. Tăng cường hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…
giữa Việt Nam với các nước ASEAN ........................................... 49
2.2.3. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhân dân, chọn thời cơ
thuận lợi, đưa Việt Nam hội nhập ASEAN .................................. 59
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ................ 68
3.1. Những thành tựu đạt được của quá trình phát triển quan hệ
Việt Nam - ASEAN ................................................................................ 68
3.2. Những khó khăn, thách thức đối với Việt Nam sau khi gia
nhập ASEAN .......................................................................................... 75

3.3. Một số kinh nghiệm chủ yếu trong quan hệ đối ngoại Việt Nam ASEAN ................................................................................................... 77
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối đổi mới, trong đó đổi mới đường lối đối ngoại là một nội dung quan
trọng. Nghị quyết Đại hội VI nêu rõ: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện
chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính
sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác
nhau”. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước trong cộng động thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát
triển”. Với đường lối đối ngoại rộng mở đó, Việt Nam đã không ngừng mở
rộng quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Từ
chỗ bị cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, đến nay Việt Nam đã có quan
hệ ngoại giao với hơn 180 nước, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư với
hơn 200 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của
nhiều tổ chức quốc tế khu vực. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ ở các
mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên các châu lục của
thế giới. Các đoàn thể tổ chức nhân dân Việt Nam có quan hệ với hàng trăm
tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia quốc tế. Đặc biệt, lần đầu
tiên trong lịch sử, nước ta đã có quan hệ với tất cả các nước, các trung tâm
chính trị - kinh tế lớn trên thế giới, các nước láng giềng, các nước trong khu
vực. Nền kinh tế Việt nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Trong lịch sử, quan hệ Việt
Nam - ASEAN cũng đang phát triển mạnh sau những bước thăng trầm.
Những năm Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, quan hệ Việt Nam - ASEAN là quan hệ đối đầu. Khi Mỹ

không thể thắng tại chiến trường Việt Nam, buộc phải ký Hiệp định Paris về
chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì các nước ASEAN đã điều chỉnh chính
sách đối ngoại và triển khai một số bước đi thân thiện hơn trong quan hệ với
1


Việt Nam. Về phía Việt Nam, tháng 7/1976 Việt Nam đưa ra chính sách 4
điểm đối với khu vực chủ trương xây dựng quan hệ hữu nghị với các nước
ASEAN. Tháng 8/1976 Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả
các nước ASEAN. Tuy nhiên, đến năm 1979 do bất đồng quan điểm trong
giải quyết vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN từ đối
thoại thân thiện đã chuyển sang đối đầu. Đến năm 1989 khi Việt Nam rút hết
quân khỏi Campuchia, quan hệ Việt Nam - ASEAN ấm dần lên. Sau những
bước đi, thủ tục cần thiết, ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ
7 của ASEAN. Sự kiện này là mốc quan trọng thể hiện quyết tâm của Đảng
Nhà nước ta trong việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính
sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, đặc biệt là chính sách đối
với khu vực theo hướng chủ động hội nhập. Sự kiện này đã chấm dứt thời kỳ
đối đầu, thù nghịch để hai bên bước vào thời kỳ hữu nghị hợp tác. Việc gia
nhập ASEAN tạo thuận lợi cho Việt Nam tăng cường lòng tin của các nhà đầu
tư và các thể chế tài chính quốc tế, tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất
nước. ASEAN còn tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội đi vào những thị
trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đồng thời việc gia nhập ASEAN giúp
Việt Nam nâng cao vị trí, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế… Những
thuận lợi đó đã được chứng minh rõ nét bằng những thành tựu đạt được của
Việt Nam trong những năm qua. Bước sang thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI,
Việt Nam đứng trước những thuận lợi lớn, nhưng cũng gặp phải những khó
khăn, thách thức không nhỏ. Từ những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, tôi
chọn đề tài “Đảng lãnh đạo quan hệ đối ngoại Việt Nam - ASEAN giai
đoạn 1986 - 1995” làm khóa luận tốt nghiệp chương trình đào tạo cử nhân

chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với lịch sử phát triển lâu dài và vị trí chiến lược quan trọng, Đông Nam
Á đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành khoa
học khác nhau ở trong và ngoài nước. Đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành
2


thành viên chính thức của ASEAN thì quan hệ Việt Nam - ASEAN ngày càng
thu hút sự quan tâm của nhiều cá nhân và tổ chức, các cơ quan chuyên môn
như Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Trung tâm Khoa học xã hội nhân
văn (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Vụ ASEAN - Bộ Ngoại giao,
Đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư
phạm Hà Nội, Học viện Quan hệ quốc tế v.v… trên các vấn đề như: Về lịch
sử quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm như: Việt Nam - Đông Nam
Á: Quan hệ lịch sử văn hoá của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Nxb Chính trị
Quốc gia, 1993; Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN của Đinh Xuân Lý,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000; Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương
song phương của Vũ Dương Ninh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004;
Ngoài ra còn có các bài tạp chí như: Vấn đề Việt Nam gia nhập ASEAN của
Nguyễn Vũ Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, năm 1994… Về
những vấn đề cụ thể trong quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm:
Quan hệ Việt Nam - ASEAN chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam của Vũ
Đình Hương, Vũ Đình Bách, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997; Nguyễn
Xuân Thắng có cuốn sách Khu vực mậu dịch tự do ASEAN tiến trình hội nhập
của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội 1999; Ngô Hữu Mạnh, Những nhân tố
thúc đẩy hạn chế hợp tác an ninh chính trị Việt Nam - ASEAN trong 5 năm
qua, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3, năm 2000… Về những cơ hội, thách
thức cũng như đánh giá lại thời gian Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của ASEAN có các bài viết như: Vấn đề hoà bình hợp tác giữa Việt Nam

các nước ASEAN hiện nay - những thuận lợi khó khăn của Nguyễn Hữu Cát,
Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 3, năm 1994; Nhìn lại một năm gia nhập
ASEAN của Nguyễn Mạnh Hùng, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 13, năm
1996; Nguyễn Cảnh Huệ, Những thuận lợi thách thức khi Việt Nam gia nhập
ASEAN, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, năm 1996; Việt Nam sau 5
năm gia nhập ASEAN của Nguyễn Hữu Cát - Ngô Kim Anh, Tạp chí Tư
tưởng Văn hoá 7-2000… Về những vấn đề chung liên quan đến ASEAN có

3


các tác phẩm: ASEAN hôm nay triển vọng trong thế kỷ XXI của Nguyễn Thu
Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998; Nguyễn Duy Quý, Tiến tới một
ASEAN hoà bình, ổn định phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2001; Nguyễn Duy Quý, Xây dựng một ASEAN phát triển đồng đều trong
thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5, năm 2001… Đặc biệt,
vào dịp kỷ niệm 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN có các bài viết: Lê Công
Phụng, Việt Nam - ASEAN 10 năm nhìn lại, đăng trên Tạp chí Thông tin đối
ngoại, số 8, năm 2005; Vũ Dương Ninh, … Các tác phẩm, bài viết về quan hệ
Việt Nam - ASEAN rất phong phú, tiếp cận trên nhiều vấn đề khác nhau.
Song chưa có bài viết hoặc công trình nào mang tính chất tổng hợp, có hệ
thống về quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam ASEAN từ năm 1986 đến năm 1995.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của khóa luận: Thông qua quan hệ Việt Nam - ASEAN
giai đoạn 1986-1995, tác giả khẳng định tính chủ động, đúng đắn, sáng tạo,
nhạy cảm chính trị của Đảng trong việc đưa nước ta hội nhập sâu hơn vào
ASEAN qua việc trở thành thành viên đầy đủ và tích cực, các sáng kiến thúc
đẩy ASEAN phát triển toàn diện.
3.2. Nhiệm vụ của khóa luận: - Nêu lên chủ trương, đường lối đối ngoại
của Đảng đối với các nước ASEAN. - Thành tựu, hạn chế của Việt Nam trong

quan hệ Việt Nam - ASEAN. - Bước đầu nêu một số kinh nghiệm của Đảng
trong lãnh đạo xây dựng phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN sau 10 năm
Việt Nam gia nhập ASEAN.
3.3.Phạm vi nghiên cứu:Tập trung đi sâu vào mối quan hệ giữa Việt
Nam và ASEAN từ 1986 - 1995.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận khóa luận được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở những
quan điểm phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ

4


Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và
đường lối đối ngoại
4.2. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu khóa luận sử dụng các tài liệu của Đảng về đối ngoại bao
gồm: Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đường lối đối ngoại và công tác đối
ngoại. Các tác phẩm, bài nói, bài viết hoặc phát biểu của các đồng chí lãnh
đạo Đảng và Nhà nước. Ngoài ra khóa luận sử dụng các công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về Đông Nam Á nói chung và
ASEAN nói riêng đã được in thành sách, công bố trên báo chí, hoặc các hội
thảo có liên quan.
4.3.

Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp sử dụng khi nghiên cứu là phương pháp lịch sử,
phương pháp lôgíc và hệ thống các phương pháp như phân tích, tổng hợp,

thống kê… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong khóa luận.
5. Kết cấu của khóa luận
Kết cấu của khóa luận, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, khóa luận gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở hình thành quan hệ Việt Nam - ASEAN
Chương 2. Quan hệ đối ngoại Việt Nam - ASEAN (1986 – 1995)
Chương3. Kết quả và một số kinh nghiệm chủ yếu

5


Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN
1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á TRƯỚC
NĂM 1986
1.1.1. Những biến động chính trị, kinh tế phức tạp của tình hình thế giới
và khu vực Đông Nam Á
- Những biến động to lớn và phức tạp của tình hình thế giới
Sau hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, Liên Xô cùng hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới đã có những đóng góp tích cực vào việc gìn giữ hòa bình
thế giới, cũng như những thành tựu khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật đối
với tiến trình phát triển của lịch sử. Trong suốt mấy thập kỷ đầy biến động
phức tạp, căng thẳng bởi tác động của chiến tranh lạnh, Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa đã giương cao ngọn cờ giải phóng, cách mạng, phấn đấu vì
những mục tiêu và lý tưởng cao đẹp của nhân loại, “trở thành chỗ dựa cho
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội” [3, 42].
Nhưng bước vào thập kỷ 80, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, chậm đổi mới tư duy, chậm tiếp nhận
và ứng dụng những thành của của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện

đại cũng như chậm khắc phục các khuyết tật của mô hình phát triển kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp khép kín không đủ sức đứng vững
trước sự cạnh tranh quyết liệt của nền kinh tế thế giới phát triển nhanh và
năng động. Thêm vào đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế
lại tiến công quyết liệt bằng diễn biến hòa bình cùng nhiều thủ đoạn thâm
hiểm khác nên Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã lâm vào
khủng hoảng ngày càng trầm trọng từ giữa những năm 1980.

6


Cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, cùng với khủng hoảng
trong nước chưa khắc phục được lại bị chủ nghĩa đế quốc tiến công dồn dập,
quyết liệt đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu. Sự kiện đó đã làm thay đổi toàn bộ cán cân so sánh lực lượng thế
giới và tác động tới toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế của thế giới. Thế cân
bằng hai cực Xô - Mỹ hình thành và ngự trị trong gần nửa thế kỷ kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai bị phá vỡ. Từ trong sự đổ vỡ của trật tự cũ đã dần
hình thành những xu hướng mới trong quan hệ quốc tế hiện đại, mặc dù nhiều
khi bị che lấp bởi những hiện tượng và những quá trình khó xác định. Thế
giới đang bước vào thời kỳ chuyển tiếp với sự phát triển đa dạng và phức tạp.
Các trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới đang tìm cách tập hợp lực
lượng, đặt trọng tâm vào củng cố bên trong để đối phó với thách thức bên
ngoài, Các quốc gia đều xuất phát tự lợi ích dân tộc mà định hướng chính
sách đối ngoài và quan hệ quốc tế của mình.
Lúc này, Mỹ có lợi thế tạm thời về chính trị, trở thành siêu cường duy
nhất và có sức mạnh nhất về quân sự. Mỹ mưu toan lợi dụng sự đổ vỡ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu để vượt lên thiết lập cơ chế
một cực do Mỹ chi phối nhưng không thành. Trong thực tế, Mỹ cũng gặp
nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội và không đủ sức quyết định mọi vấn đề của

thế giới theo ý muốn của Mỹ. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu và các
đề xuất ý kiến cho việc định ra chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
thì hiện nay, “thế giới đang chuyển sang một cục diện mới với sự tham gia
của nhiều nước, nhiều trung tâm” [4, 8].
Cùng với sự hình thành của các trung tâm quyền lực mới trên thế giới,
quyền lực quốc tế không tập trung vào các siêu cường như trước kia mà phân
tán ra các trung tâm và các cường quốc; vai trò của các thể chế đa phương
toàn cầu và khu vực ngày càng trở nên quan trọng. Thế giới hai cực không

7


còn nhưng các nước lớn vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết các
vấn đề chính trị, kinh tế của thế giới. Các sự kiện chính trị mang tính toàn cầu
hay các xung đột khu vực, sắc tộc nảy sinh không kịp thời giải quyết thì các
nước lớn sẽ cùng nhau phối hợp can thiệp sâu, thậm chí bằng quân sự, làm
cho tình hình càng thêm căng thẳng. Cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990
mà hậu quả cho đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để, các cuộc xung đột
sắc tộc, nội chiến ở Nam Tư trong những năm cuối của thế kỷ này là những
minh chứng cụ thể và xác đáng về điều đó.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế bị khủng hoảng nghiêm trọng và gặp nhiều khó khăn,
rất bất lợi cho các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam là
nước có quan hệ hữu nghị truyền thống và chặt chẽ với Liên Xô và các nước
Đông Âu cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng mạnh mẽ. Những thắng lợi to
lớn và thành tự của Việt Nam trong gần nửa thế kỷ đấu tranh và xây dựng gắn
liền với sự giúp đỡ to lớn và hiệu quả của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa
và thế giới tiến bộ. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu cùng với sự khủng hoảng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

đã làm mất chỗ dựa chủ yếu của Việt Nam về mặt chính trị. Về kinh tế, thị
trường truyền thống của Việt Nam bị đảo lộn, nguồn viện trợ, tín dụng chủ
yếu của Việt Nam trước đây từ Liên Xô và các nước Đông Âu hầu như hoàn
toàn bị cắt. Mất đi sự hậu thuẫn to lớn ấy, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong công cuộc đổi mới nếu không điều chỉnh kịp thời và sáng tạo chiến lược
của mình.
Lúc này, tình hình trong nước và quốc tế đều đang gặp khó khăn thử
thách rất gay go. Vấn đề đặt ra là Đảng phải nhanh chóng rút ra những bài học
kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại của các nước xã hội chủ nghĩa Đông

8


Âu và Liên Xô, “nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin, khắc phục được sai lầm, tăng cường được vai trò
lãnh đạo của mình” [3, 47]. Trong điều kiện tình hình đang có những chuyển
biến phức tạp, Đảng ta nhận thức rõ và chỉ ra rằng cách mạng thế giới là thực
hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng ta, làm cho Việt Nam ngày càng
ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế - xã hội, vững mạnh về an ninh quốc
phòng” [3, 59]. Để có thể thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng của chủ nghĩa
xã hội thế giới và tiếp tục phát triển, cần phải có sự điều chỉnh kịp thời trong
chính sách đối ngoại để tranh thủ sự hậu thuẫn tự những quan hệ quốc tế mới.
Thực tiễn và kinh nghiệm đã chỉ cho cho chúng ta rằng nếu dựa vào các nước
lớn trong điều kiện chúng ta chưa đủ mạnh thì sớm hay muộn, dưới hình thức
này hay hình thức khác cũng sẽ bị phụ thuộc vào họ. Chỉ có thể cùng hợp tác
chặt chẽ với các nước láng giềng gần gũi có nhiều nét tương đồng, có cùng
cảnh ngộ, cùng mục tiêu phát triển và tiềm lực tương đối ngang bằng nhau
mới có thể duy trì lâu dài quan hệ bình đẳng, ổn định và phát triển. Các nước
Đông Nam Á, mà trước hết là các nước ASEAN có thể đáp ứng yêu cầu thực
tế của Việt Nam và phù hợp với những nội dung trên.

Từ một cơ cấu kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp vận hành theo kế
hoạch hóa, tập trung mà quan hệ sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể là chủ
yếu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cạnh
tranh nhau quyết liệt, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn bỡ ngỡ và chưa có
đủ kinh nghiệm để sẵn sàng tham gia vào cuộc chơi mỡi này. Cần phải có
vốn, kinh nghiệm quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản để có thể thực hiện tốt
những mục tiêu phát triển kinh tế trong điều kiện mới. Với cơ cấu, quy mô
kinh tế, những điều kiện tự nhiên, xã hội có nhiều nét tương đồng với Việt
Nam, cùng với những thành công trong phát triển kinh tế - xã hội, ASEAN sẽ
là mô hình mà Việt Nam có thể hợp tác và rút ra được những bài học kinh

9


nghiệm bổ ích. Đồng thời, ASEAN còn là cầu nối để đưa Việt Nam hội nhập
với khu vực và thế giới.
Một yếu tố khác có tác động khá lớn đến đường lối, chính sách của ta
trong những thập niên 70 và 80 mà không thể không nói đến. Đó là trào lưu
cải cách nền chính trị - kinh tế diễn ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt
là của các nước lớn có nhiều ảnh hưởng đến Việt Nam như Liên Xô và Trung
Quốc. Sau khi trở thành người đứng đầu Đảng Cộng sản và đất nước Liên Xô
vào giữa thập kỷ 80, Mikhail Gorbachev đã đưa ra những thay đổi lớn về
chính sách đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, Gorbachev thực hiện rút lui
chiến lược khỏi nhiều vị trí và nhiều khu vực quan trọng trên thế giới như
châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông và cả ở Đông Âu…, tiến hành hòa
hoãn với Mỹ, đàm phán với Mỹ cắt giảm kho vũ khí chiến lược của Liên Xô,
thỏa hiệp với chủ nghĩa đế quốc về một số nguyên tắc chiến lược… Đối với
Việt Nam, sự ủng hộ của Liên Xô và những quan hệ hợp tác về chính trị, kinh
tế… cũng được cân nhắc một cách chặt chẽ hơn và dần chuyển sang hình thức
mới, gắn với hiệu quả, có chú ý đến lợi ích của cả hai bên. Về đối nội,

Gorbachev tiến hành những cải tổ mạnh mẽ trên hầu khắp các lĩnh vực của
đời sống đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Do chủ quan
nóng vội, mắc sai lầm trong tư tưởng chỉ đạo và biện pháp thực hiện nên
cuộc cải tổ của Gorbachev đã đi vào ngõ cụt và thất bại. Những mục tiêu cải
tổ của Liên Xô thời kỳ này đã không thực hiện được và chính sách của
Gorbachev đã đẩy đất nước Xô viết vào tình trạng rối ren, khủng hoảng
không lối thoát. Kết quả là Liên bang Xô viết hùng mạnh và vĩ đại đã tồn tại
hơn bảy mươi năm kiên cường trước bão đạn mưa bom và sự tiến công điên
cuồng của chủ nghĩa đế quốc quốc tế đã nhanh chóng bị sụp đổ bởi sai lầm,
phản bội của một số người lãnh đạo chủ chốt và âm mưu “diễn biến hòa
bình” của chủ nghĩa đế quốc.

10


Với Trung Quốc, mô hình tập trung quan liêu bao cấp kéo dài trong
nhiều năm, chậm đổi mới đã làm cho đất nước trên 1 tỷ dân này trì trệ, không
phát triển được. Những dấu tích tàn phá của cuộc “đại cách mạng văn hóa” và
đường lối “tả khuynh” còn rất nặng nề đối với đời sống xã hội và nền kinh tế
Trung Quốc. Sau khi qua đời vào năm 1976, Mao Trạch Đông đã để lại cho
thế hệ sau một gia tài đổ nát cả về kinh tế và đời sống xã hội. Những người kế
tục Mao đã rất cố gắng tìm cách để thoát ra khỏi tình trạng khó khăn đó, vươn
lên trở thành “siêu cường” ở châu Á. Từ cuối những năm 1970, Ban lãnh đạo
mới của Trung Quốc đã vạch ra chương trình “Bốn hiện đại hóa” (hiện đại
hóa công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, hiện đại hóa khoa học kỹ thuật và
hiện đại hóa quốc phòng) đầy tham vọng. Chính sách mở cửa của Trung Quốc
nhằm thu hút vốn đầu tư, tranh thủ kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài và hợp
tác với phương Tây đã đưa lại những kết quả khả quan trên nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là về kinh tế. Có thời kỳ nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng đến
10% và đó là một trong những cơ sở để thế giới đánh giá cao về tiềm năng

của đất nước này trong thế kỷ tới.
Trước những biến đổi mới của tình hình và sự đảo lộn về tập hợp lực
lượng trên thế giới, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tiến hành điều chỉnh
chính sách đối ngoại của mình. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VI, Đảng
ta đã nhận định: “Loài người đang đứng trước sự lựa chọn về nhiều vấn đề
mới có tính toàn cầu” [6, 36]. Thời kỳ này, trong quan hệ quốc tế nổi lên
những đặc điểm sau: 1 - Hầu hết các nước đều thực hiện chính sách đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; 2 - Các nước đều dành ưu tiên
tập trung cho phát triển kinh tế; 3 - Xu thế hợp tác quốc tế và liên kết khu vực
ngày càng phát triển mạnh mẽ trên khắp các châu lục; 4 - Xu thế hòa bình,
hợp tác và phát triển diễn ra mạnh mẽ và ngày càng chiếm ưu thế ở các quốc
gia, khu vực và trên thế giới. Tình hình đó đặt ra những thách thức to lớn đối

11


với công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam. Nhưng đồng thời, nó cũng tạo ra những điều kiện
thuận lợi và vận hội cho các nước này hội nhập với thế giới, tiếp cận văn
minh nhân loại. Nếu biết khai thác yếu tố này và tranh thủ vận dụng có hiệu
quả vào công cuộc xây dựng đất nước trong điều kiện mới chắc chắn sẽ mở ra
chiều hướng phát triển mới đầy hứa hẹn.
- Tình hình chính trị, kinh tế ở khu vực:
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bị sụp đổ cùng những
chuyển biến nhanh chóng, phúc tạp về kinh tế - xã hội trên thế giới đã tác
động mạnh mẽ tới khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có các nước
Đông Nam Á và các nước Đông Dương. Đông Nam Á nay không còn là nơi
tập trung những mục tiêu đối kháng giữa các nhóm nước có ý thức hệ và chế
độ xã hội khác nhau như trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Việc Mỹ tuyên bố cắt
giảm lực lượng quân sự ở châu Á và rút khỏi hai căn cứ quân sự lớn ở Đông

Nam Á là Subic và Clack ở Philippin cùng với việc Nga tuyên bố rút khỏi khu
vực Đông Nam Á đã tạo ra “khoảng trống quyền lực” ở khu vực này. Từ kinh
nghiệm lịch sử của mình, các nước trong khu vực nhận thức được rằng
khoảng trống quyền lực này không thể tồn tại lâu dài và sẽ nhanh chóng bị lấp
đầy bởi quyền lực của một hay nhiều cường quốc khác ở bên ngoài. Và như
vậy, nguy cơ đe dọa đối với hòa bình và an ninh của Đông Nam Á có thể lại
xuất hiện. Các nước ASEAN lo ngại các cường quốc khu vực sẽ lợi dụng cơ
hội này gia tăng ảnh hưởng của họ và có thể sẽ dẫn đến những nguy cơ tiềm
tang gây mất ổn định trong khu vực. Để tránh bị phụ thuộc vào các cường
quốc, ASEAN cần thực hiện phương sách ngoại giao đa phương, tìm cách tạo
thế cân bằng chiến lược giữa các cường quốc tại khu vực. Đồng thời, để có đủ
sức mạnh về thế và lực trước các đối thủ có tiềm năng to lớn ở khu vực và tồn
tại như một thực thể độc lập đứng ngoài quan hệ giữa các nước lớn, ASEAN

12


cần phải điều chỉnh chính sách nhằm tăng cường vị thế của tổ chức ASEAN.
Muốn vậy, cùng với việc phát triển nội lực của các nước thành viên của tổ
chức, trước hết phải nhanh chóng mở rộng ASEAN. Việc phát triển quan hệ
hợp tác chặt chẽ với Việt Nam và khả năng Việt Nam tham gia vào ASEAN
được các nước này coi là một hướng ưu tiên.
Nhận thức được vấn đề này, ASEAn đã có sự điều chỉnh chiến lược,
chuyển hướng từ hợp tác về chính trị và an ninh là chính sang hợp tác về kinh
tế giữa các nước trong tổ chức đồng thời khuyến khích việc hợp tác với các đối
tác bên ngoài, nhất là các cường quốc kinh tế và các tổ chức kinh tế thế giới.
Ở Đông Dương, tình hình Campuchia ngày càng đi vào thế ổn định,
chính quyền nhân dân ngày càng vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ những
thành quả cách mạng đã giành được. Những cố gắng của Việt Nam, các nước
ASEAN và cộng đồng quốc tế đã đạt được giải pháp chính trị cho vấn đề

Campuchia và đi tới ký kết Hiệp định Pari về hòa bình ở Campuchia vào
tháng 10-1991. Trở ngại lớn nhất trong quan hệ Việt Nam - ASEAN và nhân
tố gây mất ổn định ở khu vực là vấn đề “Campuchia” nay không còn. Các
nước ASEAN không còn lý do để quay lưng lại với cách mạng Việt Nam và
các nước Đông Dương.
Lúc này, các nước ASEAN cũng có những vấn đề nội bộ cần giải quyết
và nhu cầu hợp tác với Việt Nam, các nước Đông Dương để phát triển, củng
cố cả thế và lực của tổ chức. Như vậy, chủ trương đối ngoại hòa bình, hữu
nghị, hợp tác của Việt Nam và mong muốn hợp tác của các nước ASEAN gặp
nhau đã tạo ra một hợp lực mang tính cộng hưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của quan hệ Việt Nam - ASEAN.
- Xu thế toàn cầu hóa:
Với sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất hiện đại công nghiệp
cùng những tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ đã từng bước xóa đi

13


ranh giới thị trường giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau. Xu hướng
chung của thế giới ngày nay như Đại hội Đảng lần thứ VII đã nhận định là:
“Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và
liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực
hoạt động khác” [7, 77]. Các nhà sáng lập ra học thuyết cách mạng vĩ đại là
Mác - Ăngghen đã nhận thức trước được vấn đề này và chỉ ra từ năm 1848
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường
thế giới [8, 70]; và “Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho
sản xuất và tiêu dung của tất cả các nước mang tính chất thế giới… Thay cho
tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp,
ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân
tộc” [8, 77-78].

Cùng với sự tăng lên nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế là sự
luân chuyển cực kỳ sôi động, quy mô về tài chính, tiền tệ trên phạm vi toàn
cầu. Năm 1989, mỗi ngày trên các thị trường tài chính quốc tế lượng tiền trao
đổi lên tới 932 tỉ USD; cả năm 1992 đạt tới con số kỷ lục là 43.000 tỷ USD,
gấp 12 lần giá trị trao đổi hàng hóa thế giới. Những thập kỷ gần đây, khối
lượng trao đổi hàng hóa và dịch vụ quốc tế đạt gần 3.500 tỷ USD, gấp 10 lần
đầu những năm 1970. Năm 1993, tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt
2.125 tỷ USD [9, 365]. Trước đây, xu thế quốc tế hóa chủ yếu thể hiện qua
trao đổi hàng hóa, tiền bạc, đầu tư,… chủ yếu là liên quan đến lĩnh vực sản
xuất thì ngày nay đã tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, nhất là công
nghệ thông tin, tin học, các sự kiện, hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… đang diễn ra trên khắp hành tinh sẽ nhanh chóng được truyền tới mọi
nơi trên thế giới, khoảng cách về không gian và biên giới quốc gia ngày càng
bị thu hẹp và ít có ý nghĩa hơn nếu xét về một số khía cạnh nào đó. Các dân

14


tộc, các cá thể tồn tại trong thế giới đó ngày càng trở nên gần gũi và hiểu nhau
hơn nếu xét dưới góc độ văn hóa, kinh tế, xã hội. Những thành tựu của cách
mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ tin học, vũ
trụ, thông tin viễn thông, đã thu ngắn lại khoảng cách giữa con người với con
người, giữa các quốc gia với mọi vùng khác nhau của thế giới. Phân công lao
động quốc tế giờ đây trở nên phổ biến. Nó phá vỡ hoặc làm giảm hàng rào
ngăn cách, mở rộng thị trường, kích thích sản xuất, đồng thời cũng làm cho sự
cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Sự phát triển mạnh mẽ của 39.000 công
ty xuyên quốc gia (TNC), với 270.000 chi nhánh tại hầu khắp các vùng của
thế giới càng làm cho trình độ quốc tế hóa đạt mức rất cao [4, 27].
- Xu thế khu vực hóa:

Cùng với việc quốc tế hóa nền kinh tế thế giới là xu thế khu vực hóa và
nhất thể hóa nền kinh tế khu vực cũng diễn ra mạnh mẽ trên hầu khắp các
châu lục với nhiều tầng nấc khác nhau.
Ở châu Âu: Cộng đồng Kinh tế châu Âu được thành lập năm 1957 với 6
nước thành viên đến năm 1967 đã hợp nhất với Cộng đồng Than thép châu
Âu và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu thành Cộng đồng Chung
châu Âu [15, 12]. Tổ chức này đã lần lượt tiếp cận các thành viên với như:
Đan Mạch, Ailen, Anh, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, trở thành liên
mình lớn với 12 thành viên - Liên minh châu Âu. Từ ngày 1-1-1993, Liên
minh châu Âu đã bao trùm một thị trường tiêu thụ rộng lớn có số dân là 380
triệu người và tổng sản phẩm (GNP) là 6.000 tỷ USD. Năm 1995, liên minh
này kết nạp thêm 3 thành viên mới là Áo, Thụy Điển, Phần Lan, nâng tổng số
thành viên lên 15 nước, mở ra một triển vọng biến toàn châu Âu thành một
thực thể thống nhất.
Ở châu Mỹ: Hội nghị cấp cao các nước châu Mỹ họp ở Maiami (Mỹ) đã
quyết định thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do toàn châu Mỹ. Năm 1989, Mỹ

15


và Canada bắt đầu thực hiện Khu vực Mậu dịch Tự do Mỹ - Canada, tiếp đó
kết nạp thêm Mêhicô trở thành Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA)
vào cuối năm 1992 với số dân là 360 triệu người và 6.000 tỷ USD thu nhập
quốc dân. Các nước Nam Mỹ cũng thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do Nam
Mỹ (MERCOSUR)…
Ở châu Á - Thái Bình Dương: Khu vực rộng lớn với trên 50 nước, chiếm
gần 40% dân số thế giới, bao gồm các nước có nền kinh tế, khoa học và công
nghệ hùng mạnh vào bậc nhất thế giới (Mỹ, Nhật Bản, Canada…), các nền
kinh tế công nghiệp hóa mới (NIEs) phát triển với tốc độ cao (Hàn Quốc, Đài
Loan, Hồng Kông, Xingapo) và các nước đang phát triển có nhiều tiềm năng

như Trung Quốc và các nước ASEAN tháng 11-1989 cũng đã thành lập Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tổ chức hợp tác khu
vực rộng lớn, đa dạng và hùng mạnh này ra đời đã có ảnh hưởng rộng lớn,
mạnh mẽ đối với tiến trình phát triển của kinh tế thế giới và các nền kinh tế
khu vực [14, 10].
Ở Đông Nam Á, các nước ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực Mậu
dịch Tự do Đông Nam Á (AFTA) bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-1-1993 và dự
tính sẽ hoàn thành vào năm 2006 (Sau này, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế
ASEAN lần thứ 27 họp tại Chiengmai tháng 7-1994 quyết định rút ngắn thời
gian hiện thực hóa AFTA xuống còn 10 năm, tức là năm 2003). Ngay trong
nội bộ các nước ASEAN cũng xúc tiến thành lập các tam giác tăng trưởng
kinh tế.
Ở Đông Á - Thái Bình Dương mà Nhật Bản đóng vai trò nòng cốt cũng
đang nổi lên khái niệm đồng yên của Nhật Bản và ý tưởng thành lập “vành
đai kinh tế Đông Á”.
Ngoài những tổ chức khu vực còn có những tổ chức kinh tế thương mại
toàn cầu hay liên kết khu vực như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) bao
gồm 37 thành viên, Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển

16


(UNCTAD) với 118 nước,… Ngoài ra, còn xuất hiện những tổ chức hợp tác
khu vực với các hình thức hợp tác khá phong phú như: Hiệp hội hợp tác khu
vực Nam Á (SAARC), Tổ chức hợp tác kinh tế của Tây Á (ECO), Diễn đàn
Nam Thái Bình Dương (SPF)… [9, 369].
Xu thế hợp tác ở khu vực Á - Phi - Mỹ Latinh cũng đang phát triển mạnh
mẽ, có tới 20 tổ chức hợp tác khu vực với quy mô, hình thức khác nhau.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu
sắc, xu thế quốc tế hóa đời sống các nước ngày càng tăng, nhất là quốc tế hóa

về kinh tế, mối liên hệ ràng buộc và sự tùy thuộc giữa các quốc gia ngày càng
lớn, không một nước nào có thể phát triển mà lại không mở rộng quan hệ
đoàn kết, hợp tác với các nước khác. Mỗi quốc gia muốn phát triển kinh tế
phải tham gia vào kinh tế thị trường, vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau trong
cùng tồn tại hòa bình. Đó là một yêu cầu khách quan. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhận
định: “Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế
hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân
tộc” [28, 6]. Nhiệm vụ trước mắt của chúng ta lúc này là thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
và văn minh. Cùng với những nỗ lực chủ quan, sự tăng cường đoàn kết quốc
tế, hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền
của nhau và các bên đều có lợi, sẽ tạo cho Việt Nam các nhân tố thuận lợi để
tiếp tục tiến lên. Là thành viên trong cộng đồng quốc tế, để tăng cường sức
mạnh của mình, một trong những yếu tố quan trọng là phải mở rộng đoàn kết,
hợp tác quốc tế, phải nắm vững chiến lược phù hợp theo tinh thần của bản
thông điệp hòa bình mà Đại hội VII Đảng ta đã gửi tới các dân tộc trên thế
giới: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”.

17


1.1.2. Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ
Khoa học kỹ thuật và công nghệ có tác động to lớn, mạnh mẽ đến đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức
được tầm quan trọng, vai trò động lực của khoa học kỹ thuật đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất và tác động của nó tới đời sống và giao lưu quốc
tế, Người đã chỉ ra rằng
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên thế

giới, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và quá trình quốc
tế hóa đã thực sự làm đảo lộn cả thế giới, tác động mạnh mẽ tới tất cả mọi
lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị - xã hội và tất cả quốc gia trên
hành tinh. Đầu thế kỷ, Lê-nin đã thấu hiểu và nhận thấy rõ những quy luật vận
động của đời sống kinh tế thế giới: “Có sức mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí
và sự quyết tâm của bất cứ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó
là những quan hệ kinh tế chung của toàn thế giới”.
Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cuối thế kỷ
này là khoa học hóa, tự động hóa rộng khắp nền sản xuất xã hội, cách mạng
hóa khoa học trong lĩnh vực quản lý tổ chức sản xuất. Trong cuộc cách mạng
này, tri thức đóng vai trò trung tâm, có ý nghĩa quyết định và thông tin được
coi là năng lượng của nền kinh tế. Con người đã có thể chuyển khả năng trí
tuệ của mình sang máy móc để máy móc đảm đương chức năng cơ bản của
con người là tư duy và điều khiển. Đặc trưng này đang làm thay đổi cơ bản
phương pháp sản xuất, quá trình tổ chức quản lý sản xuất và xã hội. Một lực
lượng sản xuất mới xuất hiện, kết quả của những sự tiến bộ kỹ thuật tiên tiến
nhất: các thế hệ rôbôt lần lượt nối tiếp nhau ra đời. Ngày nay, con người đã
chế tạo ra những máy vi tính có thể giải được hàng nghìn tỷ phép tính trong 1
giây. Công nghệ này càng giữ vai trò quan trọng và là yếu tố quyết định đưa
năng suất lao động lên cao, làm cho khối lượng vật chất tăng nhanh.

18


Nghị quyết của Bộ Chính trị “Về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp
đổi mới”, Sổ 26-NQ/TW, ngày 30-3-1991, đã nhận định:
Trong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to
lớn của khoa học và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội
loài người. Lực lượng sản xuất và năng xuất lao động tăng nhanh, cơ cấu kinh
tế của các quốc gia và kinh tế thế giới biến chuyển mạnh ảnh hưởng đến các

quan hệ xã hội và quốc tế.
Nhưng cũng chính sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ mà khoảng cách chênh lệch về trình độ công nghệ
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng mở rộng hơn,
sự phân hóa giàu nghèo giữa các cuộc gia và ngay trong mỗi quốc gia ngày
càng lớn. Đây cũng là một thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển,
vừa lạc hậu về kỹ thuật công nghệ, vừa rất thiếu các nguồn lực phát triển, đặc
biệt là nguồn vốn để phát triển kinh tế.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật là sự
gia tăng ngày càng nhanh và cấp bách về nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế
giữa các quốc gia trên thế giới. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế ngày
càng có ý nghĩa rất quan trọng và cuộc chạy đua đã diễn ra rất quyết liệt và
mạnh mẽ giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Đảng ta đã nhận định: “Các nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng
định dứt khoát sự lựa chọn của mình là con đường thi đua về kinh tế, về lối
sống và cuộc thi đua này chỉ có thể thực hiện trong hoàn cảnh hòa bình được
bảo đảm vững chắc” [6, 36-37]. Sự lựa chọn đó là đúng đắn, hợp với quy luật
và phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước, với trào lưu phát triển của các
nước khu vực và xu thế thời đại.
- Các vấn đề toàn cầu đặt ra đối với tất cả các nước trên thế giới đòi hỏi
phải cùng nhau hợp tác để giải quyết:
Thế giới ngày nay đang tồn tại và vận động trong một môi trường diễn
biến rất phức tạp, đa dạng và đạn xem những mâu thuẫn sâu sắc, vừa thống

19


nhất vừa đấu tranh, cạnh tranh nhau quyết liệt. Tuy cuộc cách mạng công
nghệ phát triển nhanh và đã đạt đến trình độ rất cao, đem lại cho con người
những lợi ích và phát triển ngoài sức tưởng tượng nhưng có những vẫn đề mà

một quốc gia hay một số quốc gia riêng không thể giải quyết được. Nhiều lĩnh
vực đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ của tất cả các quốc gia
trên thế giới mới có thể giải quyết được một cách triệt để như: vấn đề giữ gìn
hòa bình và an ninh thế giới, vấn đề môi trường, vấn đề ma túy mại dâm, y
tế… Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội VI đã nêu rõ: “Các bên cần phối
hợp với nhau giải quyết những vấn đề toàn cầu đang đặt ra trước tất cả các
dân tộc và cộng đồng nhân loại, như các vấn đề bùng nổ dân số, lương thực,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường…” [6, 36].
Trong những năm 1990, nhiều hội nghị toàn cầu đã được tổ chức để các
nước trao đổi quan điểm và từ đó đề ra các chương trình hành động quốc gia,
khu vực và quốc tế để giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Các hội nghị quốc tế đó là:
- Hội nghị về môi trường và phát triển (Riô đơ Gianâyrô, 1992)
- Hội nghị về nhân quyền (Viên, 1993)
- Hội nghị về dân số và phát triển (Cairô, 1994)
- Hội nghị về phát triển xã hội (Côpenhaghen, 1995)
- Hội nghị về an ninh lương thực (Rôma, 1996)… [57, 43].
1.1.3. Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á
Một đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới trong những thập niên cuối
của thế kỷ này là sự phát triển nhanh chóng với trình độ cao, thay đổi về chất
của khoa học kỹ thuật, công nghệ; những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính
trị… đã cho phép loài người có thể ngăn ngừa được nguy cơ của cuộc chiến
tranh thế giới. Tuy vẫn còn tiềm tàng nguy cơ về các cuộc chiến tranh khu
vực, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, xu hướng ly khai, khủng bố quốc

20


tế…, nhưng môi trường hòa bình đã mở ra cho các dân tộc. Lúc này, yêu cầu
hàng đầu của tất cả các quốc gia là mong muốn có một môi trường hòa bình,

ổn định, hợp tác để tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đưa
ra nhận định: “Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ngày càng trở thành đòi
hỏi bức xúc của tất cả các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu
tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với
việc tăng trưởng sức mạnh tổng hợp của quốc gia” [7, 77]. Trước sự phát triển
mạnh mẽ của xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới, các thế lực đế
quốc, tư bản buộc phải thay đổi chính sách của mình, chuyển sang dung con
bài kinh tế, khoa học kỹ thuật để lôi kéo, khống chế các dân tộc.
Từ nửa sau những năm 1980, quan hệ Xô - Mỹ dần dần đi vào hòa dịu
sau những dàn xếp và thỏa thuận về cắt giảm hệ thống tên lửa đạn đạo. Việc
giảm đối đầu giữa hai siêu cường đã đem lại những cơ hội mới cho các nước
như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ có vai trò lớn hơn ở châu Á - Thái Bình
Dương. Đồng thời, nó cũng cho phép các nước Đông Nam Á, trong đó có các
nước Đông Dương, tham gia vào kiến tạo một trật tự khu vực mới.
Cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 do tác động bởi cuộc khủng hoảng chính
trị ở Campuchia, quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng bị phân hóa thành hai
nhóm nước. Ngoài một số nước có quyền lợi trực tiếp và chịu sự tác động từ
bên ngoài như: Thái Lan, Xingapo và Philippin tỏ thái độ chống đối quyết
liệt, các nước còn lại như Inđônêxia và Malaixia cũng dần dần nhận thức
được thực chất của vấn đề Campuchia, phần nào thông cảm với Việt Nam và
tìm cách thăm dò khả năng thương lượng với Việt Nam để tìm ra giải pháp
chính trị cho vấn đề Campuchia. Quan điểm, thái độ của Malaixia và
Inđônêxia trong vấn đề Campuchia cũng có tác động dần đến nhận thức của
các nước khác trong tổ chức ASEAN, buộc họ phải xem xét lại thái độ của

21



×