ĐỀ TÀI:
THÁCH THỨC ĐẶT RA TỪ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG:
I. Lí do chọn đề tài:
Ngày nay, hội nhập quốc tế đã dần trở thành một xu thế chung và là một
trong những quá trình tất yếu của các quốc gia trên toàn thế giới, do bản chất
xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và
phát triển phải có quan hệ và liên kết với nhau tạo thành công đồng. Nhiều
cộng đồng liên kết với nhau tạo thành xã hội và các quốc gia - dân tộc. Các
quốc gia lại liên kết với nhau tạo thành những thực thể quốc tế lớn hơn và hình
thành hệ thống thế giới.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các
thị trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây
là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội
nhập quốc tế nói chung.
Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng
đồng thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước
trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu
này còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho
các nước, trong đó có Việt Nam.
Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang
tính chất sống còn đối với Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước
mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập,
sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một
nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt, thì việc chủ
động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ
hết.
Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập quốc
tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ, thuận lợi nhưng cũng đem lại
không ít khó khăn, thử thách. Hiểu được rõ những khó khăn, thử thách đó, ta sẽ
1
khắc phục dần những điều đó để hoàn thành sứ mệnh, bởi hội nhập quốc tế là
tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Và đây cũng là lí do mà nhóm chúng tôi
thực hiện đề tài "THÁCH THỨC ĐẶT RA TỪ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM".
II. Mục đích nghiên cứu:
Chúng tôi hi vọng với đề tài này sẽ phần nào lý giải những thách thức
đặt ra cho Việt Nam ta trong quá trình hội nhập quốc tế, đồng thời cung cấp
những nguồn tư liệu, thông tin chính xác nhất, đầy đủ nhất nhằm nâng cao hiểu
biết, nhận thức, đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của mọi người trong nghiên
cứu, học thuật và củng cố nền tảng kiến thức, tài liệu hiện có về hội nhập quốc
tế của Việt Nam.
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
III.1. Khách thể nghiên cứu:
Một số vấn đề lý luận và quá trình về hội nhập quốc tế của Việt Nam.
III.2. Đối tượng nghiên cứu:
Những thách thức đặt ra từ hội nhập quốc tế của Việt Nam.
IV. Giả thuyết khoa học:
Đa số chúng ta phần nào đều nhận thức được những thách thức mà hội
nhập quốc tế đặt ra cho Việt Nam ta, lí giải những yếu tố đó và đưa ra những
giải pháp, phương hướng giải quyết. Nhưng đôi khi, việc vận dụng những giải
pháp, phương hướng ấy chưa thật sự đúng đắn và chưa mang lại hiệu quả thiết
thực như mong muốn vì ta chưa nắm vững được những yếu tố quan trọng nhất,
chính xác nhất.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề lý luận của đề tài, bao gồm các khái niệm cơ bản,
nội dung và vai trò của hội nhập quốc tế đối với Việt Nam.
2
Nghiên cứu quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam thông qua những
mục tiêu, quan điểm của Đảng, những chính sách của Nhà nước.
Nghiên cứu những thách thức đặt ra từ hội nhập của Việt Nam ta để từ
đó đưa ra những giải pháp, phương hướng giải quyết.
VI. Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Thời gian: Từ khi nước ta bắt đầu mở cửa hội nhập năm 1986 đến nay.
VII. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được những nội dung trên, với những tư liệu đã thu thập
được, phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử dụng cho đề tài này là:
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu liên quan,
trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa thông tin thu
được để làm sáng tỏ cơ sở lý luận, các khái niệm, công cụ của đề tài.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tập hợp những ý kiến từ các
chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan nhằm hoàn thiện những nội dung
trong đề tài nghiên cứu.
VIII. Đóng góp của đề tài:
Trình bày những nội dung cốt yếu trong quá trình hội nhập quốc tế của
Việt Nam, từ đó nhận định được những thử thách, khó khăn quan trọng nhất từ
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, v.v... Đây sẽ là những tiền đề
căn bản trong việc nhận xét, đánh giá, phân tích và đưa ra các giải pháp,
phương hướng giải quyết hiệu quả nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam được thuận lợi và phát triển tốt hơn trong tương lai, khi mà tốc
độ hội nhập của các nước có tiềm lực kinh tế giàu mạnh đang ngày càng nhanh
hơn.
Đồng thời, đề tài này sẽ là nguồn tài liệu, thông tin quý giá, chân thật để
mọi người có thể triển khai nghiên cứu thêm các vấn đề liên quan trong tiến
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
3
IX. Cấu trúc của đề tài:
Gồm:
I. Một số vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế:
I.1. Khái niệm.
I.2. Nội hàm của hội nhập quốc tế:
I.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế.
I.2.2. Hội nhập chính trị.
I.2.3. Hội nhập an ninh - quốc phòng.
I.2.4. Hội nhập về văn hóa - xã hội.
I.3. Vai trò của hội nhập quốc tế với Việt Nam.
II. Thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam:
II.1. Mục tiêu, quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế:
II.1.1. Mục tiêu.
II.1.2. Quan điểm.
II.2. Những chính sách, định hướng của Đảng và Nhà
nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế.
II.3. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
III. Thách thức đặt ra từ hội nhập quốc tế của Việt Nam:
III.1. Lĩnh vực kinh tế.
III.2. Lĩnh vực chính trị.
III.3. Lĩnh vực an ninh - quốc phòng.
III.4. Lĩnh vực văn hóa - xã hội.
IV. Những phương hướng và giải pháp trong vấn đề hội nhập
quốc tế của Việt Nam.
IV.1. Đối nội.
IV.2. Đối ngoại.
V. Tổng kết:
Tài liệu tham khảo.
Mục lục.
4
ĐỀ TÀI:
THÁCH THỨC ĐẶT RA TỪ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
NỘI DUNG:
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ:
I.1. Khái niệm:
Thuật ngữ "hội nhập quốc" tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ
tiếng nước ngoài (tiếng Anh là "international integration", tiếng Pháp là
"intégration internationale"). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu
trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể
chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức - Pháp)
nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng
đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về
khái niệm "hội nhập quốc tế". Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang,
cho rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá
trình. Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ
hay Thụy Sĩ. Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan
tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế1.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch 2 là trụ cột, xem hội nhập
trước hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu
như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình
thành dần các cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch, có hai
loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và
1 Trích "Theodore A. Couloumbis & James H. Wolfe, Introduction to International Relations: Power &
Justice, Englewood Cliffs, New Jersey, Prentice-Hall, 1986; Carl J. Friedrich, Trends of Federalism in
Theory and Practice, New York, Praeger, 1968".
2 Karl W. Deutsch and all, Political Community and the North Atlantic Area, Princeton, N.J., Princeton
University Press, 1957; Xem Karl W. Deutsch and all, France, Germany, and the Western Alliance: A
Study of Elite Attitudes on European Integration and World Politics, New York, Scribner’s, 1967.
5
loại cộng đồng an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ
hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành
vi các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở
phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục
tiêu theo đuổi.
Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội
nhập trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về
khía cạnh luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình
Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải thích
thực tiễn của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác
nhau như hiện nay trên thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng dẫn
đến một Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận
hiện tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối
cùng, đồng thời đưa ra được những nội dung khá cụ thể và sát thực tiễn của
quá trình hội nhập, góp phần phân tích và giải thích nhiều vấn đề của hiện
tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi của hiện tượng, không
quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng của hội nhập, do
vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản chất của quá
trình hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "hội nhập kinh tế quốc tế" bắt đầu được sử dụng
từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN,
tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc
tế khác. Những năm gần đây, cụm từ "hội nhập quốc tế" (thậm chí nói ngắn
gọn là "hội nhập") được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa
rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước khi
thuật ngữ "hội nhập kinh tế quốc tế" được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã
xuất hiện các cụm từ "liên kết kinh tế quốc tế" và "nhất thể hóa kinh tế quốc
tế". Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà
tiếng Anh gọi là "international economic integration". Sự khác biệt giữa chúng
chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử khác nhau. Thuật ngữ
6
"nhất thể hóa kinh tế quốc tế" được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác
giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế
(SEV) những năm 1970-1980.
Thuật ngữ "liên kết kinh tế quốc tế" được sử dụng khá nhiều khi nói về
hiện tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa
các nước không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến tranh
thế giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng
đồng Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự
do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê
và Thị trường chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), v.v... Trong thực tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ
"liên kết quốc tế" và "hội nhập quốc tế" có thể thay thế nhau và hầu như không
có sự khác biệt về ý nghĩa.
Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm
"hội nhập quốc tế" giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả
giới làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách
hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi "hội nhập quốc tế" là sự tham gia vào
các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi "hội nhập quốc
tế" là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình
trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này,
không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai
cách hiểu trên về khái niệm "hội nhập quốc tế" đều không đầy đủ và thiếu
chính xác.
=> Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách
tiếp cận phù hợp đối với khái niệm "hội nhập quốc tế" để làm nền tảng xây
dựng chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng
tôi cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá
trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục
tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước
tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ
về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính
7
sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ
chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế
đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập
quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và
tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội
nhập hình thành nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các
chủ thế mới của quan hệ quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới
dạng: hoặc là một tổ chức liên chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền
quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp
quốc, ASEAN…), hoặc là một tổ chức siêu quốc gia (các thành viên trao toàn
bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình thái này có thể
giống như mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…),
hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một
phần chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần
chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính
của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực
hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng
hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
I.2. Nội hàm của hội nhập quốc tế:
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng
cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ
gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa
phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
I.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế:
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
8
những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu
vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra
theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được
chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau1:
+ Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho
nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế
về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức
độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định Thương mại Việt Mỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ cụ thể của mô hình
liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.
+ Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc cắt
giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể
bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại
hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các
nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực
mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Những năm gần đây, phần lớn các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực
điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này còn có
những quy định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với ÚcNew Zealand (2009), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP - đang
đàm phán).
+ Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại
bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách
thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và
Liên minh thuế quan Nga - Belarus - Kazakhstan.
+ Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế
quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách
thuế quan chung đối với ngoài khối, các thành viên còn phải xóa bỏ các hạn
chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao động…) để
1 Bela Balassa, The Theory of Economic Integration, Richard D. Irwin Inc., Homewood, Illinois, 1961.
9
tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã
trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu)
trước khi trở thành một liên minh kinh tế.
+ Liên minh kinh tế - tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn
cao nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với việc thực
hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung
ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.
=> Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập
với tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải
qua các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn
ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng
Kinh tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và
liên minh thuế quan trong những thập niên 60 - 70). Hội nhập kinh tế là nền
tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh
vực khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu
tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hóa1.
I.2.2. Hội nhập chính trị:
Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu
nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể
hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về
các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực và
đặc biệt là quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế
thông qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập
các mối liên kết quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc
tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như ASEAN, EU) hay
một tổ chức có quy mô toàn cầu (chẳng hạn như Liên Hiệp quốc).
1 Bộ Ngoại giao, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: Vấn đề và giải pháp, Nhà Xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
10
Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, liên kết giữa các thành viên còn
hạn chế và các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền định đoạt chính sách
riêng. ASEAN hiện nay vẫn đang trong giai đoạn đầu quá trình hội nhập chính
trị, nên vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt và độ tin cậy giữa các thành viên còn
hạn chế. Về mặt tổ chức quyền lực, ASEAN là một khuôn khổ liên chính phủ.
Hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột (Cộng đồng Chính trị
- An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội) sẽ giúp tăng
cường quá trình hội nhập chính trị trong ASEAN, tạo điều kiện để ASEAN
bước tới một giai đoạn hội nhập cao hơn nữa.
Giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế chính
trị và độ tin cậy hoàn toàn của các thành viên. Về mặt tổ chức quyền lực, các
thành viên chỉ giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các
quyền lực còn lại cho một cơ cấu siêu quốc gia. EU hiện nay là một mô hình
hội nhập chính trị cao.
Thông thường hội nhập chính trị là bước đi sau cùng trên cơ sở các
nước liên quan đã đạt đến trình độ hội nhập kinh tế và văn hóa - xã hội rất cao.
Sự hình thành Liên bang Hoa Kỳ, Liên bang Canada trước đây và EU hiện nay
cơ bản theo phương thức này. Tuy nhiên, trong những bối cảnh nhất định, hội
nhập trong lĩnh vực chính trị có thể đi trước một bước để mở đường thúc đẩy
hội nhập trong các lĩnh vực khác. Trường hợp ASEAN thể hiện khá đặc biệt sự
kết hợp nhiều tiến trình hội nhập. Trong suốt hơn 2 thập kỷ đầu tồn tại,
ASEAN chủ yếu là một cơ chế hợp tác khu vực về chính trị - ngoại giao nhằm
đối phó với những thách thức đối với an ninh quốc gia của các thành viên. Một
số học giả nhìn nhận ASEAN như là một định chế/chế độ quốc tế (international
regime) về chính trị - an ninh ở khu vực Đông Nam Á 1. Nói một cách khác,
đây là dạng thức ban đầu của hội nhập chính trị - an ninh. Sau giai đoạn khởi
1 Phạm Quốc Trụ, Chủ nghĩa khu vực như là một chiến lược an ninh quốc gia: Chế độ an ninh hợp tác
của ASEAN 1957 - 1996 ( tiếng Pháp), Luận văn tiến sỹ, Đại học La val, Québec, (Canada) 1996;
Jacob Philip E. & Toscano (ed.), The Integration of Political Communities, Philadelphia, Lippincott,
1964; Buzan Barry, “The Southeast Asian Security Complex”, Contemporary Southeast Asia, tập 10, số
1, tháng 7/1988;
Amitav Acharya, “Regionalism and Regime Security in the Third World: Comparing the Origins of
ASEAN and the GCC” trong Brian L. Job (ed.), The Insecurity Dilemma: National Security of Third
World States, Boulder, Lynne Rienner, 1992.
11
đầu chủ yếu bằng hội nhập sơ khai về chính trị-an ninh, từ cuối thập niên 1970
trở đi, ASEAN mới bắt đầu triển khai hợp tác về kinh tế và chỉ từ gần giữa thập
niên 1990, ASEAN mới thực sự bắt đầu tiến trình hội nhập kinh tế. Hội nhập
văn hóa-xã hội phải đợi đến khi ASEAN thông qua Hiến chương năm 2008
mới được triển khai.
I.2.3. Hội nhập an ninh - quốc phòng:
Hội nhập về an ninh - quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá
trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh.
Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song
phương hay đa phương về an ninh - quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia
sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt động
chung về đảm bảo an ninh - quốc phòng...
Có nhiều kiểu liên kết an ninh - quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên
những hình thức chủ yếu được nhiều nước sử dụng như sau:
Hiệp ước phòng thủ chung: Đây là hình thức khá phổ biến trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh khi mà thế giới được cơ bản chia thành hai hệ thống (gọi là hệ
thống hai cực) giữa một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo
và bên kia là các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Hàng loạt tổ chức
phòng thủ chung đã được hai phe lập ra để thực hiện các mục tiêu chính trị và
an ninh-quốc phòng, chẳng hạn như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO)1, Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO)2, Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á (SEATO)3, Hiệp ước Liên minh Úc - New Zealand - Mỹ (ANZUS) 4,
1 Thành lập năm 1949 với thành viên gồm hầu hết các nước Tây - Bắc Âu, Mỹ và Canađa. Sau Chiến
tranh lạnh, một loạt nước, đặc biệt là các nước Đông Âu, gia nhập, nâng tổng số thành viên của NATO
lên thành 28 nước, hiện nay gồm Albania, Belgium, Bulgaria, Canada, Croatia, Czech Republic,
Denmark, Estonia, France, Germany, Greece, Hungary, Iceland, Italy, Latvia, Lithuania, Luxembourg,
Netherlands, Norway, Poland, Portugal, Romania, Slovakia, Slovenia, Spain, Turkey, the United
Kingdom, and the United States.
2 Thành lập năm 1955, bao gồm các nước thành viên Anh, Mỹ, I-ran, I-rak, Pa-kit-xtăng và Thổ Nhĩ
Kỳ, giải tán năm 1979.
3 Ký năm 1954, bao gồm Mỹ, Anh, Pháp, Úc, Niu-di-lân, Đài Loan, Hàn Quốc, Pa-kit-xtăng, Thái Lan,
Phi-lip-pin và Nam Việt Nam, giải tán năm 1977.
4 Thành lập năm 1951, nay vẫn hoạt động.
12
Tổ chức Hiệp ước Vác-xô-vi5. Nguyên tắc của các tổ chức phòng thủ chung là:
các nước tham gia phải có chung kẻ thù bên ngoài, khi một nước nào đó tấn
công một thành viên của khối thì nước đó được coi là kẻ thù của cả khối và tất
cả các thành viên cùng hành động chống lại kẻ thù đó; các thành viên có chính
sách phòng thủ chung; các thành viên cùng đóng góp lực lượng vũ trang tham
gia vào lực lượng chung của khối đặt dưới một bộ chỉ huy chung.
Đây là phương thức liên kết quân sự rất cao, đòi hỏi các thành viên phải
đồng về ý thức hệ và cùng chia sẻ cao về quan điểm, chính sách an ninh - quốc
phòng, chiến lược quân sự và có trình độ phát triển kỹ thuật quân sự cũng như
năng lực tác chiến không quá chênh lệch. Phương thức liên kết này cũng đòi
hỏi các thành viên phải chấp nhận chịu sự hạn chế về chủ quyền quốc gia và
trao một phần thẩm quyền quốc gia cho một cơ chế chung siêu quốc gia.
Hiệp ước liên minh quân sự song phương: Đây là hình thức cổ điển rất
phổ biến trong lịch sử quan hệ quốc tế xưa và nay. Phần lớn, nếu như không
nói là hầu hết, các nước đều có hiệp ước liên minh với một hoặc một số nước
khác, trong đó có quy định về trợ giúp quân sự trong những tình huống cần
thiết. Mỹ có hiệp ước liên minh quân sự song phương với Nhật, Hàn Quốc, Đài
Loan, Thái Lan và Philipin. Việt Nam cũng đã có Hiệp ước liên minh với Liên
Xô cũ, Lào và Campuchia.
Các dàn xếp an ninh tập thể: Đây là hình thức liên kết an ninh dựa trên
nguyên tắc các thành viên cam kết không tấn công nhau, nếu có một thành viên
vi phạm, sẽ dùng sức mạnh hợp tác của cả khối để ngăn chặn và giúp giải
quyết xung đột. Hội quốc liên và sau này là Liên Hiệp quốc, Liên đoàn Ả-rập,
Tổ chức thống nhất châu Mỹ (OAS), Tổ chức Thống nhất châu phi (AU), Cộng
đồng chính trị - an ninh mà ASEAN đang xây dựng là những mô hình cụ thể
của phương thức liên kết an ninh tập thể.
Các dàn xếp về an ninh hợp tác: là phương thức liên kết an ninh - quốc
phòng lỏng lẻo hơn cả, dựa trên nguyên tắc lấy hợp tác trên các lĩnh vực, từ dễ
đến khó, với các hình thức đa dạng như đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại
5 Thành lập năm 1951, nay vẫn hoạt động.
13
giao phòng ngừa… để xây dựng thói quen hợp tác và sự phụ thuộc, ràng buộc
lẫn nhau, từ đó có thể hạn chế khả năng xảy ra xung đột giữa các thành viên.
ASEAN và một loạt cơ chế khu vực liên quan như Hội nghị sau Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao (PMC), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ
trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấo cao Đông Á (EAS)… là những mô
hình cụ thể về dạng thức liên kết này.
=> Nhìn chung, hội nhập trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng là tiến
trình khó khăn hơn cả, vì nó liên quan trực tiếp tới những vấn đề nhạy cảm
nhất- cốt lõi tồn tại của quốc gia, đó là hòa bình, độc lập và chủ quyền.
I.2.4. Hội nhập về văn hóa - xã hội:
Hội nhập về văn hóa - xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với
các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các
giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc;
tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa - giáo dục và xã hội khu
vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một cộng
đồng văn hóa - xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví dụ,
tham gia Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực
hiện các hiệp định song phương về hợp tác - phát triển văn hóa - giáo dục - xã
hội với các nước.
=> Hội nhập văn hóa - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm
sâu sắc quá trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo
bền vững hơn cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau
ngày càng gần gũi và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức
tư duy và hành động; tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa
các chính sách xã hội của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để
người dân mỗi nước được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại,
các phúc lợi xã hội đa dạng; đặc biệt, hình thành và củng cố tình cảm gắn bó
14
thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn quốc gia của riêng mình (ý thức
công dân khu vực/toàn cầu).
I.3. Vai trò của hội nhập quốc tế với Việt Nam:
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ quốc tế đã và đang là một
trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa với
thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu.
Trái lại, mở cửa hội nhập quốc tế tuy có những khó khăn nhất định song đó là
yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi, với những tiến bộ trên
lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học, thì
giữa các quốc gia ngày càng có mối liên hệ chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh
tế. Xu hướng toàn cầu hóa được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền
kinh tế thế giới. Từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II, giá trị trao đổi, buôn bán
trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần, cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể,
công nghiệp dần nhường chỗ cho dịch vụ.
Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng
gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức
quốc tế là một phần của sự quốc tế hóa, góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các
nước phát triển mạnh hơn nữa.
Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, các nước giàu luôn có những lợi
thế về lực lượng, vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền
kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội
nhập.
Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn
phá, Việt nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp
xúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn, nhưng
không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu,
nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập mang lại, Việt Nam một bộ phận của cộng đồng quốc tế - không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội
15
nhập, Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra
những thuận lợi phát triển kinh tế.
=> Chính vì lẽ đó mà Đại hội Đảng VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 191 đã đề ra đường lối chiến lược: "Thực hiện đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại". Đến Đại hội Đảng
VIII, Nghị quyết Trung ương IV đã đề ra nhiệm vụ: "Giữ vững độc lập tự chủ,
đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế
mới, hội nhập với khu vực và thế giới".
II. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM :
II.1. Mục tiêu và quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế:
II.1.1. Mục tiêu:
Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối
đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững,
nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng
bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức
mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp
phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới1.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh thủ tối đa các nguồn lực
từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết 07
của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: "mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn,
công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh". Quá trình hội nhập quốc tế trước hết là đáp ứng lợi ích phát
triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy vai trò của nước ta trong
quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng góp vào cuộc đấu
1 Trích Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế, ban hành ngày 10/4/2013.
16
tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
=> Từ những mục tiêu trên, ta có thể thấy được để hội nhập quốc tế
một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và bao trùm là bảo
đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững chắc an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ thể
hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối
phó thắng lợi với các thách thức đặt ra của quá trình hội nhập; chủ động lựa
chọn các tổ chức tham gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham
gia hội nhập, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định
chung; chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu
hội nhập. đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự kiên trì
giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà bình, độc lập, thống
nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc
tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn
nhau, bình đẳng và cùng có lợi1.
II.1.2. Quan điểm:
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và
phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết
tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh; đồng thời chú trọng
một số quan điểm sau:
1 PGS.,TS. Nguyễn Tất Giáp, "Hội nhập quốc tế và vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta".
17
+ Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn
của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính
sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các
tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các
tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và
làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ
và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạng tổng hợp và năng lực cạnh
tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các
vùng, miền, khu vực trong nước.
+ Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải
tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh
vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng
thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất
nước.
+ Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi
ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không
để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp lực lượng, các
liên minh của bên này chống bên kia.
+ Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi
đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc,
luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế;
chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng
cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực
18
vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới1.
=> Những quan điểm trên của Đảng đã thật sự đúng hướng, xác định
được con đường hội nhập quốc tế là một điều tất yếu, gắn liền với trách nhiệm,
nghĩa vụ quan trọng của Đảng và các lĩnh vực khác, đặc biệt là lĩnh vực kinh
tế. Chỉ có thế thì đất nước ta mới có thể đảm bảo tranh thủ và hiện thực hóa
những thuận lợi sẵn có mà hội nhập quốc tế mang lại, đồng thời hạn chế đến
mức thấp nhất những khó khăn, thách thức mà nó ảnh hưởng đến ta.
II.2. Những chính sách, định hướng của Đảng và Nhà nước nhằm
thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế:
+ Tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về
yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng,
nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để
thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Xây dựng và triển khai chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, trước
mắt đến năm 2020, chú trọng việc đổi mới thể chế, phát triển nguồn nhân lực,
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy, thiết lập bộ máy đủ thẩm
quyền và năng lực để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát và phối hợp các
hoạt động hội nhập quốc tế. Xác đỉnh rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các
cấp, các Ngành từ Trung ương đến địa phương trong các hoạt động hội nhập
trên các lĩnh vực; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự
báo.
+ Về hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 khóa X "Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới" trong tình hình mới gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
1 Trích Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế, ban hành ngày 10/4/2013.
19
- xã hội, nhất là nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh
tế theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Không ngừng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, gắn thu
hút đầu tư với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh tế, hiệu quả
kinh tế - xã hội – môi trường. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu đầu tư công,
khuyến khích các hoạt động đầu tư tư nhân và các hoạt động hợp tác công - tư.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; quản lý chặt chẽ nợ công, bao gồm cả
vay nợ nước ngoài.
Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thỏa thuận.
Xây dựng và triển khai chiến lược, tham gia các khu vực mậu dịch tự do với
các đối tác kinh tế - thương mại quan trọng trong một kế hoạch tổng thể với lộ
trình hợp lý, phù hợp với lợi ích và khả năng của đất nước. Chủ động xây dựng
và thực hiện các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước doanh
nghiệp và người tiêu dùng trong nước. Đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế
thương mại - tài chính - tiền tệ khu vực và toàn cầu, xây dựng và triển khai
chiến lược hội nhập trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ phù hợp với yêu cầu và
trình độ phát triển của đất nước.
+ Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các
đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất
nước; đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn
kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác.
Chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây
dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh,
xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Trong đó, đặc biệt
chú trọng việc tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò của
Việt Nam trong ASEAN và các cơ chế, diễn đàn do ASEAN giữ vai trò trung
tâm, nhằm tăng cường đoàn kết, gia tăng liên kết nội khối, củng cố quan hệ
hợp tác với các bên đối thoại của ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và
phát triển trong khu vực.
20
Phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế hợp tác mà nước ta là
thành viên. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn
khác, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực
triển khai chủ trương đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế,
chủ động chuẩn bị nhân sự ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức
quốc tế.
Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực và nâng cao
hiệu quả tham gia các diễn đàn các chính đảng; tích cực tham gia các cơ chế
hợp tác nghị viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế; mở rộng giao lưu nhân
dân, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập quốc phòng, an ninh phù
hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, khai thác
hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất nước nhằm phục vụ
mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh
với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè
truyền thống; từng bước đưa hợp tác đi vào chiền sâu, hiệu quả. Chủ động phát
hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi
dụng hội nhập quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia nước ta. Đẩy mạnh quan
hệ hợp tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát các nước, trước hết là
các nước láng giềng, các nước lớn; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp
tác chống tội phạm xuyên quốc gia và đối phó với các thách thức về an ninh
lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh
biển và các thách thức an ninh phi truyền thống khác.
Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an
ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ ASEAN
và do ASEAN làm chủ đạo. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các cơ
chế đa phương khác; trong đó, có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức
cao hơn, như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, kiểm soát phổ
biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng
21
yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác
đi vào chiều sâu ổn định, bền vững.
+ Về văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế và
các lĩnh vực khác, cần lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá
trình xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các lĩnh vực này.
Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa, xã hội, khoa
học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, trước hết là xây dựng cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN, tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu tri thức, nhất
là tri thức về quản lý và khoa học công nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại. Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với
bạn bè quốc tế.
Thực hiện các cam kết và đóng góp vào việc sửa đổi, hoàn thiện và xây
dựng mới các chuẩn mực, sáng kiến của các tổ chức quốc tế mà nước ta là
thành viên, trước hết là các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc. Tích cực
tham gia các thể chế hợp tác về môi trường, đóng góp vào nỗ lực chung phòng,
chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng,
nguồn nước, động vật, thực vật ở nước ta và trên thế giới.
Chủ động, tích cực giới thiệu, tham gia và nâng cao chất lượng, thành
tích trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao… ở khu vực và thế giới.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, văn hóa, thông tin,
tuyên truyền; đấu tranh có hiệu quả nhằm hạn chế các tác động tiêu cực về xã
hội, văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống1.
=> Đây là những chính sách, định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực từ
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, v.v... Điều đó thể hiện sự cụ thể, nhất quán
trong phương hướng hội nhập quốc tế một cách toàn diện và sự sẵn sàng đón
đầu những bước chuyển mình quan trọng trong vấn để hội nhập quốc tế trong
tương lai.
1 Trích Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế, ban hành ngày 10/4/2013.
22
II.3. Thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam:
Theo quan điểm của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần
dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa
hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa
đối phó thách thức. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là: khả năng
cạnh tranh yếu, dễ bị thua thiệt trên thương trường; sự non kém của cán bộ và
bộ máy ; khả năng dự báo chưa kịp thời chiều hướng phát triển kinh tế thế giới,
nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa phát triển nhanh; hiện tượng mất cảnh giác
của một bộ phận cán bộ trước những âm mưu, thủ đoạn xấu của các lực lượng
thù địch.
Nước ta nhập cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ phát triển kinh tế và
công nghệ còn thấp. Vì vậy, phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở
cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Lộ trình đó được xác định trên cơ sở tính
toán cẩn trọng căn cứ vào các yêu cầu và cam kết của các tổ chức khu vực và
quốc tế mà chúng ta gia nhập để đạt được thỏa thuận qua đàm phán song
phương và đa phương.
Một lộ trình "quá nóng" về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt
quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt
doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả
khó lường. Vì vậy, điều cực kỳ quan trọng là cần xem xét, tính toán nghiêm túc
điều kiện, khả năng cụ thể của từng ngành hàng, từng loại doanh nghiệp về các
mặt quản lý, công nghệ, trình độ kinh doanh, có tính đến những quy định
chung... để hoạch định lộ trình hội nhập hợp lý.
Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn không có nghĩa là "lộ trình càng dài càng
tốt", bởi vì kéo dài lộ trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách
bảo hộ, bao cấp của Nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến
quản lý và công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của
nền kinh tế, nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ càng lớn trước sự phát triển nhanh
23
chóng của các nền kinh tế khác, trong đó có những lĩnh vực phát triển hết sức
mạnh mẽ và nhanh chóng do có sự đột phá về công nghệ.
Thực tế của tất cả các nước, kể cả các nước phát triển, cho thấ : trong
lĩnh vực kinh tế, hội nhập không phải chỉ toàn "được" mà không có "thiệt". Vì
vậy, hợp tác luôn đi liền với đấu tranh, hội nhập đi liền với cạnh tranh để giành
cái "được" tối đa và hạn chế cái "thiệt" đến mức tối thiểu. Đánh giá "được" hay
"thiệt" cũng cần có cái nhìn toàn diện đối với toàn bộ nền kinh tế, không chỉ
hạn chế trong đánh giá cái "được" của từng ngành, từng lĩnh vực riêng lẻ. Điều
quan trọng là, về tổng thể thì cái "được" phải nhiều hơn cái "thua thiệt".
Xác định lộ trình hội nhập quốc tế không chỉ là xác định thời gian mở
cửa thị trường trong nước cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài thâm
nhập, mà còn là phác họa thời điểm nền kinh tế nước ta phải vươn lên, phát
huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc
tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước về hàng hóa, về đầu tư
và dịch vụ, nâng cao vị trí, vai trò của nền kinh tế nước ta trên thị trường thế
giới.
Hiện nay Việt Nam đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc
và toàn diện hơn bao giờ hết. Tính đến năm 2011, chúng ta đã có quan hệ ngoại
giao với 179 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 220
quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu
vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998)
lên đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành công vị trí Ủy viên
không thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp
quốc, nhiệm kỳ 2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành công vai trò Chủ
tịch ASEAN trong năm ASEAN 2010. Chặng đường hơn 25 năm đổi mới và
hội nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước.
Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt
Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền
kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi
tình trạng vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch
24
xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp. Bởi vậy, bước vào
thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam đứng trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa
sinh tử là phải tìm cách thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế
bị bao vây cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường đã
lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, trên phương diện đối ngoại Đảng và Nhà nước Việt
Nam nỗ lực đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh về "thêm bạn, bớt thù", mở rộng và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế, tìm ra khâu đột phá để thoát vòng bao vây cô lập của các thế lực
chống đối. Sau Đại hội VI, đặc biệt là sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị
(1988) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (1989), Việt Nam đã có
những điều chỉnh cơ bản về chính sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ
trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng
cải thiện quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, tạo môi trường quốc
tế hoà bình, ổn định ở khu vực, thuận lợi cho phát triển đất nước.
Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Đại hội VI của
Đảng nêu chủ trương chiến lược: "mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế". Trên cơ sở đó và trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc
tế sau sự tan rã của Liên Xô, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992) chính
thức xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa các quan hệ quốc tế.
Chủ trương chiến lược của Đại hội VII tiếp tục được Đại hội VIII khẳng
định, bổ sung và đến Đại hội IX phát triển thành "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình
độc lập và phát triển". Như vậy, quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng
đã đưa đến việc xác lập những nội dung, tính chất cơ bản trong đường lối đối
ngoại từ "rộng mở", "là bạn" đến "đa dạng hóa, đa phương hoá quan hệ quốc
tế" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy". Đây là sự thể hiện tinh thần độc lập
tự chủ, sáng tạo, kiên định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn kết
mục tiêu cách mạng và định hướng phát triển đất nước vào những xu thế phát
triển của thời đại. Với sự điều chỉnh chính sách đối ngoại như đã nêu, Việt
25