Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Khảo sát chất lượng nước mặt trong thủy vực thành phố long xuyên (khu vực phường mỹ bình, mỹ phước, mỹ long, mỹ xuyên) nhằm xác định mức ô nhiễm vùng nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.63 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOÁSƯPHẠM
Chương
1. MỞ
ĐẦU
Bộ MÔN
SINH
VẶT

An Giang ngoài sông Tiền, sông Hậu chảy sang cung cấp một nguồn nước ngọt
khổng lồ, còn có một hệ thống sông rạch, kênh đào chằng chịt. Ngoài thuận lợi về giao
thông thủy, nước ngọt ở An Giang còn là nguồn tài nguyên vô cùng to lớn cho sản xuất
và đời sống của hàng triệu người dân.
Long Xuyên là thành phố trực thuộc tỉnh An Giang. Khu vực phường Mỹ Bình,
Mỹ Phước, Mỹ Long, Mỹ Xuyên nằm trong thành phố Long Xuyên có diện tích tự
nhiên khoảng 7,75 km2 Mật độ dân số trung bình khoảng 2.391 người / km 2 (Phòng
thống kê thành phố Long Xuyên, 2008). Phần lớn dân cư trong vùng hoạt động trong
các cơ sở thương mại dịch vụ (UBND phường: Mỹ Bình, Mỹ Phước, Mỹ Long, Mỹ
Xuyên, 2008). Việc thường xuyên thải rác thải sinh hoạt xuống kênh rạch và sau đó lại
sử dụng nước kênh rạch trong sinh hoạt hàng ngày của bộ phận dân cư sống ven rạch
cho thấy họ chưa quan tâm lắm đến sức khỏe cộng đồng và việc bảo vệ môi trường.
Thêm vào đó, với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang nói chung, thành
phố Long Xuyên nói riêng, nước mặt đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, chăn nuôi thủy sản... và sau khi sử dụng đều
trở thành nước thải với các mức độ ô nhiễm khác nhau lại được đưa vào môi trường.

KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẬT TRONG THỦY

vực

vực



Để đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bên cạnh chủ trương
THÀNH
PHỐ
XUYÊN
khai
thác sử dụng
tốiLONG
ưu tài nguyên
nước,(KHU
ủy ban nhân dânPHƯỜNG:
(UBND) tỉnh MỸ
cũng đã có
định hướng bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này.
Xuất phát từ những định hướng trên, trong những năm qua Trung tâm Kỹ thuật
Tài Nguyên và Môi trường thuộc Sở Tài Nguyên và Môi trường An Giang đã quan trắc
chất lượng nước mặt trong địa bàn tỉnh trên sông Tiền, sông Hậu và các kênh rạch nội
đồng (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang, 2008).
Việc quan trắc nước mặt trong địa bàn tỉnh chủ yếu dựa trên các chỉ tiêu thủy lý,
hóa. Trong khi đó với hoạt động của con người, số chất ô nhiễm thải vào môi trường có
thể lên tới khoảng 1500 chất, vượt quá khả năng, kỹ thuật phân tích lý, hóa học (25
chất) và kinh phí phân tích. Vì vậy, ngày nay việc sử dụng sinh vật chỉ thị để đánh giá,
kiểm soát và cải thiện chất lượng môi trường đã được nhiều nước trên thế giới nghiên
cứu và sử dụng mang lại nhiều thành tựu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn (Lê Văn
Khoa, 2007), (Đặng Ngọc Thanh, 2000).
Chủ nhiệm đề tài: TÔ NGUYỆT NGA
Một điều hiển nhiên là các sinh vật luôn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố môi
trường. Trong nghiên cứu nhiều nhóm sinh vật đã được xác định như là nhóm sinh vật
Long Xuyên, tháng 12 năm 2009
chỉ thị cho môi trường sống.


1


VT1
VT2

VT5
VT6

VT8
VT9

Ngã 3 sông cái gần hội trường

10°.23\37.44”

105°.26\02.24”

nghiên cứu
10°.23\25.26”
105°.25\44.19”
Ngã 3 sông1.1.
dưới Mục
chân tiêu
cầu và nội dung
1.1.1. Mục tiêu
Tại mỗi điểm thu 1 mẫu định tính thực vật phiêu sinh, 1 mẫu định lượng thực vật
phiêu sinh, 1 mẫu phân tích chỉ số thủy lý, hóa và vi sinh. Như vậy tổng số mẫu thí
nghiệm là

54 mẫu.
Khảo
sát hiện trạng nước mặt trong thuỷ vực thành phố Long Xuyên (khu vực
phường:
Bình,tácMỹ
Phước,
Mỹ Long, Mỹ Xuyên) dựa trên các chỉ số vật lý, hóa học
1.3.3.MỹCông
thực
địa
10°.22\40.74”
105°.27’.00.99”
Đầu rạch Cái Sơn
đi vào
và sinh
họckhoảng
nhằm xác định mức ô nhiễm vùng nước, làm cơ sở cho việc sử dụng, khai
thác nguồn nước mặt ở địa phương.
10°22\23.43”
hànhNội
cácdung
đợt đi thu
thập các tài liệu 105°.26’.15.92”
liên quan trong toàn vùng khảo sát, qua
Rạch Cái Sơn đoạnTiến
đầu
bệnh
viện
1.1.2.
đó có cái nhìn tổng quát về vùng, nắm được các đặc điểm của điều kiện tự nhiên và mức

độ ảnh hưởng của nó đến môi trường nước trong vùng.
Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế, xã hội tại các vùng khảo sát chất lượng
10°.22\22.09”
105°.26’.24.08”
Ngã 3 rạch Tầm Bót với rạch xẻo
Thu mẫu thực vật nổi (Phytoplankton) để định tính bằng lưới hình chóp với kích
nước.mắc lưới 15 |!m, lưới được kéo nằm ngang ở tầng mặt với tốc độ 0,5 m /giây
thước
10°.22\17.98”
105°.26’.25.18”
Điểm cuối rạch Tầm Bót cách
trong vòng 5 phút. Thu mẫu thực vật nổi định lượng để xác định mật độ (số cá thể / m 3)
bằng cách lọc 60 lít nước qua lưới . Mầu thu được cho vào lọ nhựa đã khử trùng, cố
Phân tích
lượngVăn
nước
định bằng íòrmol
4 % chất
(Nguyễn
Tuyên, 2003).
+ Thu
mặt tích
để phân
tíchsốchỉ
số lý,
thủy
- hóaChai,
- vi can
sinh,lấymẫu
Thu

mẫu mẫu
nướcnước
để phân
các chỉ
thủy
hóa,lý sinh.
mẫuthực
đượcvật
phiêu
sinh
để
định
tính,
mẫu
thực
vật
phiêu
sinh
để
định
lượng
trong
mỗi
đợt
khảo
rửa kỹ bằng nước sạch, tráng lại bằng nước tại vị trí cần lấy mẫu, đặt chai và can dướisát
tạinước
các địa
điểm.
mặt

ở độ
sâu 20 cm, lấy đầy nước, đậy nắp và cố định ngay trong thùng đá ở 4°c,
bảo quản mâu ở nhiệt độ này cho đên khi phân tích mâu.
Bảng 1.1. Vị trí thu mẫu
+ Phân tích các chỉ số vật lý, hóa học như: Nhiệt độ (t°), độ pH, độ dẫn điện
(Ec),Các
chấtchỉrắn
lững
dihydro
Suníua
(Hđo
oxytiếp
trong
nước
nhuSension
cầu oxy
2S),trực
sổ lơ
thủy
lý:(TSS),
nhiệt độ,
pH, DO,
được
bằng
máy(DO),
HACH
hóa
học
(COD),
nhu

cầu
oxy
sinh
học
(BOD
5), Amoniac, tổng N, tổng p, chì (Pb).
ngoài hiện trường.
1.3.4. Trong phòng thí nghiệm
+ Phân tích chỉ số vi sinh vật: Coliíòrm
Mầu thực vật phiêu sinh được phân tích tại phòng thí nghiệm của Phòng Công
nghệ và Quản lý Môi trường - Viện Sinh học nhiệt đới tại 85 Trần Quốc Toản,
Phường +
7,Xác
Quận
3, Tp.
Hồphần
Chí Minh.
định
thành
loài và số lượng loài của các ngành tảo theo mùa.
Mầu định tính: Sử dụng kính hiển vi Olympus BX 51 để xác định các loài có trong
tích, loài
xếp loại
đánhsắp
giá xếp
chất theo
lượnghệnước
mặt phân
trong vùng
khảo sát.

mẫu. Danh Phân
lục các
tảo và
được
thống
loại Classiíication
by
Systema Naturae 2000.
1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Mầu định lượng: Đem số lượng tế bào của các loài bằng buồng đếm Sedgewick
Raữer Cell có thể tích lml và quy ra số lượng tế bào có trong lm3.
Nước mặt trong thủy vực thành phố Long Xuyên (khu vực phường: Mỹ Bình, Mỹ
Phước, Mỹ Long, Mỹ Xuyên) với các tính chất thủy lý, hóa, sinh.
1.2.2.

Phạm vi nghiên cứu

43 2


Ammonia (tính theo N )
Chì (P b)

Std.

Method
AOAC
QCVN


4500

BTNMT
08

(AAS)

5370:1991

QCVN 08 5987 / BTNMT

S
1.3.5. Xử lý số liệu thống kê

SMEWW 4500 - p - D

Dùng phần mềm thống kê sinh học Primer 5 tính các chỉ số Bray Curtis, Shannon

5


Chương 2. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Long Xuyên là thành phố trực thuộc tỉnh An Giang có diện tích khoảng
115,31 km2 nằm ở vị trí 10°23’28” vĩ độ bắc và 105°25’48” kinh độ đông.
Khu vực phường Mỹ Bình, Mỹ Phước, Mỹ Long, Mỳ Xuyên nằm trong thành phố
Long Xuyên có diện tích tự nhiên khoảng 7,75 km 2. Phía bắc giáp với phường Bình
Khánh, Phía Đông giáp với sông Hậu, phía Tây giáp các phường Mỹ Hoà, Đông Xuyên,
phía nam giáp với phường Mỹ Qúi.

Rạch Long Xuyên được xây dựng năm 1891, rạch có chiều dài khoảng 67.000 m,
rộng đáy 30 m, cao trình đáy - 2,5 m. Trong 67.000 m chiều dài có khoảng 43.000 m
thuộc địa phận tỉnh An Giang, chạy dài từ huyện Thoại Sơn đến khu vực phường Mỹ
Bình thành phố Long Xuyên (Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang, 2005).
Rạch Tầm Bót được xây dựng trước 1975, rạch có chiều dài khoảng 3.500 m, rộng
đáy 10 - 12 m, cao trình đáy - 2 m, nằm trong khu vực phường Mỹ Phước, thành phố
Long Xuyên (Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang, 2005).
Rạch Cái Sơn có chiều dài khoảng 1200m, rộng đáy 6m, cao trình đáy khoảng
- Im (ở phía ngoài) và Om (ở phía trong), nằm trong khu vực phường Mỹ Long, Mỹ
Xuyên thành phố Long Xuyên (Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang, 2005).
2.1.2. Địa hình
Khu vực khảo sát nằm trong vùng đồng bằng thuộc tứ giác Long Xuyên có độ cao
trung bình từ 1,2 - 3 m và nghiêng đều tới giáp Kiên Giang (Bùi Đạt Trâm, 1985).
2.1.3. Địa chất
Khu vực khảo sát thuộc đồng bằng tứ giác Long Xuyên có cấu tạo địa chất phân
tầng. Tầng trên cùng là tầng đất đỏ hoặc xám được hình thành trong điều kiện trầm tích
của phù sa sông Cửu Long, tầng này dễ bị rửa trôi do hiện tượng xói mòn. Tiếp tầng đất
đỏ là tầng sét lam chứa nhiều gốc sulphat, có bề dày đều đặn, bình quân từ 1,8 - 2,2 m,
được hình thành trong điều kiện biển ấm (Bùi Đạt Trâm, 1985).
2.2. Khí hậu, thuỷ văn
2.2.1. Khí hậu

6


• Độ ẩm

Ở An Giang, nhiệt độ trong năm thay đổi ít nên sự biến đổi độ ẩm phụ thuộc chủ
yếu vào luợng mưa. Độ ẩm trung bình năm vào khoảng 81,3%, vào mùa mưa độ ẩm
trung bình 78 - 85%, vào mùa khô độ ẩm trung bình 76 - 82% (Cục thống kê tỉnh An

Giang, 2008).
• Nắng

Do ở vĩ độ thấp và mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau nên An
Giang có một mùa nắng chói chang. Tổng số giờ nắng trung bình khoảng 2195 giờ/năm.
• Mưa

Chế độ mưa bị phân hoá thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11,
trong thời gian này mưa nhiều từ tháng 7 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng
4 năm sau (Cục thống kê tỉnh An Giang, 2008).

Tổng lượng mưa hằng năm bình quân từ 1 lOOmm - 1200mm/năm, giá trị cao nhất
đạt 2.100mm/năm và thấp nhất 900mm/năm (Cục thống kê tỉnh An Giang, 2008).
2.2.2. Chế độ thuỷ văn
• Đặc điểm thuỷ văn mùa lũ

Ket quả đo đạt thuỷ văn cho thấy khu vực trong mùa lũ chịu ảnh hưởng thuỷ triều
biển Đông, mực nước hoạt động theo chế độ bán nhật triều, một ngày 2 lần triều lên và
triều xuống.

Lưu lượng bình quân năm : 7505m3/s
Lưu lượng bình quân mùa lũ :

11000m3/s

Lưu lượng bình quân mùa kiệt:

3000m3/s

Lưu lượng lớn nhất bình quân:


26000m3/s

7


Đặc điểm
văn mùa kiệt
•• Thông
tin, thuỷ
liên lạc
Mùa kiệt
đếnnối
tháng
4 năm
với mùa
khô.Dịch
Lúc vụ
nàycung
lưu
Thông
tin kéo
liêndài
lạctừđãtháng
được12kết
xuống
tận sau
các trùng
phường,
các ấp.

luợng
và mực
sông
Hậuchóng.
giảm nhanh, biên độ triều trên sông đạt từ 1 - 1,2m. Mực
cấp
phong
phú, nước
tiện lợi,
nhanh
nước trên• kênh
Y tế,rạch
giáo lúc
dụcnày biến đổi theo dao động bán nhật triều biển Đông (Trung
tâm Khí tượng Thủy văn An Giang, 2008).
2.3. Dân sinh, kỉnh tế, xã hội
2.3.1. Tình hình dân sinh
Dân số thành phố Long Xuyên năm 2007 khoảng 275.688 người với cơ cấu giới
Mạng lưới
y tế,
giáo dục
rộng
sóc 2.391
sức khỏe
cho/ nhân
tính 133.791
nam,
141.897
nữ. phát
Mật triển

độ dân
số khắp
trungnằm
bìnhchăm
khoảng
người
km 2.
dân
Trong
và phổ
đó: cập
phường
xoá mù
Mỹchữ.
Bình có 23.610 người với mật độ 14.665 người / km 2 ; phường
Mỹ Phước có 27.051 người / km 2 với mật độ 6.291 người /km 2; phường Mỹ Long có
25.472 người với mật độ 20.709 người / km 2; phường Mỹ Xuyên có 11.979 người với
2
mật độY10.066
người
/ km
tế: ngoài
công
tác. khám chữa bệnh thường xuyên và thực hiện các chương trình
y tế quốc gia. Trạm y tế các phường còn phối họp với câu lạc bộ Y - Bác sĩ trẻ bệnh
viện Đa khoa - An Giang tổ chức khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho các hộ
4 dân
tộccao
chủ tuổi...(UBND
yếu là Kinh, Khơme,

Chăm
tỉ lệ
nghèo,Dân
các cư
giatrong
đình vùng
chínhgồm
sách,
người
phường: Hoa
Mỹ và
Bình,
Mỹvới
Phước,
dân Long,
số tăngMỹ
tự Xuyên.
nhiên khoảng
Mỹ
2008). 1,12 % (Cục thống kê tỉnh An Giang, 2008).
2.3.2. Tình hình kinh tế, xã hội
• Nông nghiệp
Giáo dục: Bên cạnh thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục, việc vận động học
sinh đầu cấp ra lóp cũng được thực hiện khá tốt với tỷ lệ huy động học sinh đến lớp ở
cấp mầm non đạt trên 99%, cấp tiểu học trên 99,7% (UBND phường: Mỹ Bình, Mỹ
Phước, Mỹ Long, Mỹ Xuyên. 2008)..
• An ninh, quốc phòng
Trong năm 2007 khu vực khảo sát có 154 ha đất nông nghiệp tập trung ở phường
Mỹ Phước, canh tác cây lúa với năng suất đạt 66,97 tạ /ha và tổng sản lượng đạt
1.048,12 tấn.

Phối
chặt
chẽdiện
việctích
phát
triển giống
kinh tế,
hội 151ha
với cũng
an ninh,
quốckỳphòng.
Năm họp
2008,
tổng
xuống
lúaxã
được
đạt cố
100%
(so cùng
giảm
Lực
lượng
công
an,
quân
sự

đội
dân

phòng
chuyên
trách
phường,
khóm
3 ha) năng suất bình quân 13,5 tấn/ha/năm. Diện tích hoa màu 2,7 ha (trong đó phối
2 ha họp
rau
tuần
công
triệt xóa
tụ An
điểm
về tệ2008).
nạn xã hội và các băng nhóm.
nhút tra,
còn tấn
lại rau
dưatộicácphạm,
loại) (Cục
thốngnhiều
kê tỉnh
Giang,
Bảng
Thành
• Dịch
vụ,2.1:
thương
mạiphần hóa học trung bình của nước sông hồ


Thương mại có vị trí quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội, là cầu nối giữa
sản xuất và tiêu dùng.

Dịch vụ bao gồm các hoạt động kinh tế, xã hội không trực tiếp tạo ra các sản phẩm
(Đặng Kim Chi, 2006, nguồn Morel F. M. M , 1983 )
vật chất. Danh mục các hoạt động dịch vụ ngày càng được mở rộng.

98


2.5. Ô nhiễm nguồn nước và các chất gây ô nhiễm nước
2.5.1. Ô nhiễm nguồn nước
Ô nhiễm nguồn nước là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước gây ảnh
hưởng đến hoạt động sống bình thường của con người và sinh vật.
Theo hiến chương Châu Âu thì: “Sự ô nhiễm nước là một biến đổi chủ yếu do con
người gây ra đối với chất lượng nước, làm ô nhiễm nước và nguy hại cho việc sử dụng,
cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi / giải trí, cho động vật nuôi cũng như
các loài hoang dại” (Lê Văn Khoa. 2006).

Có nhiều tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước, có thể có nguồn gốc tự nhiên như: núi
lửa, lũ lụt, xói mòn, xâm nhập mặn, phong hóa... hay nguồn gốc nhân tạo do các hoạt
động của con người trong sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng công
trình thủy lợi, giao thông vận tải, dịch vụ du lịch....đã sản sinh ra các chất gây ô nhiễm
nguồn nước (Đặng Kim Chi, 2006), (Lê Quốc Hùng 2006), (Lê Văn Khoa, 2006).
2.5.2. Các chất gây ô nhiễm nước
• Các chất hữu cơ dễ bị phân hủy

Đây là các chất gây ô nhiễm chính có nhiều trong nước thải sinh hoạt. Trong thành
phần các chất hữu cơ có khoảng protein (40 - 60%), hidratcacbon (25 - 50%), chất béo
(10%). Các họp chất này làm suy giảm oxi hòa tan trong nước dẫn đến giảm chất lượng

nước cấp sinh hoạt (Lê Quốc Hùng 2006).
• Các chất hữu cơ khó bị phân hủy

Đây là các chất hữu cơ có độc tính cao, bền vững, khó bị vi sinh vật phân hủy, có
độc tính cao đối với sinh vật và con người. Chúng có khả năng tồn lưu trong môi trường
và trong cơ thể sinh vật nên có tính tích lũy qua chuỗi thức ăn, gây tác hại lâu dài đến
đời sống sinh vật và từ sinh vật chuyển vào con người. Các chất này thường có trong
nước thải công nghiệp lọc hóa dầu, sản xuất bột giấy, nhuộm... và nước chảy tràn từ các
vùng nông nghiệp sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ... (Lê Quốc Hùng 2006).
• Các chất vô cơ

10


nguồn nước bề mặt sẽ bị nhiễm độc. Thêm vào đó, xác các thực vật, động vật chết do
thiếu oxy sẽ phân hủy, các sinh vật sổng dưới nước sẽ chết. (Đặng Kim Chi, 2006), (Lê
Quốc Hùng 2006).

Các họp chất phân bón nitơ dưới dạng NO 3" tiêu thụ nhanh trong đất hoặc các họp
chất nitơ dạng urê hay amôn tiêu thụ dần dần đều có đặc tính cơ bản là độ hòa tan của
chúng trong nước khá lớn, điều này dễ ảnh hưởng tới sự ô nhiễm nước mặt.
Do kết quả của quá trình oxy hóa các hợp chất nitơ mà hàm lượng nitrat trong
nước sinh hoạt tăng lên rất nhiều. Điều này không có lợi cho sức khỏe con người. Khi
hàm lượng nitrat (NO3") trong nước uống tăng cao sẽ ảnh hưởng tới thành ruột và khi nó
tạo thành nitrit (NO2’) sẽ gây nên phản ứng khử vi sinh ở dạ dày và đường ruột. Nitrit
(NO2’) sinh ra sẽ kết họp với hồng cầu (hêmôglôbin) trong máu chuyển hóa thành
mêthêmôglôbin, cuối cùng chuyển thành mêthêmôglôbinamin là chất ngăn cản việc liên
kết và vận chuyển oxy, gây bệnh thiếu oxy trong máu và sinh ra bệnh máu trắng (Đặng
Kim Chi, 2006).
4 HbFe22+02 + 4N02’ + 2H20 —► 4 HbFe23+OH + 4 NO3' + 02

Hêmôglôbin

Mêthêmôglôbin
Các khoáng acid

Theo Đặng Kim Chi (2006) ở các mỏ than, khi không còn khai thác, sẽ có một
khối lượng lớn các chất thải đi vào nguồn nước. FeS 2 là chất bền trong môi trường thiếu
oxy không khí, nhưng khi bị khai thác, tiếp xúc với không khí và có sự tham gia của vi
sinh vật sẽ sinh ra phản ứng:
2 FeS2 + 2 H20 + 702

—► 2Fe2+ + 4H+ + 4S042'

4 Fe2+ + 02 + 4H+

- - -► 4 Fe3+ + 2 H20

Phản ứng sau xảy ra chậm khi pH <

triobacilliusý'erroxidants và pH = 3,5

3,5 nhưng khi có mặt vi khuẩn sắt

4,5 thì phản ứng xảy ra nhanh hơn với xúc tác là

11


Chất lắng
Bảng 2.2. QCVN

08: 2008/ BTNMT Giá trị giói hạn các thông số chất lượng nước
mặt (trích).___________________________________________________________________
Quá trình khai thác mỏ, xây dựng và phát triển nông nghiệp một cách bừa bãi gây
nên hiện tượng xói mòn đất tự nhiên làm tăng lượng cặn lắng trong nước, gây ô nhiễm
nguồn nước mặt. Các chất lắng là nguồn sinh ra các chất vô cơ, hữu cơ trong suối, trong
nước bề mặt, ở cửa sông và biển. Chúng có khả năng trao đổi cation với các chất trong
môi truờng nước (Đặng Kim Chi, 2006).
Các nguyên tố vết trong nước

(Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt)
Đó là những nguyên tố có rất ít trong nước, nhỏ hơn vài ppm, chúng thường là các
kim loại (Pb, Cd, Hg, As, Se... ) hoặc các á kim (Se, Sb... ). Ở nồng độ thấp, một số là
Chú dưỡng
thích: cho cơ thể sống của động thực vật, còn khi ở nồng độ cao chúng là
chất dinh
những chất gây nhiễm độc rất mạnh. Tuy nhiên, một số kim loai nặng như: Hg, Cd, As
rất độc đối với sinh vật kể cả ở nồng độ thấp (Đặng Kim Chi, 2006), (Lê Quốc Hùng
2006).Al: Sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt và các mục đích khác như loại
A2, BI và B2.
• Phóng xạ
A2: Dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng phải áp dụng công nghệ xử lý
phù hợp; bảo tồn động thực vật thủy sinh, hoặc các mục đích sử dụng như loại BI và
B2.
Gồm các hạt alpha, beta, các tia gamma và bức xạ nơtron, chúng có khả năng
xuyên B1:
và cơ
thể sống
qua đích
đườngtưới
hô tiêu

hấp, thủy
tiêu hóa
gây tác
chođích
cơ sử
thể.dụng
Đặc khác
biệt bức
xạ
Dùng
cho mục
lợi hoặc
cáchại
mục
có yêu
hạt
nhân

khả
năng
gây
tác
động
mãn
tính
đến
nhiễm
sắc
thể
gây

ung
thư,
hại
phôi
cầu chất lượng nước tương tự hoặc các mục đích sử dụng như loại B2.
thai và ảnh hưởng đến di truyền (Lê Quốc Hùng 2006).
• Các sinh vật gây bệnh
B2: Giao thông thủy và các mục đích khác với yêu cầu nước chất lượng thấp.
2.7. Một số thông số cơ bản đánh giá chất lượng nước
2.7.1.

Độ pH

Nguồn nước bị ô nhiểm do nhận nước thải sinh hoạt, nước bị nhiễm phân và đặc
biệt làĐộ
nước
bệnh
viện.những
Các loại
ký sinh
vật gây
theo
pH thải
là một
trong
yếu vi
tố khuẩn,
quan trọng
trongtrùng,
nước.sinh

Sự thay
đổi bệnh
giá trịsẽpH

nguồn
bị ô nhiễm
bệnhphần
cho người
và động
(Đặng
Chi, 2006).
thể
dẫnnước
tới những
thay lan
đổitruyền
về thành
các chất
trongvật
nước
do Kim
quá trình
hòa tan hoặc
kết tủa, hoặc thúc đẩy hay ngăn chặn những phản ứng hóa học hay sinh học xảy ra trong
nước (Đặng Kim Chi, 2006).
2.7.2. nước
Độ dẫn
điện phân
(Ec) có 3 nhóm vi sinh chỉ thị:
Trong

bị nhiễm
Độ dẫn điện (Ec) của nước phụ thuộc vào tổng ion trong nước. Ở nước ngọt Ec có
trị số hàng chục ps/cm, ở nước sulphat Ec có trị số hàng trăm ps/cm và ở nước lợ mặn
Ec có trị số hàng ngàn đến hàng chục ngàn ps/cm (Nguyễn Văn Tuyên, 2003).

12
13


Chất rắn lơ lững (SS): là trọng lượng khô của phần chất rắn còn lại trên giấy lọc
sợi thủy tinh khi lọc 1 lít mẫu nước qua phễu lọc Gooch rồi sấy khô ở 130°c / 150°c tới
khi trọng lượng không đổi. Đơn vị tính bằng mg/1.

Chất rắn hòa tan (DS): là hiệu số của tổng lượng chất rắn và hàm lượng chất rắn
lơ lững. Đơn vị tính bằng mg/1.
DS = TS / ss
2.7.4. Hàm lượng oxy hòa tan trong nước (DO)
Hàm lượng oxy hòa tan trong nước (mg/1) là lượng oxy từ không khí hòa tan vào
nước trong điều kiện nhiệt độ, áp suất xác định hoặc do quang họp của tảo. Oxy hòa tan
trong nước sẽ tham gia vào quá trình trao đổi chất, duy trì năng lượng cho quá trình phát
triển, sinh sản và tái sản xuất cho các vi sinh vật sống dưới nước. Hàm lượng oxy hòa
tan trong nước khoảng 8 - 1 0 ppm và dao động mạnh phụ thuộc vào nhiệt độ, sự phân
hủy hóa chất, sự quang họp của tảo. Do đó, DO là chỉ số quan trọng để đánh giá sự ô
nhiễm nước của thủy vực. (Đặng Kim Chi, 2006), (Lê Quốc Hùng, 2006).
2.7.5. Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD)
BOD là lượng oxy cần cho vi sinh vật tiêu thụ để oxy hóa sinh học các chất hữu
cơ trong bóng tối ở điều kiện quy chuẩn về nhiệt độ và thời gian. Như vậy, nếu lượng
chất hữu cơ trong nước càng lớn và mật độ vi sinh vật càng cao thì lượng oxy cần thiết
cho quá trình phân hủy càng nhiều. Đơn vị của BOD là mg/1 (Đặng Kim Chi, 2006), (Lê
Quốc Hùng, 2006).

2.7.6. Nhu cầu oxy hóa học (COD)
Chỉ số COD là lượng oxy cần thiết cho quá trình oxy hóa các chất hữu cơ trong
một đơn vị mẫu nước (mg/1) thành CƠ2 và H2 O.
COD biểu thị lượng chất hữu cơ có thể oxy hóa bằng hóa học. Như vậy, chỉ số
COD luôn luôn có giá trị cao hơn BOD vì nó bao gồm cả lượng chất hữu cơ không thể
bị oxy hóa bằng vi sinh vật. Tỷ lệ BOD và COD thường xấp xỉ từ 0,5 - 0,7 (Đặng Kim
Chi, 2006), (Lê Quốc Hùng, 2006).
2.7.7. Hàm lượng photpho
Photpho có thể tồn lưu trong nước dưới dạng H2PO4", HPO42', PO43', các
polyphotphat và photpho vô cơ. Ở nồng độ thấp chúng là các chất dinh dưỡng đối với
tảo và các sinh vật thủy sinh, khi ở nồng độ cao, các chất này gây ô nhiễm góp phần
thúc đẩy hiện tượng phú dưỡng ở ao, hồ (Đặng Kim Chi, 2006).
2.7.8. Hàm lượng suỉphat

14


Vi
khuẩn
Vi
khuẩn
Protein —► NH3 ----------------► NO2’------------► NO3'-------------*-N2
khử nitrat
Oxy hóa

oxy hóa

khử nitrit

Neu nước chứa hầu hết các hợp chất hữu cơ chứa nitơ, amoniac và NH4OH thì

chứng tỏ nước mới bị ô nhiễm, NH3 trong nước sẽ ảnh hưởng nhiễm độc tới cá và các
sinh vật.

Neu nước chứa chủ yếu họp chất nitơ ở dạng nitrit là nước đã bị ô nhiễm một thời
gian dài.
Neu nước chứa chủ yếu hợp chất nitơ ở dạng nitrat chứng tỏ quá trình oxy hóa đã
kết thúc.
2.7.10. Hàm lượng kim loại nặng
Một số kim loại nặng như Pb, Hg, As, Cd....đi vào nước, ở các điều kiện pH khác
nhau chúng sẽ tồn tại những hình thái khác nhau gây ô nhiễm nước (Đặng Kim Chi,
2006).
2.7.11. Các chỉ tiêu vi sinh
Nguồn gây ô nhiễm sinh học cho môi trường nước chủ yếu là phân, rác, nước thải
sinh hoạt, xác chết sinh vật, nước và rác thải bệnh viện ...Đe đánh giá mức độ ô nhiễm
sinh học người ta thường dùng chỉ số Coliíorm vì chúng là nhóm vi sinh quan trọng
nhất (chiếm 80% số vi khuẩn) và có đầy đủ các quy chuẩn của loại vi sinh chỉ thị. Đây
là chỉ số phản ánh số lượng vi khuẩn E.coli trong nước thường gây bệnh cho người và
động vật (Đặng Kim Chi, 2006), (Lê Quốc Hùng, 2006).
2.8. Lịch sử nghiên cứu và ứng dụng chỉ thị sinh học trên thế giói và ở Việt Nam
Theo Lê Văn Khoa, (2007) và Lê Trình (2004). Từ giữa thế kỷ 19, Kolenati
(1848), Colin (1853), Forbes (1877)... đã nhận thấy có sự khác biệt lớn giữa các nhóm
thủy sinh vật ở thủy vực nước sạch và nước bẩn. Năm 1902 ở Châu Âu, Kolkwits và
Marson khi đo mức độ nhiễm bẩn các chất hữu cơ nơi sông suối đã xác định các nhóm
loài chỉ thị cho các điều kiện môi trường khác nhau, đưa ra khái niệm “các chỉ thị sinh
học của ô nhiễm” và đề xuất hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn dựa vào các loài được

15


Pantle và Buck (1955), Zelinka và Marvan (1961) đã ứng dụng hệ thống phân loại

độ nhiễm bẩn để xây dựng hệ số ô nhiễm.
Sladecek (1973), đã đưa ra danh mục các nhóm thủy sinh vật chỉ thị ô nhiễm.
Chỉ số sinh học tiếp tục được phát triển bởi Courl (1987) và Foissner (1988). Các
hệ thống quan trắc sinh học được các nước sử dụng như chuẩn quốc gia để quan trắc
chất lượng nước.

Ở Anh: năm 1977 đã đưa ra hệ thống điểm số BMWP/ASPT, (Biological
Monitoring Working Party/Average Score Per Taxon). Năm 1977, đã xây dựng chương
trình R1VPACS (River Invertebrate Prediction And Classiíìcation System) hệ thống
phân loại và dự báo chất lượng môi trường bằng động vật không xương sống ở sông với
mức độ phân loại tới họ và chỉ số chất lượng môi trường EQ1 (Environmental Quality
Index).

Ở Bỉ: các nhà khoa học đã kết họp chỉ số sinh học Trent (TB1 - Trent Biotic
Index) và chỉ số sinh học Pháp (FB1 - French Biotic Index) thành chỉ số sinh học Bỉ
(BB1 - Belgian Biotic Index).
Ở Ỷ: thường sử dụng chỉ số sinh học Trent mở rộng (EB1).
Ở Mỹ: tại bang Ohio sử dụng chỉ số quần xã động vật không xương sống
(Invertebrate Community Index - ICI) và chỉ số sinh học tổng họp (Index of Biotic
Integrity - IBI (Karr et al, 1986) và chỉ số IBI được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ.
Ở Châu Á:

Ở Thái Lan: Mustow (1997) đã sửa đổi thang tính điểm BMWP - Anh cho phù
họp với điều kiện miền Bắc Thái Lan gọi là BMWP - Thái.
Ở Ấn Độ: thang tính điểm BMWP - Anh được De Zwart và Trivedi (1994)
chuyển đổi cho phù họp với điều kiện đất nước và nó được gọi là BMWP - Ân.
Ở Việt Nam:

16



Nguyễn Xuân Quýnh (BTNMT) xây dựng hệ thống phân loại độ nhiễm bẩn các
thủy vực Hà Nội dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của một sổ loài hay nhóm loài chỉ thị
thuộc nhóm động vật không xương sống (Lê Trình, 2004).

Nguyễn Xuân Quýnh (2001) dựa vào hệ thống tính điểm BMWP/ ASPT để xây
dựng quy trình quan trắc và đánh giá chất lượng nước bằng động vật không xương sống
cỡ lớn (Lê Trình, 2004).
Đoàn Cảnh, Nguyễn Vũ Thanh, Tạ Huy Thịnh, Phạm Đình Trọng (2004) đã bổ
sung thêm 13 họ mới vào hệ thống tính điểm BMWP - Việt Nam. Năm 2001, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Xuân Quýnh, Mai Đình Yên, Clive Pinder và Steve Tilling
đã nghiên cứu điều chỉnh hệ thống BMWP trong điều kiện Việt Nam thành BMWP Việt Nam (Lê Trình, 2004).
Trần Trường Lưu, (1997) đã đánh giá hiện trạng ô nhiễm nước sông Thị Vải dựa
vào thành phần loài và mật độ của vi tảo và động vật đáy (Lê Trình, 2004).
2.9. Sinh vật chỉ thị và các chỉ số sinh học để đánh giá chất lượng môi trường nước
2.9.1. Sinh vật chỉ thị ( Bioindicator)
Sinh vật chỉ thị là những sinh vật có yêu cầu nhất định về điều kiện sống, nhu cầu
dinh dưỡng, hàm lượng oxy và khả năng chống chịu của nó với môi trường. Sự hiện
diện của chúng biểu thị một tình trạng nào đó về điều kiện sinh thái trong giới hạn chịu
đựng của sinh vật đó (Lê Văn Khoa, 2007).
Từ những năm 1984, trên cơ sở nghiên cứu đa dạng sinh học tảo trong các thủy
vực, tác giả Nguyễn Văn Tuyên đã chỉ ra mối tương quan giữa thành phần loài sinh vật
với các chỉ tiêu lý hóa và mức độ ô nhiễm môi trường nước như sau:
Thủy vực càng sạch, DO càng cao, BOD, COD, Amonia càng thấp, số loài
sinh vật càng cao.
Thủy vực ô nhiễm, DO giảm, BOD, COD, Amonia tăng, số loài sinh vật thấp.

- Khi độ bẩn của thủy vực tăng, tỷ lệ tảo Lam tăng. Lúc này sẽ có sự xuất hiện
của loài thuộc chi Microcystis hoặc Oscillatoria (tảo lam), Melosira granulata
(tảo Silic). Đây là loài ưa môi trường giàu dinh dưỡng. Khi nhiễm bẩn phân

chuồng, phân bắc tỷ lệ tảo mắt tăng.

17


Trong đó:

ni

: số lượng của các cá thể của loài thứ i trong mẫu lấy từ một quần xã.

n

: số lượng của các cá thể trong một mẫu lấy từ một quần xã.

s : số lượng loài có trong mẫu.

Thang điểm

đánh giá

Mức độ nhiễm bẩn

<1

Rất

1-2

Ô

Ô

ô

nhiễm
nhiễm

nhiễm

nhẹ

Sạch

>2-3

Chỉ số tương đồng Bray Curtis (1957) (Bray J.R., Curtis CT. 1957).

Dij = Ỵ xij + Ỵ xjk
4
u

Trong đó:

Xij: số lượng loài k trong mẫu i
Xjk: số lượng loài k trong mẫu j

N max
N

Trong đó:

Chỉ số ưu thế (D) Berger - Parker góp phần đánh giá tính đa dạng của quần xã.
Chỉ số D nằm trong khoảng 0 - 1. Chỉ số D càng cao thì 1 hay 2 loài trong quần xã có
xu hướng chiếm ưu thế cao trong quần xã, khi đó quần xã sẽ mất tính bền vững. Vì vậy,

18


Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các thông số thủy lý, hóa và vi sinh
3.1.1. Nhiệt độ: Nhiệt độ nước trong khu vực rạch Long Xuyên, Cái Sơn và Tầm
Bót tương đối ổn định, không có sự dao động lớn giữa các điểm thu mẫu và giữa 2 đợt
khảo sát. Nhiệt độ tại các điểm khảo sát biến động từ 31°c - 32,4°c vào mùa khô và
28,6 - 30,9°c vào mùa mưa. Sự biến động nhiệt độ được thể hiện qua biểu đồ 3.1.
Biểu đồ 3.1. Sự biến động nhiệt độ tại các điểm khảo sát

33
Nhiệt độ°c
32

31
1

2

3

4

5


6

7

8

9

3.1.2. Độ pH: Nhìn chung độ pH môi trường trong khu vực rạch Long Xuyên, Cái
Sơn và Tầm Bót có đặc điểm từ acid nhẹ đến kiềm và có sự chênh lệch lớn giữa 2 mùa,
giá trị pH trong mùa khô cao hơn nhiều so với mùa mưa. Vào mùa khô giá trị pH dao
động từ 8,09 - 8,9 và mùa mưa dao động từ 5,5 - 6 ,8 . Theo quy chuẩn Việt Nam: quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08: 2008/BTNMT) thì giá trị
pH tại vị trí VT1, VT2, VT3, VT4, VT6 trong mùa khô đã cao hơn hơn giá trị giới hạn
cho phép của nước dùng trong sinh hoạt (Al) và vị trí VT 6 vào mùa mưa đã thấp hơn
giới hạn cho phép của nước dùng trong sinh hoạt (Al).
Nhìn chung, giá trị pH tại các điểm khảo sát trong rạch Long Xuyên vào mùa khô
(VT1 = 8,9 ; VT2 - 8,82 ; VT3 = 8,73 ; VT4 = 8,53) đã không đạt quy chuẩn chất lượng
nước mặt (QCVN 08: 2008/BTNMT) dùng trong sinh hoạt. Tại 2 điểm khảo sát trong
rạch Cái Sơn thì điểm khảo sát VT 6 đã không đạt quy chuẩn chất lượng nước mặt
(QCVN 08: 2008/BTNMT) dùng trong sinh hoạt (Al ) trong cả 2 mùa (mùa khô pH =
8,52 ; mùa mưa pH = 5,5). Giá trị pH tại 3 điểm khảo sát VT7, VT 8 , VT9 trong rạch

19


Biểu đồ 3.2. Sự biến động pH tại các điểm khảo sát

pH


3.1.3. Độ dẫn điện (Ec): Giá trị Ec dao động nhẹ giữa các điểm thu mẫu và giữa 2
đợt khảo sát. Vào mùa khô giá trị Ec dao động từ 80,9 - 83,1 ps/cm, thấp hơn mùa mua
dao động từ 71,2 - 99,3 ps/cm. Giá trị Ec tại các điểm khảo sát trong các khu vực đã
góp phần khẳng định thể loại hóa học cơ bản của nuớc trong các khu vực thuộc loại
nuớc ngọt (hydrocarbonate water). Sự biến động Ec được thể hiện ở biểu đồ 3.3.
Ec ps/cm



T
h
á

Vị trí khảo sát

3.1.4. Chất rắn lơ lững (TSS): Hàm lượng TSS không đồng nhất giữa các điểm
thu mẫu và giữa 2 đợt khảo sát. Hàm lượng vào mùa khô dao động từ 3- 12mg/l, cao
nhất tại VT9 và thấp nhất tại VT4. Giá trị TSS tại các điểm khảo sát trong mùa khô đều
nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn chất lượng nước mặt (QCVN 08:
2008/BTNMT) dùng trong sinh hoạt (Al). Tuy nhiên, vào mùa mưa hàm lượng TSS
tăng cao, tại các điểm khảo sát giá trị TSS dao động từ 25,5 - 291,7 mg/1 đã vượt quá
giới hạn cho phép của quy chuẩn nước mặt (QCVN 08: 2008/BTNMT) dùng trong sinh
hoạt (Al), cao nhất tại VT1 và thấp nhất tại VT 6 . Tuy không đạt quy chuẩn loại AI
nhưng hàm lượng TSS tại VT3, VT4 cũng không đạt quy chuẩn loại BI và vị trí VT1,

20


Hàm lượng TSS có sự chênh lệch khá lớn giữa mùa mưa và mùa khô do mùa mưa
đồng thời là mùa lũ đã cuốn theo nhiều phù sa từ thượng nguồn đổ về. Sự dao động giá

trị TSS được thể hiện ở biểu đồ 3.4.

■ Tháng 3
□ Tháng 10

m QCVN
08:2008/BTNM
T

1

2

3

4

5

6

7

8

9

QCVN 08:2008/BTNMT

Vị trí khảo sát


3.1.5. Lượng oxy hòa tan (DO): Vào mùa khô DO dao động từ 0,8 - 8,37mg/l,
mùa mưa dao động từ 1,4 - 7,8 mg/1, giá trị DO có sự biến động lớn theo từng khu vực
khảo sát. DO tại các điểm VT1, VT2, VT3, VT4 trong rạch Long Xuyên có giá trị cao
hơn các điểm VT7, VT8 , VT9 trong rạch Tầm Bót và DO thấp nhất tại vị trí VT5, VT 6
trong rạch Cái Sơn. Sự khác biệt này thể hiện rõ trong cả 2 mùa mưa và khô đã phản
ánh mức độ ô nhiễm trong môi trường nước ở rạch Cái Sơn nặng hơn môi trường nước
ở rạch Tầm Bót và môi trường nước trong rạch Tầm Bót ô nhiễm nặng hơn môi trường
nước ở rạch Long Xuyên.
Riêng điểm khảo sát VT8 là nơi tiếp giáp giữa rạch Tầm Bót với rạch xẻo Tranh,
thông với rạch Cái Sơn nên giá trị DO tại điểm này vào mùa mưa chỉ cao hơn giá trị DO
tại điểm khảo sát VT6 trong rạch Cái Sơn. Điều này cho thấy vào mùa mưa đồng thời là
mùa lũ lượng nước dâng cao đã pha loãng hàm lượng các chất ô nhiễm trong các rạch,
đồng thời kéo theo một lượng các chất từ rạch Cái Sơn sang rạch Tầm Bót nên giá trị
DO tại vị trí VT8 trong rạch Tầm Bót chỉ cao hơn vị trí VT6 trong rạch Cái Sơn.
Thêm vào đó Rạch Long Xuyên là một rạch lớn lưu lượng dòng chảy mạnh hơn so
với với rạch Tầm Bót nên mức độ xáo trộn mạnh, khả năng làm sạch môi trường cao,
trong khi đó lưu lượng nước trong rạch Cái Sơn ít, lưu lượng dòng chảy yếu nên khả
năng xáo trộn làm sạch môi trường thấp, khả năng tích tụ các chất ô nhiễm cao, lượng
oxi cần cho quá trình oxi hóa các chất hữu cơ cao nên DO thấp.
Nhìn chung, giá trị DO tại các điểm khảo sát trong khu vực rạch Long Xuyên ở 2
mùa mưa và khô đều nằm trong giới hạn quy chuẩn chất lượng nước mặt (QCVN 08:
2008/BTNMT) dùng trong sinh hoạt (Al).

21


khô) và VT6 (mùa mưa) vẫn không đạt quy chuẩn loại B2 (QCVN 08: 2008/BTNMT).
Sự biến động DO được thể hiện ở biểu đồ 3.5.
DO mg/1


3.1.6. Nhu cầu oxy hóa học (COD): Giá trị COD dao động từ 20 - 70 mg/1, trong
mùa khô và dao động từ 8 - 84 mg/1 trong mùa mưa. Giá trị COD tại các điểm khảo sát
vào mùa mưa thấp hcm mùa khô. Do mùa mưa, nước mưa và nước lũ đổ về đã pha
loãng hàm lượng các chất hữu cơ trong vùng. Riêng 2 điểm khảo sát VT1 và VT 8 vào
mùa mưa lại cao hơn mùa khô.
Ket quả trên cho thấy sự biến động hàm lượng các chất hữu cơ trong môi trường
ngoài ảnh hưởng của lưu lượng nước còn chịu tác động của các hoạt động sinh hoạt, sản
xuất từ các khu dân cư, khu công nghiệp, chế biến thực phẩm và nước chảy tràn từ các
vùng nông nghiệp.... Thực trạng khảo sát cho thấy ngoài tính chất nền đáy khác nhau ở
3 rạch Long Xuyên, Cái Sơn và Tầm Bót thì sự tích tụ lượng rác thải sinh hoạt cũng
khác biệt rõ nét theo hướng tăng dần từ rạch Long Xuyên đến rạch Tầm Bót và cuối
cùng là rạch Cái Sơn. Trong mùa mưa, bên cạnh điểm khảo sát VT 8 chịu ảnh hưởng
lượng chất ô nhiễm từ rạch Cái Sơn chảy sang, thì tại điểm khảo sát VT1 vào thời điểm
thu mẫu tập trung rất nhiều thuyền bè, có lẽ hoạt động sinh hoạt của dân cư trên thuyền
đã thải xuống môi trường nước nhiều chất thải hữu cơ nên đã làm tăng khả năng oxi hóa
hóa học, oxy hóa sinh học. Vì vậy, tại 2 điểm này lượng COD đã tăng cao đột ngột so
với các điểm khác.
Nhìn chung, giá trị COD tại các điểm khảo sát trong 2 mùa đều vượt giới hạn cho
phép của quy chuẩn chất lượng nước mặt (QCVN 08: 2008/BTNMT) dùng trong sinh
hoạt (Al), trừ điểm khảo sát VT5 (COD = 8 ) trong mùa mưa. Trong mùa khô giá trị

22


Biểu đồ 3.6. Sự biến động COD tại các điểm khảo sát
COD mg/1

3.1.7. Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD 5): Giá trị BOD5 dao động từ 12 - 36 mg/1,
trong mùa khô và dao động từ 2,57 - 27 mg/1 trong mùa mưa. Giá trị BOD tại các điểm

khảo sát vào mùa mưa thấp hơn mùa khô. Trong mùa mưa, nước mưa và nước lũ đổ về
nên hàm lượng các chất hừu cơ trong vùng đã được pha loãng. Cùng với sự gia tăng giá
trị COD, giá trị BOD5 tại 2 điểm khảo sát VT1 và VT8 vào mùa mưa cũng cao hơn mùa
khô.
Nhìn chung, giá trị BOD tại các điểm khảo sát trong 2 mùa đều vượt giới hạn cho
phép của quy chuẩn chất lượng nước mặt (QCVN 08: 2008/BTNMT) dùng trong sinh
hoạt (Al), trừ điểm khảo sát VT5 (BOD < 4) trong mùa mưa. Tại các vị trí VT7, VT 8 ,
VT9 (mùa khô), VT8 (mùa mưa) vẫn không đạt quy chuẩn nước loại BI và tại vị trí
VT5, VT6 (mùa khô), VT1 (mùa mưa) vẫn không đạt quy chuẩn nước loại B2 (QCVN
BOD5 mg/l

3.1.8. Hàm lượng amoni (N1Ỉ4+): Nhìn chung hàm lượng NH4 + trong vùng có sự
biến động giữa các điểm khảo sát và giữa 2 đợt thu mẫu. Do ảnh hưởng của mưa và lũ
hàm lượng NH4 + trung bình vào mùa mưa 0,69 mg/1, dao động từ 0,135 - 1,562 mg/1

23


này thì nước tại các điểm khảo sát trong các khu vực không thể dùng làm nước sinh
hoạt (Al ) theo QCVN 08: 2008/BTNMT trong cả 2 mùa.
Trong mùa khô, giá trị NH4+ tại vị trí VT1, VT2, VT3, VT4, VT6 , VT7, VT8 ,
VT9 đã vượt mức cho phép của quy chuẩn loại BI và vượt mức cho phép của quy
chuẩn loại B2 tại vị trí VT5 theo QCVN 08: 2008/BTNMT. Trong mùa mưa, giá trị
NH4+ tại vị trí VT1, VT 8 đã vượt mức cho phép của quy chuẩn loại BI và vượt mức
cho phép của quy chuẩn loại B2 tại vị trí VT5, VT 6 theo QCVN 08: 2008/BTNMT. Sự
NH4+ mg/1

3.1.9. Hàm lượng Nitơ tổng (N tổng): Nhìn chung hàm lượng N tổng tại các
điểm khảo sát trong các khu vực cao, lượng N tổng vào mùa khô cao hơn mùa mưa.
Lượng N tổng trong mùa khô dao động từ 0,7 - 28,35 mg/1 cao nhất tại vị trí VT3 và

thấp nhất tại vị trí VT1. Trong mùa mưa lượng N tổng dao động từ 0,7 - 3,15 mg/1, cao
nhất tại vị trí VT5 và thấp nhất tại các vị trí VT2, VT3, VT4 và VT7. Với giá trị này
theo cách phân loại của tác giả Sakamoto (Nhật Bản) và WQI (Viện chất lượng nước
Đan Mạch) thì nước trong vùng tại các điểm khảo sát đang ở tình trạng phú dưỡng
(Eutrophy) cả trong mùa khô lẫn mùa mưa. (theo Sakamoto: N tổng: 0,50 - 1,3 mg/1;
theo WQI: N tổng: > 0,lmg/l) (Phùng Chí Sĩ và cộng sự, 2002 - 2003).
Hiện tượng phì dưỡng tại các điểm thu mẫu trong các khu vực một phần là do tính
chất nền đáy, một phần là do sự ô nhiễm hữu cơ từ các rác thải sinh hoạt thải vào môi

24


Biểu đồ 3.9. Sự biến động N tổng tại các điểm khảo sát
N tổng mg/1



Tháng 3



Tháng 10

E3 WQI (Đan Mạch)


12

34


567

Sakamoto

89 WQI, Sakamoto
Vị trí khảo sát

3.1.10. Hàm lượng photpho tổng (P tổng): Nhìn chung lượng p tổng thấp. Vào
mùa khô lượng p tổng có sự khác biệt giữa các điểm khảo sát trong các khu vực. Tại các
vị trí khảo sát VT1, VT2, VT3, VT4 trong rạch Long Xuyên kết quả phân tích đã không
phát hiện có p tổng. Trong rạch Tầm Bót, ngoài vị trí khảo sát VT7 không phát hiện có
p tổng còn lại vị trí VT 8 (P tổng = 2 pg/1) và vị trí VT9 (P tổng = 0,25 Ịig/1). Trong
rạch Cái Sơn tại vị trí khảo sát vị trí VT5 (P tổng =10 pg/1) và cao nhất là tại vị trí VT 6
(P tổng = 46 pg/1). Trong mùa mưa lượng p tổng tại các điểm khảo sát dao động từ 1,1
- 7,9 pg/1, không có sự khác biệt lớn giữa các điểm khảo sát trong các khu vực.
Theo cách phân loại của tác giả Sakamoto (Nhật Bản) và WQI (Viện chất lượng
nước Đan Mạch) ngoài 2 điểm VT5 và VT 6 có giá trị biểu thị tình trạng phú dưỡng

25


Biểu đồ 3.10. Sự biến động p tổng tại các điểm khảo sát
p tổng gig/ 1

3.1.11. Hàm lượng chì (Pb): Nhìn chung lượng Pb tại các điểm khảo sát trong
các khu vực thấp và lượng Pb trong mùa mưa thấp hơn mùa khô. Trong mùa khô hàm
lượng Pb dao động từ 1,105 - 43,23 ịig/l, cao nhất tại vị trí VT 8 , thấp nhất tại vị trí
VT4. Trong mùa mưa ngoài vị trí VT9 không phát hiện có Pb, hàm lượng Pb tại các
điểm khảo sát dao động từ 0,64 - 8,85 pg/1 và cao nhất tại vị trí VT 8 . Vào mùa mưa do
ảnh hưởng của mưa lũ nên lượng Pb đã được pha loãng tại một số điểm khảo sát. Tại vị

trí VT8 có hàm lương Pb cao có thể là do tại khu vực này vào thời điểm thu mẫu có các
ghe thuyền đã thải vào môi trường lượng xăng dầu làm nước có váng và hàm lượng chì
trong môi trường tăng.
Trừ VT8 trong mùa khô thì giá trị Pb tại các điểm khảo sát trong vùng vào mùa
khô và mùa mưa đều nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 08: 2008/BTNMT dùng
Pb |jg/l

Vị trí khảo sát

3.1.12. Hàm lượng H2S: Ket quả phân tích nước mặt tại các điểm khảo sát trong

26


3.1.13. Chỉ số vi sinh vật Coliíorm
Ket quả khảo sát vào mùa mưa không phát hiện lượng Colitòrm, vào mùa khô
lượng Coliform dao động từ 3 - 67 cfu/ml, cao nhất tại vị trí VT7 và thấp nhất tại vị trí
VT9.
Sự hiện diện của Coliform chứng tỏ nguồn nước tại các điểm khảo sát trong các
khu vực đã bị ô nhiễm phân hữu cơ. Sự biến động Coliíbrm được thể hiện ở biểu đồ
Coliíorm cfu/ml

3.1.14. Kết luận chung
Trên cơ sở kết quả phân tích các yếu tố thủy lý, hóa và vi sinh cho thấy nước mặt
trong rạch Long Xuyên, Cái Sơn và Tầm Bót đều đã bị ô nhiễm. Mức độ ô nhiễm có xu
hướng giảm dần từ mùa khô sang mùa mưa và từ rạch Cái Sơn đến rạch Tầm Bót và
cuối cùng là rạch Long Xuyên.
So sánh với kết quả khảo sát của tác giả Lê Công Quyền, 2008. Mức độ ô nhiễm
trong rạch Tầm Bót năm 2009 nhìn chung có xu hướng giảm nhẹ. Tại vị trí VT 8 nơi tiếp
giáp với rạch xẻo Tranh, nếu trong năm 2008 giá trị COD cao nhất vào mùa khô là

190,4 mg/1 và vào mùa mưa là 57,6 mg/1 thì trong năm 2009 giá trị COD vào mùa khô
chỉ còn 56 mg/1 và vào mùa mưa là 23,14 mg/1. Tương tự giá trị N tổng tại vị trí VT 8 là
12,9 mg/1 vào mùa khô năm 2008 và 1,05 mg/1 vào mùa khô năm 2009.
Giá trị N tổng biểu thị tình trạng phú dưỡng nguồn nước đã phản ánh nước mặt
trong các khu vực khảo sát đã bị ô nhiễm hữu cơ.

27


3.2. Thực vật phiêu sinh trong vùng khảo sát
3.2.1. Cấu trúc thành phần loài
> Cấu trúc thành phần loài thực vật phiêu sinh trong rạch Long Xuyên

Ket quả phân tích các mẫu thu tại 4 điểm trong rạch Long Xuyên của 2 đợt khảo
sát năm 2008 đã phát hiện được 69 loài thuộc 5 ngành, 19 bộ, 25 họ thực vật phiêu sinh
(phụ lục thành phần và số lượng thực vật phiêu sinh tháng 3, tháng 10). Trong đó,



Tảo
Lam



Tảo
Vàng
Ánh
nu

Xét riêng từng ngành tảo cho thấy:

Ngành Chlorophyta (tảo Lục) và Bacillariophyta (tảo Silic) chiếm ưu thế với số
lượng 22 loài, chúng tập trung chủ yếu ở họ Scenedesmaceae (7 loài) thuộc Chlorophyta
và họ Naviculaceae (5 loài) thuộc Bacillariophyta. Các loài tảo thuộc ngành
Chlorophyta được xem là nguồn protein của thủy vực. Các loài tảo thuộc ngành
Chlorophyta và Bacillariophyta là những loài ưa môi trường nước tĩnh giàu dinh dưỡng
và có khả năng làm sạch môi trường. Bên cạnh đó có một số loài tảo silic ưa môi trường
nhiễm bẩn và giàu dinh dưỡng lại có mặt ở các điểm khảo sát, đôi khi còn phát triển
chiếm ưu thế như Meỉosira granulata tại điểm khảo sát VT1, VT3, VT4 (tháng 10).
Điều này thể hiện các điểm khảo sát trong rạch Long Xuyên đã bị nhiễm bẩn.
Ngành Cyanophyta (tảo Lam) có số loài đứng thứ 2 sau ngành tảo lục (13 loài),
tập trung nhiều ở tảo dạng tập đoàn như Microcystis, Merismopedia hoặc dạng chuỗi
Oscillatoria, Anabaena, Lyngbya. Chúng ưa môi trường giàu dinh dưỡng và có dòng
chảy yếu, rất dễ nở hoa nước, đặc biệt là chi Microcystis có khả năng tiết độc tố làm ảnh
hưởng đến chất lượng nước. Với sự phát triển chiếm ưu thế của loài Microcystis
aeruginosa tại điểm khảo sát VT1, VT3, VT4 và loài Oscỉlỉatoria tại điểm khảo sát
VT2 (tháng 3) cho thấy nước trong vùng đã bị nhiễm bẩn.

28


Ngành Chrysophyta (tảo Vàng Ánh) chúng ưa môi trường nước tĩnh và giàu dinh
dưỡng.
Với sự hiện diện và chiếm ưu thế của loài Microcystis aeruginosa trong mùa khô,
loài Melosira granulata trong mùa mưa cùng sự có mặt thường xuyên của các loài
thuộc ngành Euglenophyta tại các điểm thu mẫu trong rạch chứng tỏ nước trong vùng
đã bị nhiễm bẩn và phú dưỡng.
Tại các điểm khảo sát số lượng loài thực vật phiêu sinh tại các điểm trong vùng
khảo sát có sự thay đổi rõ nét qua 2 đợt khảo sát. Vào mùa khô tại các điểm thu mẫu
trong rạch Long Xuyên đã xác định được 31 loài, mùa mưa 62 loài, số loài ở 4 điểm thu
mẫu vào mùa khô dao động từ 12 - 18 loài và mùa mưa dao động từ 25 - 36 loài (phụ

Số loài
40-

35-

Vị trí khảo sát
VT4
VT1
VT2
VT3
> Cấu trúc thành phần loài thực vật phiêu sinh trong rạch Cái Sơn
Ket quả phân tích các mẫu thu tại 2 điểm trong rạch Cái Sơn của 2 đợt khảo sát
năm 2008 đã phát hiện được 52 loài thuộc 5 ngành, 18 bộ, 25 họ thực vật phiêu sinh
(phụ lục thành phần và số lượng thực vật phiêu sinh tháng 3, tháng 10). Trong đó,
ngành Cyanophyta chiếm ưu thế với số lượng 16 loài đạt 30,77% tổng số loài, tập trung
chủ yếu ở họ Oscilỉatoriaceae ( 8 loài). Ket quả cũng đã tìm thấy 13 loài tảo thuộc
Bacillariophyta (chiếm 25% tổng số loài), 12 loài tảo thuộc Chlorophyta (chiếm 23,08%
tổng số loài) 10 loài tảo thuộc Euglenophyta (chiếm 19,23% tổng số loài) và thấp nhất
thuộc Chrysophyta với 1 loài (chiếm 1,92% tổng số loài) (biểu đồ 3.15).

29


×