Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Quốc tế cộng sản với sự ra đời và hoạt động bước đầu của đảng cộng sản trung quốc trong những năm 20 của thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.41 KB, 71 trang )

TRờng đại học vinh
Khoa lịch sử

-------------------

Nguyễn THị Thanh Hải

Khóa luận tốt nghiệp đại học

Quốc tế cộng sản với sự ra đời và hoạt động
bớc đầu của đảng cộng sản Trung quốc
trong những năm 20 của thế kỷ XX
Chuyên ngành lịch sử thế giới

Giáo viên hớng dẫn: Ths. Bùi Văn Hào

Vinh - 2007
A. mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1921, Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời đánh dấu sự chuyển biến
quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng Trung Quốc. Sự ra đời cùng với
những hoạt động bớc đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thực sự chứng
tỏ rằng cách mạng Trung Quốc chuyển từ cách mạng dân chủ cũ (với đỉnh
cao là cách mạng Tân Hợi năm 1911) chuyển sang cách mạng dân chủ mới dới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản với nòng cốt là Đảng Cộng sản.

1


Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Bên cạnh sự ra đời, lớn mạnh và ngày
càng trởng thành của giai cấp vô sản; Sự truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong


trào công nhân; ảnh hởng to lớn của cuộc Cách mạng tháng Muời Nga; v.v...
không thể không kể tới sự giúp đỡ và cổ vũ to lớn của phong trào Cộng sản và
Công nhân quốc tế với trung tâm là Quốc tế Cộng sản.
Sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Trung Quốc không
chỉ dừng lại ở việc góp phần dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung
Quốc mà còn đợc thể hiện rõ trong việc hoạch định đờng lối chiến lợc, sách lợc của Đảng Cộng sản trong những năm đầu hoạt động. Sự giúp đỡ của Quốc
tế Cộng sản vừa có tính chất gián tiếp, vừa xảy ra trực tiếp. Chiến lợc và sách
lợc của Quốc tế Cộng sản đối với các dân tộc thuộc địa, trong đó có Trung
Quốc chính là cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Trung Quốc vận dụng sáng tạo
vào điều kiện lịch sử cụ thể của mình trong những năm đầu mới thành lập.
Dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, phong trào cách
mạng ngay từ buổi đầu đã có những biến đổi lớn về chất mà một trong những
vấn đề đã đợc đặt ra nay từ đầu là việc kết hợp giải quyết vấn đề giai cấp và
vấn đề dân tộc.
Đi sâu tìm hiểu về vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với các nớc thuộc
địa, cụ thể là với cách mạng Trung Quốc; tìm hiểu sự vận dụng sáng tạo của
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong bối cảnh lịch sử cụ thể nhất là trong những
năm sau khi Đảng Cộng sản mới ra đời, đó là những vấn đề thực sự có ý
nghĩa. Một mặt, giúp cho chúng ta nhận thức sâu rộng và đúng đắn về vai trò
của Quốc tế Cộng sản cũng nh lịch sử cách mạng Trung Quốc nói chung và
lịch sử Trung Quốc nói riêng trong những năm 20 của thế kỷ XX.
Mặt khác, việc tìm hiểu những vấn đề trên cũng là một trong những
biện pháp để góp phần tăng cờng tình hữu nghị giữa hai đảng và hai dân tộc
Việt - Trung.
Chính vì lý do trên, tôi chọn đề tài: "Quốc tế Cộng sản với sự ra đời
và hoạt động bớc đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong những năm
20 của thế kỷ XX" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan đến nội dung của đề tài đã có nhiều công trình nghiên cứu
của các tác giải Trung Quốc, Việt Nam, Liên Xô trớc đây cũng nh của các tác

giả phơng Tây. Vì khả năng ngoại ngữ còn hạn chế, chúng tôi cha có dịp tiếp
cận hết các công trình nghiên cứu của các tác giả ngoài nớc. Thông qua các
công trình nghiên cứu đã dợc dịch thuật, các công trình nghiên cứu của các

2


tác giả Việt Nam, cũng nh một số văn kiện của Quốc tế Cộng sản và Đảng
Cộng sản Trung Quốc chúng tôi cố gắng giải quyết những vấn đề cơ bản mà
đề tài đặt ra.
Về phía các nhà nghiên cứu Trung Quốc, đáng chú ý có các công trình
nghiên cứu của Hà Cán Chi "Lịch sử cách mạng hiện đại Trung Quốc", tập 1
[3]; Đinh Nh Hoà, Ân Tự Di, Trơng Bá Chiêu với "ảnh hởng của Cách mạng
tháng Mời đối với cách mạng Trung Quốc" [6]; Hồ Hoa với "Lịch sử cách
mạng dân chủ mới" [5]; Lê Thụ với bài viết "Bàn về sự truyền bá chủ nghĩa
xã hội ở Trung Quốc" [22]; v.v.... Từ các góc độ khác nhau, các công trình
nghiên cứu cũng nh các bài viết đã đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, nội dung các Đại hội và Hội nghị quan trọng của Đảng Cộng sản
Trung Quốc kể từ khi ra đời đến năm 1926, sự phát triển của phong trào cách
mạng Trung Quốc trong những năm đầu thập kỷ 20 của thế kỉ XX. Trong số
các công trình nghiên cứu và các bài viết nói trên đáng chú ý nhất là tác phẩm
"Lịch sử cách mạng hiện đại Trung Quốc" tập 1 [3] của tác giả Hà Cán Chi đã
trình bày một cách cụ thể sự phát triển của chủ nghĩa t bản, dẫn đến sự ra đời
của giai cấp công nhân Trung Quốc; sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
công nhân Trung Quốc dới ảnh hởng trực tiếp của Cách mạng tháng Mời Nga;
sự thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc; Quá trình hợp tác Quốc - Cộng;
ngoài ra tác giả bắt đầu tập trung phân tích những mặt tích cực cũng nh hạn
chế trong đờng lối hoạt động của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong phong
trào công nhân; cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng Cộng sản thể hiện thông
qua các nghị quyết trong các Đại hội và Hội nghị từ năm 1921 đến năm 1923.

Trong các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam đáng chú ý
là công trình nghiên cứu của Nguyễn Huy Quý "Lịch sử cận đại Trung Quốc"
[17]; Nguyễn Anh Thái (chủ biên) "Lịch sử Trung Quốc" [19]; Nguyễn Hiến
Lê "Sử Trung Quốc" [7]; v.v... Các công trình đó đã cung cấp khá nhiều t liệu
cho phép có thể nhận thức tơng đối tổng quát về đờng lối và hoạt động của
Đảng Cộng sản Trung Quốc qua các thời kỳ.
Đặc biệt, trong các công trình nói trên đáng chú ý nhất là công trình
nghiên cứu của Nguyễn Huy Quý "Lịch sử cận đại Trung Quốc" [17]. Trong
công trình nghiên cứu này, tác giả đã giành hai chơng (chơng 6 và chơng 7,
Phần II), để đề cập tới "Quá trình chuyển từ cách mạng dân chủ cũ sang cách
mạng dân chủ mới" và quá trình hợp tác Quốc - Cộng để hoàn thành nhiệm
vụ cách mạng dân tộc dân chủ. Là công trình thuộc dạng thông sử, cho nên
tác giả chủ yếu đề cập đến các sự kiện quan trọng đánh dấu tiến trình cách
mạng Trung Quốc trong giai đoạn đầu nh: Tình hình Trung Quốc sau cách

3


mạng Tân Hợi; Phong trào Ngũ Tứ và Phong trào Văn hoá mới; Sự ra đời và
hoạt động bớc đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nh diễn tiến của sự
hợp tác Quốc - Cộng.
Liên quan đến nội dung đề tài cũng có nhiều công trình nghiên cứu của
các tác giả nguời Nga (Liên Xô trớc đây) đề cập đến nh T.N.Acatôva "Vai trò
của Quốc tế Cộng sản trong việc đề ra chính sách của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong phong trào công nhân" [1]; A.Rephnhicop "V.I.Lênin bàn về
phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản ở Phơng Đông" [26];
v.v... Hầu hết các công trình đều mang tính chất chuyên sâu.
Trong số các công trình nghiên cứu nói trên của các tác giả ngời Nga,
đáng chú ý là công trình của T.N.Acatôva [1]. Trong công trình nghiên cứu
này, tác giả đã ít nhiều đề cập đến sự giúp đỡ về mặt về mặt lí luận và thực

tiễn của Đảng Cộng sản Bônsêvich đối với sự ra đời và hoạt động bớc đầu của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt tác giả đã đi sâu vào phân tích vai trò
của Quôc tế Cộng sản trong việc đề ra chính sách của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong phong trào công nhân.
Ngoài ra, vấn đề đề tài đặt ra còn đợc đề cập đến trong một số văn kiện
của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng nh một số hồi ký của các lãnh tụ Đảng
Cộng sản Trung Quốc.
Kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên vừa là thuận lợi cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài, nhng đồng thời cũng là một khó
khăn trong việc lựa chọn, tập hợp, xử lý t liệu theo nội dung khoa học mà đề
tài đòi hỏi.
Từ tình hình nghiên cứu nói trên, chúng tôi chọn đề tài: "Quốc tế
Cộng sản với sự ra đời và hoạt động bớc đầu của Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong những năm 20 của thế kỷ XX" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về nguồn t liệu khi su tầm, lựa chọn, xử lý theo nội dung
khoa học mà đề tài đòi hỏi, cùng với những hạn chế về trình độ của một sinh
viên nghành Lịch Sử và sự hạn hẹp về thời gian, cho nên trong thời gian ngắn
chúng tôi cha thể nắm bắt hết tất cả các nguồn thông tin. Vì vậy, khoá luận
chỉ đề cập đến vai trò của Quốc tế Cộng sản với sự ra đời và hoạt động bớc
đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Về mặt thời gian, đề tài chỉ tập trung tìm hiểu những vấn đề đặt ra
trong những năm 20 của thế kỷ XX.

4


Về mặt không gian, đề tài chỉ đi sâu phân tích vai trò của Quốc tế Cộng
sản đối với cách mạng Trung Quốc (mà cụ thể là đối với sự ra đời và hoạt
đông bớc đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc).

4. Phơng pháp nghiên cứu
Với đặc trng của khoa học lịch sử, để xử lý, hệ thống hoá cũng nh khái
quát hoá các vấn đề liên quan mà đề tài đặt ra, chúng tôi chủ yếu sử dụng hai
phơng pháp: Phơng pháp lịch sử và phơng pháp logic, ngoài ra trong quá trình
xử lý t liệu chúng tôi còn sử dụng kết hợp một số phơng pháp khác nh đối
chiếu so sánh, thống kê, tổng hợp, khái quát hoá, v.v... để hỗ trợ cho các phơng pháp nêu trên.
5. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khoá luận đợc cấu tạo gồm 3 chơng:
Chơng 1: Quá trình truyền bá t tởng xã hội chủ nghĩa vào Trung Quốc
và sự xác lập xu hớng mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở Trung Quốc.
Chơng 2: Quốc tế Cộng sản với sự ra đời và hoạt động bớc đầu của
Đảng Cộng sản Trung Quốc (từ năm 1921 đến năm 1923).
Chơng 3: Quốc tế Cộng sản với hoạt động của Đảng Cộng sản Trung
Quốc (từ năm 1924 đến năm 1928).

5


B. Nội dung
Chơng 1
Quá trình truyền bá t tởng xã hội chủ nghĩa vào
Trung Quốc và sự xác lập xu hớng mới trong phong
trào giải phóng dân tộc ở Trung Quốc.
1.1. Quá trình truyền bá t tởng xã hội chủ nghĩa vào Trung Quốc
(cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)
Trong khi tìm hiểu cuộc sống ở các nớc Châu Âu, Châu Mỹ, Nhật
Bản, nhiều ngời Trung Quốc có học vấn và hiểu biết cảm thấy xót xa cho tình
hình lạc hậu về kinh tế, văn hoá của nớc mình. Sự bạc nhợc của chính phủ
quân phiệt, thái độ kiêu căng của các nớc đế quốc đã xúc phạm đến lòng tự

trọng của dân tộc họ. Cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 mới chỉ lật đổ đợc
chế độ phong kiến mà không giữ đợc nền cộng hoà, đã không đáp ứng đợc
lòng mong mỏi của ngời dân Trung Quốc. Trong bối cảnh nh vậy, những ngời
yêu nớc tiến bộ của Trung Quốc thấy rằng cần phải tìm ra một con đờng khác
để chấn hng đất nớc. Năm 1917 khi nhân dân Trung Quốc đang mò mẫm tìm
kiếm con đờng đấu tranh thì Cách mạng tháng Mời Nga đã mở ra một kỷ
nguyên mới cho lịch sử nhân loại. Sự ra đời của một nhà nớc do nhân dân làm
chủ đã cho nhân dân Trung Quốc một lời giải đáp cho mọi vấn đề mà họ tìm
tòi, suy ngẫm. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mời, lần đầu tiên đã biến
những điều trong sách vở trở thành hiện thực sống động, đã thôi thúc những
ngời dân Trung Quốc tiên tiến hớng tới chủ nghĩa xã hội theo con đờng của
chủ nghĩa Mac-Lênin.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mời không chỉ cổ vũ lòng tin của nhân
dân Trung Quốc trong cuộc đấu tranh cách mạng, cũng không chỉ nêu lên tấm
gơng cho nhân dân Trung Quốc bằng hành động thực tế để giải phóng cho bản
thân mình, mà Cách mạng tháng Mời còn mở đờng cho nhân dân Trung Quốc
tiếp nhận chân lý để tự giải phóng mình đó là chủ nghĩa Mac-Lênin.
Từ cuối thế kỷ XIX, ngời Trung Quốc đã biết đến chủ nghĩa xã hội,
cũng có ngời đã giới thiệu về Mac và một số tác phẩm của ông, song cha gây
đợc sự chú ý. Cách mạng tháng Mời thành công đã có sức lôi cuốn mạnh mẽ
những ngời dân Trung Quốc đang phải gánh chịu nỗi khổ của áp bức và lạc
hậu, tầng lớp trí thức - những ngời đầu tiên đợc tiếp xúc với chủ nghĩa MacLênin, đã tìm thấy đợc một phơng pháp đấu tranh cách mạng mới, đấu tranh
dới sự chỉ đạo về lí luận chủ nghĩa Mac-Lênin. Chính vì vậy, từ sau Cách

6


mạng tháng Mời Nga (năm 1917) chủ nghĩa Mac-Lênin đợc truyền bá rộng rãi
và đợc coi là t tởng chỉ đạo cách mạng Trung Quốc.
Tiếp xúc sớm nhất với trào lu t tởng xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu là

Khang Hữu Vi, Lơng Khải Siêu thuộc phái lập hiến trong giai cấp t sản và
Tôn Trung Sơn thuộc phái cách mạng dân chủ của giai cấp này.
Khang Hữu Vi (1858-1927) là lãnh tụ của phong trào "Duy Tân Mậu
Tuất" và là một trong những nhà t tởng có ảnh hởng nhất ở Trung Quốc vào
cuối thế kỷ XIX. Năm 1844 ông đã cho ra đời tác phẩm "Đại Đồng Th" ông tự
cho đây là cuốn sách tìm hiểu bí mật của thế giới. Với "Đại Đồng Th", Khang
Hữu Vi đã phân chia sự tiến hoá của xã hội loài ngời thành ba thời đại: Thời
đại thứ nhất là "Loạn thế". Đặc điểm của thời đại này là có Đế vơng Quân trởng, có giai cấp giàu sang và nghèo hèn, một chồng nhiều vợ, có các dân tộc
khác nhau. Thời đại thứ hai là "Thăng bình" (Tiểu khang). Đặc điểm chủ yếu
của giai đoạn này là không có Đế vơng Quân trởng, chuyển sang chế độ bầu
Tổng thống, tuy còn có giai cấp giàu sang, nghèo hèn nhng quyền lợi chính trị
thì bình đẳng, một vợ một chồng, các dân tộc có xu hớng đồng hoá lẫn nhau.
Thời đại thứ ba là "Thái bình" (Đại đồng). Đặc điểm chủ yếu của giai đoạn
này là không còn nhà nớc, không có Đế vơng, không có Tổng thống, không có
tài sản t hữu, không còn giai cấp giàu sang, nghèo hèn, nam nữ bình đẳng, các
dân tộc đồng hoá lẫn nhau [22;4]. Qua những đặc điểm của các thời đại mà
Khang Hữu Vi đã nêu ra, có thể hiểu cái gọi là "Loạn thế" chính là thời đại
phong kiến, cái gọi là "Thăng bình" (Tiểu khang) chính là thời đại t bản chủ
nghĩa, còn cái gọi là "Thái bình" (Đại đồng) thì chính là thời đại cộng sản chủ
nghĩa do Khang Hữu Vi mơ tởng ra. "Đại đồng th" của Khang Hữu Vi đợc viết
sau khi tiếp xúc với t tởng của chủ nghĩa xã hội không tởng ở Châu Âu. Tuy
nhiên, lý tởng của tác giả "Đại đồng th" có khác với chủ nghĩa xã hội không tởng là ở chỗ một bên nhằm chống lại chế độ phong kiến, còn một bên nhằm
chống lại chế độ t bản chủ nghĩa [22;7]. Vì vậy, nh Mao Trạch Đông nhận xét:
"Khang Hữu Vi đã viết "Đại đồng th" nhng ông ta không thể nào tìm ra đợc
con đờng để đến Đại đồng" [22;10]. Không có con đờng để đi đến Đại đồng,
nên Khang Hữu Vi vẫn chỉ là một con ngời theo chủ nghĩa lập hiến, không thể
rơi vào mâu thuẫn mà Lơng Khải Siêu đã chỉ ra là: "Trớc sau đều nói rằng lấy
"Tiểu khang" để cứu vớt thời nay, đối với vấn đề chính trị và vấn đề đạo đức
xã hội đều lấy việc duy trì trạng thái cũ làm chí hớng của mình. Từ sau khi
phát hiện ra loại chí hớng mới, tự cho rằng là hoàn thiện, toàn mĩ, nhng không

muốn lí tởng đó đợc thực hiện, lấy hết sức ra để chống lại nó, ngăn cản nó"

7


[22;9]. Do đó, xét cho cùng lý tởng của "Đại đồng th" chẳng qua chỉ là cái
mà C.Mac và F.Ăngghen đã nói, là "D âm của quá khứ" và "Sự sợ hãi đối với
tơng lai". ở thời kỳ sau đó, Khang Hữu Vi đã thể hiện sự lo sợ của ông ta đối
với xã hội tơng lai. Nếu nh nói vào năm 1884, Khang Hữu Vi còn có thể đa ra
đợc ảo tởng về xã hội "Đại đồng" do ông chịu ảnh hởng của t tởng xã hội chủ
nghĩa ở Châu Âu, thì sang giai đoạn sau đó ông ta đã bắt đầu thụt lùi. Vì vậy,
đến năm 1919 vào đúng lúc phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới phát triển
mạnh mẽ dới ảnh hởng của Cách mạng tháng Mời Nga vĩ đại, thì Khang Hữu
Vi thậm chí lại hạ thấp lý tởng của mình: "Giáp thân thời Quang Tự viết Đại
đồng th để cho 100 năm sau, không ngờ mới đợc 35 năm mà liên minh quốc tế
đã hình thành, đích thân thấy đợc việc Đại đồng th đã đợc thực hiện" [22;7].
Ngời học trò xuất sắc và là ngời ủng hộ Khang Hữu Vi tích cực, đồng
thời là một trong những nhà lí luận và tuyên truyền chủ yếu của "Phong trào
Duy Tân", Lơng Khải Siêu (1873-1929) là ngời có t tởng chống chủ nghĩa xã
hội sớm ở Trung Quốc. Năm 1903 ông công bố bài "Chủ nghĩa xã hội ở
Trung Quốc", trong đó nói rằng học thuyết C.Mac ở Trung Quốc từ cổ xa đã
có rồi. Đến năm 1906 khi tiến hành tranh luận với tờ "Dân báo" cơ quan ngôn
luận của Đồng minh hội về vấn đề cách mạng Trung Quốc, thì t tởng chống
chủ nghĩa xã hội của ông hoàn toàn lộ rõ. Tuy thừa nhận chủ nghĩa xã hội là
chủ nghĩa cao thợng, mĩ miều nhất thế giới tơng lai nhng Lơng Khải Siêu
không thừa nhận chủ nghĩa xã hội sẽ trở thành hiện thực. Theo ý kiến của Lơng Khải Siêu thì "Cuộc cách mạng xã hội trọn vẹn, với trình độ hiện nay của
các nớc Âu - Mĩ, một trăm năm sau cũng không thể thực hiện" [22;8]. Từ đó
ông kiên quyết phản đối Đồng minh hội dùng "Quốc hữu ruộng đất", "Bình
quân địa quyền" để kêu gọi quần chúng làm cách mạng. Ông cho rằng, làm
nh vậy sẽ thức tỉnh đông đảo quần chúng lớp dới của xã hội, giai cấp t sản

không thể nào xác lập đợc sự thống trị của mình.
Cái gọi là "Chủ nghĩa xã hội" mà Tôn Trung Sơn và thiểu số chính luận
gia của tờ "Dân báo" đa ra bị Lơng Khải Siêu chống lại, thực chất cũng không
phải là chủ nghĩa Mac. Tôn Trung Sơn, Khang Hữu Vi và Lơng Khải Siêu
giống nhau ở chỗ, đều cho rằng ở Trung Quốc từ thời cổ đại đã có t tởng xã
hội chủ nghĩa. Chỗ khác nhau giữa họ là ở chỗ Lơng Khải Siêu xem chủ nghĩa
xã hội là lý tởng không thể thực hiện đợc, còn Tôn Trung Sơn thì cho rằng chủ
nghĩa xã hội không những có thể thực hiện mà còn coi nó là sự nghiệp của
giai cấp t sản. Trong số đầu của tờ "Dân báo", Tôn Trung Sơn viết: "Nhiều chí
sĩ thời gian gần đây đã bàn luận đa ra nhiều học thuyết, đều mong muốn

8


Trung Quốc trở nên hùng mạnh nh các nớc Âu - Mỹ. Nhng các nớc Âu - Mỹ
hùng mạnh mà dân chúng quả thật lại khốn khổ. Nớc ta là nớc thực hiện chủ
nghĩa dân sinh sớm nhất" [22;9]. Theo cách giải thích của Tôn Trung Sơn đa
ra trong bài diễn văn đọc tại buổi chiêu đãi chia tay với các hội viên của Đồng
minh hội (tổ chức năm 1912) thì cơng lĩnh cách mạng xã hội chủ nghĩa chính
là việc thực hiện chính sách thu thuế ruộng đất, quốc hữu hoá đối với các xí
nghiệp lớn về đờng sắt, điện, hầm mỏ. Cơng lĩnh đó đúng nh V.I.Lênin đã nói,
là cơng lĩnh cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chu Chấp Tín - một chính luận gia nổi tiếng thuộc phái Tôn Trung Sơn,
trong bài "Tiểu sử của các nhà cách mạng xã hội ở Đức" (Đăng trên số 2 của
tờ "Dân báo") đã giới thiệu những điểm cơ bản về tiểu sử của C.Mac, F.
Ăngghen, Latxan và tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản". Mặc dù Chu
Chấp Tín dùng quan điểm của giai cấp t sản để phê bình học thuyết Mac, nhng
ông cũng phải thừa nhận rằng: "Mac xem t bản là do tớc đoạt mà có và những
điều bàn về t sản hiện tại quả thật không có chỗ nào là không chính đáng"
[22;11].

"Dân báo" là tờ báo ủng hộ tích cực cuộc cách mạng 1905-1907. Nhng
những bài viết đề cập đến chủ nghĩa xã hội mà tờ báo này đăng thì những luận
điểm của nó cha vợt qua quan điểm của Tôn Trung Sơn cũng nh Chu Chấp
Tín. Nội dung các bài viết chủ yếu căn cứ vào lập trờng quan điểm của giai
cấp t sản để giải thích và sửa đổi một cách tuỳ tiện nguyên tắc của chủ nghĩa
xã hội.
Cho nên có thể hiểu nguyên nhân căn bản khiến cho trớc Cách mạng
tháng Mời chủ nghĩa Mac-Lênin không thể truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc là
do "Xã hội Trung Quốc còn thiếu những điều kiện cần thiết và t tởng của chủ
nghĩa Mac bị hiểu sai, bị bóp méo bởi cái vòng nhỏ hẹp của các phần tử tri
thức t sản và tiểu t sản" [22;17]. Tuy nhiên việc chủ nghĩa Mac-Lênin không
thể truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc trớc Cách mạng tháng Mời thì một phần
trách nhiệm cũng thuộc về những nhà lãnh đạo Quốc tế thứ II. Bởi vì nếu lúc
bấy giờ khi lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế, Quốc tế thứ II chú ý đến vấn
đề dân tộc, thuộc địa thì chủ nghĩa xã hội vẫn có thể đợc truyền bá rộng hơn ở
Trung Quốc. Nhng thực tế Quốc tế thứ II đã không làm nh thế, mà Quốc tế thứ
II coi vấn đề dân tộc, thuộc địa chỉ là vấn đề dân tộc "Văn minh" ở Châu Âu,
còn vấn đề dân tộc thuộc địa nằm hoàn toàn ngoài con mắt của họ. Ngợc lại, t
tởng "Đấu tranh hợp pháp" của Quốc tế thứ II đã đem lại tai hại rất lớn cho
một bộ phận tri thức tiên tiến của Trung Quốc đang ra sức tìm kiếm chân lý

9


cứu nớc thời bấy giờ, làm cho họ bị mất phơng hớng trên con đờng tiếp cận
với chủ nghĩa Mac.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời Nga thể
hiện sức mạnh vĩ đại của chủ nghĩa Mac-Lênin. Cách mạng tháng Mời đã mở
rộng phạm vi vấn đề dân tộc, thuộc địa, kết hợp cách mạng xã hội chủ nghĩa
của giai cấp vô sản với phong trào giải phóng dân tộc của các nớc thuộc địa và

phụ thuộc làm cho phong trào giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của
cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới, từ đó mở ra con đờng hiện thực cho chủ
nghĩa Mac-Lênin đợc truyền bá sâu rộng vào các nớc thuộc địa lạc hậu.
Những phần tử tri thức tiên tiến của Trung Quốc đồng thời với việc hân
hoan chào đón Cách mạng tháng Mời đã nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mac:
"Tiếng súng của Cách mạng tháng Mời đã đem lại cho chúng ta chủ nghĩa
Mac-Lênin, đã phá vỡ giấc ngủ im lìm kéo dài hàng trăm năm của nhân dân
Trung Quốc. Sau Cách mạng tháng Mời, nhân dân Trung Quốc thực sự tiếp
thu đợc chủ nghĩa Mac" [22;26].
Thật vậy, từ năm 1918 đến năm 1919 trên các tạp chí do các phần tử tri
thức tiến bộ lãnh đạo phong trào Văn hoá mới xuất bản và một số tạp chí khác
có liên hệ với họ đã liên tục công bố nhiều bài viết giới thiệu về chủ nghĩa
Mac. Tháng 5 năm 1919, tạp chí "Tân thanh niên" cũng có chuyên mục
nghiên cứu chủ nghĩa Mac. Thông qua phong trào Ngũ Tứ, ảnh hởng của Cách
mạng tháng Mời đối với Trung Quốc đợc mở rộng và đi sâu hơn. Phong trào
Văn hoá mới cũng có sự biến đổi về chất, bớc sang giai đoạn mới. Nếu trớc
Cách mạng tháng Mời, Phong trào Văn hoá mới tuyên truyền chủ nghĩa dân
chủ t sản, thì từ đây nó đã phát triển thành phong trào t tởng tuyên truyền chủ
nghĩa Mac. Bản thân phong trào Ngũ Tứ không có tính chất xã hội chủ nghĩa,
nhng sở dĩ nó trở thành điểm mở đầu của phong trào t tởng tuyên truyền chủ
nghĩa Mac là do hai nhân tố quan trọng tạo ra. Thứ nhất, phong trào Ngũ Tứ
triệt để vạch trần bản chất xâm lợc của chủ nghĩa đế quốc, xoá tan mọi ảo tởng đối với chủ nghĩa đế quốc, kiên quyết đi theo con đờng chống chủ nghĩa
đế quốc. Cù Thu Bạch, một chiến sĩ tích cực của phong trào Ngũ Tứ đã viết:
"ý nghĩa của phong trào yêu nớc lúc đó, quyết không thể giải thích theo chủ
nghĩa. Dân tộc Trung Quốc mấy chục năm bị bóc lột cho đến nay mới cảm thụ
đợc mùi vị của thực dân hoá. Nỗi khổ đến tận xơng tuỷ do chủ nghĩa đế quốc
áp bức thức tỉnh nổi mơ mộng về chủ nghĩa dân chủ chung chung rỗng tuếch
Vấn đề hiện đại của các nớc công nghiệp tiên tiến là chủ nghĩa t bản, ở thuộc
địa là chủ nghĩa đế quốc, vì thế cho nên phong trào học sinh đã chuyển hớng


10


sang chủ nghĩa xã hội" [6;40]. Thứ hai, dới ảnh hởng của Cách mạng tháng
Mời, sự giác ngộ của giai cấp công nhân Trung Quốc đợc nâng cao nhanh
chóng. Trong phong trào Ngũ Tứ công nhân đã bớc lên vũ đài cách mạng với
cuộc bãi công chính trị đầu tiên, thể hiện rõ sức mạnh vĩ đại của giai cấp công
nhân, do đó đã tạo ra cơ sở xã hội cho chủ nghĩa Mác-Lênin truyền bá vào
Trung Quốc, thúc đẩy những phần tử trí thức tiên tiến kết hợp chủ nghĩa Mác
với phong trào công nhân.
Chính vì vậy, sau Cách mạng tháng Mời nhất là từ sau phong trào Ngũ
Tứ, phong trào Văn hoá mới dần dần phát triển thành phong trào t tởng mang
tính chất quần chúng rộng rãi, chuyên bàn luận về nớc Nga, giới thiệu tình
hình nớc Nga, nghiên cứu, thảo luận và học tập chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu
nh trớc Cách mạng tháng Mời đảm nhiệm việc truyền bá văn hoá mới, t tởng
mới chủ yếu là "Tạp chí Tân thanh niên", thì đến giai đoạn này những phần tử
trí thức tiến bộ và đông đảo thanh niên, học sinh đã tổ chức ra nhiều đoàn thể
tiến bộ và báo chí ra đời nhiều nh "Măng mọc mùa xuân". Trong thời gian
không đầy nửa năm sau phong trào Ngũ Tứ đã xuất hiện 200 tờ báo và tạp chí
với địa bàn phân bố rộng khắp cả nớc. Những phần tử trí thức tiên tiến cũng
nh đông đảo thanh niên, học sinh Trung Quốc đều mong muốn tìm ra con đờng phù hợp để cứu nớc, cứu dân, nên hầu nh tất cả muốn nắm lấy những t tởng tiên tiến của Châu Âu nhằm phục vụ cho cách mạng Trung Quốc. Chính
vì vậy "Văn hoá mới", "Trào lu t tởng mới" xuất hiện sau phong trào Ngũ Tứ
không đơn thuần chỉ một hệ t tởng. Đại thể, phong trào Văn hoá mới có ba bộ
phận: Thứ nhất, đối với văn hoá cũ của chủ nghĩa phong kiến thì nói đến văn
hoá mới tức là nói đến chính trị, xã hội và t tởng dân chủ t sản, đó là sự phát
huy của tinh thần "Tân thanh niên". Thứ hai, đối với văn hoá t sản cũ (tức là
văn hoá trong thời kỳ chủ nghĩa t bản đang lên), thì nói đến văn hoá mới là
nói đến t tởng của giai cấp t sản trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Thứ ba, đối
với tất cả văn hoá cũ trong lịch sử nhân loại, thì nói đến văn hoá mới là t tởng
chủ nghĩa Mac-Lênin, t tởng của chủ nghĩa xã hội. Riêng bản thân chủ nghĩa

xã hội đợc đề cập đến thời bấy giờ cũng bao gồm nhiều trào lu khác nhau.
Năm 1920 Cù Thu Bạch viết: "Thảo luận về chủ nghĩa xã hội thờng thờng đa
đến cho chúng ta sự hứng thú vô hạn. Nhng cuối cùng cũng giống nh t tởng
của thanh niên trong những năm 40 của thế kỷ XIX, ảnh hởng mơ hồ nh nhìn
sơng qua màn che cửa sổ, ý nghĩa của các loại chủ nghĩa xã hội phân tán loạn
xạ, rất không rõ ràng. Giống nh nớc bị đập ngăn lại lâu ngày khi đợc tháo, tất
cả đều đợc chảy ra nhng chúng bắn tung toé, không xác định đợc phơng hớng"
[6;51].
11


Qua đó ta có thể thấy rằng, chủ nghĩa Mac-Lênin trong trào lu t tởng
"Trăm nhà đua tiếng" thời bấy giờ, trong buổi đầu cũng chỉ đợc coi nh là một
trong số các dòng phái t tởng. Hơn nữa, cha phải là dòng phái chiếm u thế.
Nhng chủ nghĩa Mac là lý luận cách mạng duy nhất khoa học, đúng đắn cho
nên đã đợc những ngời thực sự muốn tìm kiếm chân lý cách mạng tiếp thu và
đã đợc truyền bá nhanh chóng. Đồng thời, do ảnh hởng của Cách mạng tháng
Mời ngày càng sâu rộng trong quần chúng nhân dân, nên dần dần thu hút đợc
nhiều ngời quan tâm đến nớc Nga, đòi hỏi hiểu biết nhiều hơn về quốc gia
này. Mà giới thiệu tình hình nớc Nga, học tập kinh nghiệm của cách mạng
Nga, nghiên cứu chính sách của nớc Nga thì tất yếu phải gắn với chủ nghĩa
Mac-Lênin. Do đó, hiện tợng "Trăm nhà đua tiếng" chẳng bao lâu đã có sự
thay đổi. Trong các trào lu t tởng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mac-Lênin đã
nhanh chóng trở thành trào lu t tởng mạnh mẽ nhất. Nhất là thông qua ba cuộc
luận chiến gay gắt giữa những ngời theo chủ nghĩa Mac-Lênin với các trào lu
cải lơng t sản, chủ nghĩa xã hội giả tạo, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa
Mac đợc truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc và đã chiến thắng hệ t tởng t sản,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Có thể nói rằng, Lý Đại Chiêu là ngời có công lớn nhất trong việc
truyền bá chủ nghiã Mác-Lênin vào Trung Quốc, từ năm 1919 trên tạp chí

"Tân Thanh niên" ông đã bố trí "Chuyên mục nghiên cứu chủ nghĩa Mac".
Tháng 5 năm 1919 ông công bố bài "Quan điểm Macxít của tôi". Lần đầu tiên
ở Trung Quốc nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac đợc giới thiệu một cách có
hệ thống. Ông đã giới thiệu ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mac là: Chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong đó, ông đã đề cập kỹ lý luận đấu tranh giai cấp của học thuyết Mac.
Tiếp đó, ông công bố một loạt bài viết quan trọng khác để giới thiệu chủ nghĩa
Mac và sơ bộ vận dụng chủ nghĩa Mac để giải thích một số vấn đề trong cách
mạng Trung Quốc, cũng nh lịch sử t tởng Trung Quốc. Tháng 3-1920 Lý Đại
Chiêu thành lập "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mac" để tuyên tuyền, phổ biến
rộng rãi học thuyết Mac. Lý Đại Chiêu vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
duy vật lịch sử để lý giải lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội, loài ngời và
vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử. Ông chỉ ra rằng xã hội không
ngừng phát triển theo hớng tiến bộ, còn động lực phát triển của lịch sử thì "Chỉ
có thể đi tìm nó trong chính bản thân nhân dân, chứ quyết không thể là thế lực
gì đó ngoài họ" [22;54]. Do đó, "Phơng pháp sản xuất sinh hoạt" của toàn thể
nhân dân là mấu chốt của sự phát triển xã hội, "Kinh tế" là "Nhân tố cuối
cùng" của mọi sự thay đổi xã hội. Cũng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử,
12


Lý Đại Chiêu giải thích khoa học, phân tích đúng đắn t tởng văn hoá phong
kiến truyền thống của Trung Quốc, chỉ ra rằng t tởng phong kiến Trung Quốc
là sự phản ánh cơ sở kinh tế của xã hội, nó phục vụ cho giai cấp phong kiến.
Từ đó, ông chủ trơng phải xây dựng hệ t tởng mới để cải tạo xã hội. Nhng
muốn cải tạo xã hội thì trớc hết phải tiến hành đấu tranh giai cấp để lật đổ sự
thống trị của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.
Kết quả của quá trình truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin ở trung Quốc
trong thời kỳ đầu đã làm chuyển biến cách nhìn của đông đảo tri thức thanh
niên đối với sự nghiệp cách mạng. Từ sau phong trào Ngũ Tứ, một đội ngũ tri

thức có t tởng tiến bộ và tinh thần yêu nớc đã chuyển sang khuynh hớng xã
hội chủ nghĩa. Trần Độc Tú - một trong những ngời tham gia truyền bá chủ
nghĩa Mac-Lênin vào Trung Quốc cho rằng: Trung Quốc không nên đi theo
"Con đờng sai lầm của Âu - Mỹ" nữa, chỉ thông qua "Đấu tranh giai cấp" và
"Chuyên chính của giai cấp lao động" mới có thể thực hiện đợc một xã hội lý
tởng [6;27]. Năm 1920 ông thành lập "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mac" tại Thợng Hải để tuyên truyền t tởng cách mạng mới, giác ngộ ý thức cho đông đảo
quần chúng nhân dân lao động. Dới ảnh hởng của chủ nghĩa Mac, đội ngũ tri
thức tiến bộ có sự thay đổi nhận thức về quan hệ giữa cải tạo chế độ và cải tạo
t tởng, giữa biến động về kinh tế với biến động về chính trị.
Trong số những ngời Macxit ở giai đoạn đầu, Mao Trạch Đông là ngời
sớm vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac vào thực tiễn cách mạng Trung Quốc.
Vừa tham gia và lãnh đạo các hoạt động cách mạng, hoạt động xã hội, vừa chú
ý nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, tiến hành điều tra các vấn đề xã hội của
Trung Quốc, cho nên khi đợc tiếp xúc với chủ nghĩa Mac, Mao Trạch Đông đã
nhanh chóng vận dụng nó vào thực tiễn Trung Quốc để chỉ đạo phong trào
cách mạng. Mao Trạch Đông vừa khai trơng "Văn hoá th xã" để bán sách báo
tuyên truyền chủ nghĩa Mac, vừa viết nhiều bài đăng trên các báo, tạp chí tiến
bộ. Bài "Đại liên hiệp của dân chúng" công bố tháng 7 năm 1919 đã thể hiện
bớc tiến lớn về nhận thức t tởng của ông. Ông cho rằng, thắng lợi của Cách
mạng tháng Mời là kết quả của sự "Đại liên hợp" của quần chúng công nông.
Cách mạng Đức - áo - Hung cũng là kết quả của sự "Đại liên hợp". Do đó,
ông kêu gọi Trung Quốc liên hợp lại để đấu tranh với giai cấp thống trị. Hơn
nữa, ông còn chỉ rõ: "Đại liên hợp" của dân chúng phải đợc xây dựng, tổ chức
trên cơ sở lấy công nhân, nông dân làm chủ thể và đội ngũ tri thức cách mạng
cần phải thâm nhập vào quần chúng, cùng quần chúng nhân dân kết hợp thành
một thể thống nhất sau đó phát động, tổ chức đông đảo quần chúng có nh thế

13



cách mạng mới giành thắng lợi. Theo tinh thần đó, một bộ phận tri thức có t tởng Macxit đã đi vào hoạt động trong phong trào công nhân để hiểu rõ tâm t,
nguyện vọng của giai cấp công nhân, một mặt để giác ngộ ý thức giai cấp cho
giai cấp công nhân, mặt khác để có thể có điều kiện cải tạo chính mình. ở Hồ
Nam Mao Trạch Đông đã đi vào làm việc với công nhân, tuyên truyền và giáo
dục công nhân. ở Thợng Hải với sự giúp đỡ của các tri thức có t tởng Macxit,
nhiều đoàn thể công nhân đã đợc thành lập. ở miền Bắc Lu Thiếu Kỳ, Đặng
Trung Hạ đã giúp đỡ công nhân tổ chức trờng bổ túc giúp họ trong công tác
của "Đoàn ngời công nhân". Thông qua các hoạt động này, chủ nghĩa Mac
ngày càng đợc truyền bá sâu rộng vào phong trào công nhân Trung Quốc.
Cùng với sự tác động mạnh mẽ của mình, Cách mạng tháng Mời đã
truyền bá t tởng của Lênin, đã phá vỡ giấc ngủ im lìm kéo dài hàng trăm năm
của nhân dân Trung Quốc. Để rồi từ sau Cách mạng tháng Mời, nhân dân
Trung Quốc tiếp thu đợc chủ nghĩa Mac-Lênin. Đặc biệt phong trào Ngũ Tứ
với tính chất là một phong trào đấu tranh chính trị đã thể hiện tinh thần đấu
tranh chống đế quốc, chống phong kiến triệt để của đông đảo nhân dân Trung
Quốc, đã tạo điều kiện để truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin, chuẩn bị về t tởng
và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau phong trào Ngũ
Tứ, đặc điểm nổi bật nhất của cuộc vận động văn hoá mới chính là việc
nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa xã hội, dần dần trở thành t tởng chỉ đạo và
ngày càng mở rộng. Một tuần lễ sau cuộc vận động Ngũ Tứ, tờ "Thanh niên
mới" đã ra số đặc biệt bàn về chủ nghĩa Mac-Lênin, tập trung đăng 8 bài giới
thiệu những điểm chính trong "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản"; "Phê phán kinh
tế chính trị học" cũng nh tiểu sử của C.Mac. Những năm phong trào Ngũ Tứ
nổi lên, những tạp chí tiến bộ nh "Bình luận hàng tuần" ở Bắc Kinh, "Tơng
Giang bình luận " ở Trờng Sa, v.v... đều nghiên cứu và tuyên truyền chủ nghĩa
Mac-Lênin.
1.2. Sự xác lập xu hớng mới trong phong trào cách giải phóng dân
tộc ở Trung Quốc đầu thế kỷ XX.
Từ cuối thế kỷ XIX, mặc dù ở Trung Quốc đã có nhiều ngời biết đến
chủ nghĩa xã hội, đã giới thiệu về Mác và một số tác phẩm của ông là chủ

nghĩa cao thợng, mĩ miều nhất của thế giới tơng lai. Thế nhng chính những
nhà trí thức tiên tiến - những ngời đầu tiên ở Trung Quốc tiếp xúc với t tởng xã
hội chủ nghĩa lại cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là một sự ảo tởng, nó sẽ không
thể trở thành hiện thực. Đó cũng chính là một trong những lí do giải thích vì
sao trớc Cách mạng tháng Mời Nga chủ nghĩa Mac không thể truyền bá sâu

14


rộng ở Trung Quốc. Nhng đến đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau Cách mạng tháng
Mời Nga (năm 1917) đã chứng minh cho nhân loại nói chung và toàn thể nhân
dân Trung Quốc thấy một chủ nghĩa xã hội hiện thực hữu hình và tiến bộ. Nó
đã đánh thức nhân dân Trung Quốc thoát khỏi giấc ngủ mê muội hàng ngàn
năm dới chế độ phong kiến với hệ t tởng Nho giáo vô cùng hà khắc, thôi thúc
ngời dân Trung Quốc tiến bộ tiên theo chủ nghĩa xã hội, theo con đờng của
chủ nghĩa Mac-Lênin. Đặc biệt từ sau phong trào Ngũ Tứ chủ nghĩa MacLênin đợc truyền bá mạnh mẽ vào Trung Quốc, trở thành một xu hớng mới,
một dòng thác cách mạng chủ đạo ở Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XX.
Cùng với sự thâm nhập ngày càng sâu rộng của chủ nghĩa Mac và sự
phát triển của cách mạng Trung Quốc, những ngời Macxit đã nhận thức đợc sự
cần thiết phải có một chính đảng của giai cấp vô sản. Vào tháng 9 năm 1920
trong th từ gửi cho nhau giữa Mao Trạch Đông (ở Trung Quốc) với Thái Hoà
Sâm (ở Pháp) đã đề cập đến vấn đề xây dựng đảng. Cả hai ngời đều chủ trơng
xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc theo kiểu Đảng Bônsêvích. Cùng lúc
đó, Quốc tế Cộng sản cử G.Vôitinxki (tên Trung Quốc là Ngô Đình Khang)
đến Trung Quốc để giúp đỡ những phần tử tri thức tiên tiến có t tởng Macxit
tiến hành tổ chức Đảng. Đến Trung Quốc những ngời đầu tiên mà G.Vôitinxki
gặp gỡ, tiếp xúc là Lý Đại Chiêu và Trần Độc Tú. Nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế
Cộng sản, từ tháng 5-1920 nhiều Tiểu tổ Cộng sản đợc thành lập ở các thành
phố: Lý Đại Chiêu tổ chức Tiểu tổ Cộng sản ở Bắc Kinh; Trần Độc Tú ở Thợng Hải; Mao Trạch Đông và Hà Thúc Hoành ở Hồ Nam; Đổng Tất Vũ và
Trần Hàm Thu ở Hồ Bắc; và các Tiểu tổ Cộng sản dần dần xuất hiện ở Tế

Nam, Thiên Tân, Hàn Châu, Quảng Châu, v.v Sự ra đời của các Tiểu tổ
Cộng sản đã góp phần thúc đẩy sự truyền bá chủ nghĩa Mac vào Trung Quốc
mạnh mẽ hơn trớc. Nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mac-Lênin đã đợc dịch và xuất bản bằng tiếng Trung Quốc nh "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản",
bộ "T bản", "Nhà nớc và cách mạng", v.v Ngoài ra các sách giới thiệu lí luận
xã hội chủ nghĩa nh "Đấu tranh giai cấp", "Lịch sử xã hội chủ nghĩa", v.v
cũng đợc phát hành rộng rãi. Ngày 1-5-1920 tạp chí "Tân thanh niên" ra số
đặc biệt kỷ niệm ngày quốc tế lao động, đăng các bài nói về phong trào công
nhân các nớc trên thế giới, vấn đề nữ công nhân ở Trung Quốc và các bài điều
tra về tình hình công nhân các khu vực trong nớc. Tháng 11-1920 Tiểu tổ
Cộng sản Thợng Hải đã xuất bản nguyệt san "Đảng Cộng sản", đăng những
bài viết về chủ nghĩa Mac-Lênin, về Quốc tế Cộng sản, về cách mạng Nga,
Đảng Cộng sản Nga và Đảng Cộng sản của các nớc trên thế giới.

15


Đầu thế kỷ XX, xã hội Trung Quốc tồn tại rất nhiều các trào lu t tởng
chính trị khác nhau, đặc biệt là trào lu t tởng vô chính phủ từ phơng Tây xâm
nhập vào và đợc nấp dới chiêu bài "Cách mạng triệt để nhất", phản đối mọi
hình thức nhà nớc, kể cả nhà nớc chuyên chính vô sản. Vì vậy, chủ nghĩa Mac
vào Trung Quốc phải chịu sự "cọ xát" gay gắt với các trào lu t tởng chính trị
khác nhau. Chính sự "cọ xát" mạnh mẽ ấy, đã góp phần làm cho chủ nghĩa
Mác đợc truyền bá rộng rãi hơn, sâu sắc hơn vào phong trào công nhân Trung
Quốc.
Việc truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin vào Trung Quốc đã dẫn đến các
cuộc tranh luận về chủ nghĩa xã hội. Các cuộc tranh luận xoay quanh các vấn
đề quan trọng nh: Trung Quốc có nên đi theo con đờng chủ nghĩa xã hội hay
không; chủ nghĩa Mac-Lênin có phù hợp với điều kiện của Trung Quốc hay
không; chế độ chủ nghĩa xã hội có khả năng đa Trung Quốc vào hàng các nớc
tiên tiến trên thế giới hay không; nếu có thì hình thức nào của chủ nghĩa xã

hội là phù hợp nhất với tình hình của Trung Quốc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Trung Quốc bằng phơng pháp nào v.v Một số ngời cho rằng, việc
truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin vào Trung Quốc là quá sớm và không cần
thiết. Thời kì này, diễn ra ba cuộc luận chiến gay gắt giữa những ngời theo chủ
nghĩa Mac-Lênin với các trào lu cải lơng t sản, chủ nghĩa xã hội giả tạo và chủ
nghĩa vô chính phủ.
Thứ nhất là cuộc luận chiến về "Vấn đề và chủ nghĩa" ngời có t tởng
chống lại việc truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin kiên quyết nhất là Hồ Thích đại
diện cho cánh hữu t sản. Tháng 7-1919 trên tạp chí "Bình luận hàng tuần", Hồ
Thích đã viết bài "Hãy nghiên cứu nhiều về vấn đề và ít bàn đến chủ nghĩa"
cho rằng: "Tất cả các loại chủ nghĩa đều là những phơng pháp cứu cánh cần
cho một lúc, một nơi nào đó". Từ đó ông chống lại đấu tranh giai cấp, phủ
nhận khả năng vận dụng chủ nghĩa Mac vào Trung Quốc. Ông chủ trơng chỉ
nên hợp tác giai cấp, "Cải lơng nhỏ giọt" không nên cách mạng, không nên để
C.Mac và V.I.Lênin "xỏ mũi dắt đi". Ngay sau đó, tháng 8-1919 cũng trên tạp
chí "Bình luận hàng tuần" Lý Đại Chiêu đã có bài trả lời "Lại bàn về vấn đề và
chủ nghĩa", ông đã bác bỏ quan điểm trên của Hồ Thích, nghiêm khắc phê
phán những luận điệu xuyên tạc và phản động của Hồ Thích. Ông cho rằng:
"Việc nghiên cứu "vấn đề" phải có sự chỉ đạo của "chủ nghĩa". Chủ nghĩa là
quan điểm, lý luận và là phơng pháp giải quyết vấn đề. Không hiểu lí luận thì
không thể hiểu quy luật phát triển của sự vật. Đối với Trung Quốc trớc hết cần
phải có cách giải quyết căn bản" [6;35]. Chủ nghĩa nghiên cứu cách giải quyết

16


vấn đề căn bản của Trung Quốc là chủ nghĩa Mac-Lênin. Trong đó ông cũng
chỉ rõ: "Sự truyền bá chủ nghĩa Mac là một biến động lớn của văn hoá thế
giới, muốn nghiên cứu vấn đề thì không thể tách rời chủ nghĩa với phơng
pháp, vấn đề xã hội phải giải quyết từ căn bản, cải lơng không thể giải quyết

đợc vấn đề". "Phải có một sự giải quyết từ căn bản thì mới có hy vọng giải
quyết từng vấn đề cụ thể. Biện pháp giải quyết vấn đề đó là lấy chủ nghĩa
Mac-Lênin chỉ đạo cách mạng Trung Quốc, là dùng phơng pháp cải biến cơ sở
kinh tế của xã hội, thông qua đấu tranh giai cấp lật đổ chế độ cũ" [23;67].
Cuộc luận chiến về "Vấn đề và chủ nghĩa" là cuộc luận chiến đầu tiên
về ý thức hệ t tởng giữa những ngời Macxit và bài Macxit ở Trung Quốc. Cuộc
tranh luận này đánh dấu sự phân hoá thành hai trận chiến đối lập nhau trong
mặt trận thống nhất của "Phong trào Văn hoá mới" đợc khởi xớng từ năm
1915 - trận tuyến của những ngời trí thức tiểu t sản cách mạng vợt qua giới
hạn dân chủ t sản, tiến lên tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin và trận
tuyến của những tri thức t sản chuyển sang chống lại chủ nghĩa Mac-Lênin và
truyền bá chủ nghĩa cải lơng, chủ nghĩa thực dụng t sản. ở trận tuyến thứ nhất,
Lý Đại Chiêu là ngời đại diện tiêu biểu và xuất sắc nhất, còn ở trận tuyến thứ
hai Hồ Thích là ngời cầm đầu.
Thứ hai là cuộc luận chiến về chủ nghĩa xã hội. Một số chính khách nh
Trơng Đông Tôn, Lơng Khải Siêu, v.v tự xng là những ngời theo chủ nghĩa
xã hội, nhng lại cho rằng ở Trung Quốc không có điều kiện kinh tế và giai cấp
để thành lập chính đảng của giai cấp công nhân để tiến hành cách mạng mà
chỉ có thể hoạt động một cách hợp pháp, hoà bình chuyển sang chủ nghĩa xã
hội. Thực chất đó là chủ nghĩa xã hội giả tạo, một trong số các loại hình chủ
nghĩa cải lơng hiện đại. Các học giả có t tởng cách mạng nh Trần Độc Tú, Lý
Đạt, Thái Hoà Sâm, v.v đã phê phán quan điểm trên cho rằng: "Mặc dù
Trung Quốc cha có nền công nghiệp phát triển, nhng đích thực đã có một giai
cấp công nhân đang lớn dần. Trung Quốc cần xây dựng một chính đảng của
giai cấp vô sản, và sự bùng nổ của cách mạng là tất yếu" [22;265].
Thứ ba là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa vô chính phủ. Từ sau phong
trào Ngũ Tứ, chủ nghĩa vô chính phủ - một trào lu t tởng chính trị tiểu t sản
trong phong trào xã hội chủ nghĩa đã du nhập tơng đối phổ biến vào Trung
Quốc. Từ năm 1920 cuộc đấu tranh của những ngời Macxít Trung Quốc chống
chủ nghĩa vô chính phủ diễn ra mạnh mẽ. Những ngời theo chủ nghĩa vô chính

phủ nh Hoàng Lăng Sơng, Khu Thanh Bạch, v.v chủ trơng "Cá nhân tự do
tuyệt đối", phản đối mọi hình thức nhà nớc, cho rằng nhà nớc vô sản cũng nh

17


nhà nớc t sản đều là "Nguồn gốc của mọi tội ác". Những ngời Macxít nh Trần
Độc Tú, Lý Đạt, v.v... đã kịch liệt phê phán quan điểm trên. Họ cho rằng "Tự
do chỉ là tơng đối", chống "Cờng quyền t sản" là đúng, là cần thiết, nhng
chống "Cờng quyền vô sản" là sai lầm [6;43].
Nh vậy, dù muốn hay không thì những cuộc luận chiến này cũng đã làm
cho những tri thức trẻ càng chú ý nghiên cứu về chủ nghĩa Mac-Lênin hơn. Nó
giúp họ tìm ra đợc những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình
trạng lạc hậu của đất nớc và lực lợng nào đang cản trở Trung Quốc phát triển.
Có thể nói, nhờ những cuộc luận chiến này mà chủ nghĩa Mac-Lênin đã vững
chắc đi vào đời sống chính trị t tởng của xã hội Trung Quốc.
Trong khi cuộc tranh luận giữa việc đi theo chủ nghĩa xã hội hay chủ
nghĩa cải lơng đang vẫn diễn ra thì chính quyền Nga Xô Viết ra tuyên bố "Từ
bỏ mọi đặc quyền của Nga sa hoàng có ở Trung Quốc". Tuyên bố này đã tạo
ra động lực thúc đẩy nhiều tri thức tiên tiến đi theo con đờng chủ nghĩa MacLênin, làm cho sự truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin vào Trung Quốc trở nên sâu
rộng hơn. Một số ngời sau này trở thành lãnh tụ của Đảng Cộng sản Trung
Quốc nh Trần Độc Tú, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đổng Tất Vũ, Ngô
Ngọc Chơng trong thời gian này cũng đã bắt đầu chuyển hớng đi theo con đờng của chủ nghĩa Mac-Lênin. Đây cũng là đặc trng cơ bản nhất của phong
trào Văn hoá mới sau cuộc vận động Ngũ Tứ.
Có thể nói, các cuộc luận chiến gay gắt nói trên, một mặt đã khẳng định
sự thắng thế của trào lu t tởng Macxít, mặt khác nó thúc đẩy phong trào công
nhân phát triển lên một bớc mới, tạo điều kiện cho phong trào công nhân
Trung Quốc kết hợp với chủ nghĩa Mac-Lênin.
Từ sau phong trào Ngũ Tứ, phong trào yêu nớc ở Trung Quốc phát triển
mạnh mẽ và cũng từ đây phong trào đấu tranh của công nhân Trung Quốc

chuyển từ tự phát sang tự giác. Đối với phong trào công nhân và phong trào
yêu nớc ở Trung Quốc trớc khi Đảng Cộng sản ra đời, thì phong trào Ngũ Tứ
là một cột mốc quan trọng trong quá trình phát triển. Cùng với những tác động
của Cách mạng tháng Mời Nga và sự thắng thế của chủ nghĩa Mac-Lênin, đây
là lần đầu tiên từ một phong trào yêu nớc, giai cấp công nhân Trung Quốc đã
thể hiện sự giác ngộ chính trị và sức mạnh của mình. Từ sau Ngũ Tứ, phong
trào công nhân Trung Quốc đã thực sự trở thành một phong trào chính trị với
quy mô to lớn chống lại bọn đế quốc và tay sai của chúng. Phong trào Ngũ Tứ
là sự mở đầu cho giai cấp công nhân Trung Quốc với t cách là một lực lợng

18


độc lập bớc lên vũ đài chính trị đảm nhận nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân
chủ của Trung Quốc.
Sự trởng thành của giai cấp công nhân, nhất là sự giác ngộ ý thức giai
cấp của họ đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa Mac-Lênin đi sâu vào
quân chúng. Đó là cơ sở quan trọng để những trí thức Mácxít có điều kiện hoà
nhập vào phong trào công nhân.
Năm 1920 cùng với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, các Tiểu tổ Cộng
sản ở Trung Quốc lần lợt ra đời. Bắt đầu từ đây, nhờ sự hoạt động tích cực của
các Tiểu tổ Cộng sản làm cho chủ nghĩa Mac-Lênin hoà quyện vào phong trào
công nhân, tạo điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào
năm 1921. Sự kiện này đã chứng tỏ sự xác lập xu hớng vô sản trong phong
trào cách mạng Trung Quốc.

19


Chơng 2

Quốc tế Cộng sản với sự ra đời và hoạt động bớc
đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc (từ năm 1921 đến
năm 1923)
2.1. Khái quát quá trình ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng
sản.
2.1.1. Khái quát quá trình ra đời của Quốc tế Cộng sản.
Cách mạng tháng Mời Nga năm 1917 đợc chuẩn bị và tiến hành dới sự
lãnh đạo của Đảng Bônsêvich đứng đầu là V.I.Lênin. Giai cấp công nhân Nga
liên minh với nông dân nghèo, lật đổ giai cấp t sản, thiết lập nền chuyên chính
vô sản dới hình thức Nhà nớc Xô Viết. Đây là cuộc cách mạng vô sản thắng
lợi đầu tiên, tạo nên bớc ngoặt căn bản trong lịch sử thế giới, nó đánh dấu bớc
chuyển biến mạnh mẽ, đa loài ngời từ thế giới t bản chủ nghĩa sang thế giới xã
hội chủ nghĩa. Nó khác về căn bản so với tất cả các cuộc cách mạng trớc đó,
vì các cuộc cách mạng trớc vẫn cha thể xoá bỏ đi tính chất bóc lột mà nó chỉ
là sự thay thế một hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác, một
giai cấp bóc lột này sang một giai cấp bóc lột khác. Trái lại, Cách mạng tháng
Mời đã xoá bỏ mọi hình thức bóc lột, thủ tiêu mọi giai cấp bóc lột. Cách mạng
tháng Mời diễn ra và thắng lợi trong phạm vi nớc Nga nhng nó mang tầm ý
nghĩa quốc tế hết sức lớn lao. Nó đã lật đổ giai cấp t sản, đế quốc chủ nghĩa,
đa giai cấp vô sản lên nắm chính quyền, làm chủ đất nớc, xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mời không chỉ đơn thuần là một tấm gơng có sức động viên, cổ vũ, lôi cuốn mạnh mẽ và thực sự tạo nên những điều
kiện, mở ra một con đờng hoàn toàn mới cho phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc cho các dân tộc thuộc địa ở Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ La
Tinh. Đồng thời nó cũng thúc đẩy sự lớn mạnh nhanh chóng, vững vàng của
các lực lợng cách mạng, sự trởng thành của các giai cấp và các dân tộc bị áp
bức. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mời đã chặt đứt một mắt xích quan trọng
trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa là đế quốc Nga, làm cho chủ nghĩa t
bản không còn là hệ thống duy nhất trên thế giới nữa. Thắng lợi của Cách
mạng tháng Mời đã làm cho giai cấp t sản các nớc đế quốc run sợ, điên cuồng

tìm mọi thủ đoạn nhằm kiềm chế, đẩy lùi và mong hòng tiêu diệt ảnh hởng
của nó.

20


Thắng lợi đó đã khẳng định sự đúng đắn của đờng lối cách mạng vô sản
mà chủ nghĩa Mac-Lênin đã vạch ra và làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Nó đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mac-Lênin đối với các trào lu t tởng
phi Macxít trong phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế, mở đờng cho
chủ nghĩa Mac thâm nhập sâu hơn vào các dân tộc trên thế giới.
Cách mạng tháng Mời đánh phá vào hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc, giải phóng cho một loạt nớc bị chế độ thống trị của Nga hoàng áp
bức, bóc lột từ lâu đời, xoá bỏ nhà tù của các dân tộc, chấm dứt sự thù hằn của
các dân tộc, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ dân tộc, quan hệ anh em tin
cậy lẫn nhau giữa giai cấp công nhân và nông dân Nga với nhân dân các dân
tộc vốn bị Nga hoàng áp bức dới ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài ngời các
dân tộc từng bị khinh miệt tiến lên địa vị bình đẳng với các dân tộc khác dới
chế độ Xô Viết xã hội chủ nghĩa, sự biến đổi của trạng thái chính trị đó đã
thực sự cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới đứng lên đấu tranh đòi giải
phóng.
Nếu Cách mạng 1905-1907 ở nớc Nga đã thức tỉnh các dân tộc ở Châu
á, thúc đẩy cách mạng dân chủ t sản của các nớc thuộc địa và phụ thuộc ở
Châu á, thì Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời Nga đã tác động vào các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc ở khắp lục địa, hớng họ tới cách mạng vô sản,
liên minh với giai cấp vô sản, tập hợp dới ngọn cờ của Đảng Cộng sản thì nhất
định đợc giải phóng hoàn toàn và tiến lên con đờng văn minh, tiến bộ.
Một văn kiện quan trọng của chính phủ Xô Viết có tiếng vang rộng lớn
ở các nớc thuộc địa ngay sau Cách mạng tháng Mời là: Tuyên ngôn về quyền

lợi của các dân tộc ở Nga do V.I.Lênin ký ngày 15-11-1917, đề ra những
nguyên tắc chỉ đạo các hoạt động của Nhà nớc Xô Viết trong vấn đề dân tộc
là:
+) Quyền bình đẳng và tự chủ của các dân tộc ở Nga.
+) Quyền của các dân tộc ở Nga tự do định đoạt lấy vận mệnh của mình
kể cả quyền tự tách ra để thành lập quốc gia độc lập.
+) Bãi bỏ tất cả mọi đặc quyền dân tộc và mọi hạn chế về quyền lợi dân
tộc và tôn giáo.
+) Quyền tự do phát triển của các dân tộc và của các nhóm chủng tộc
sống trên lãnh thổ Nga.

21


Sau Cách mạng tháng Mời Nga thành công, V.I.Lênin đã chỉ thị rằng:
Một nhiệm vụ cấp thiết nhất lúc này là phải giúp nớc Nga thoát khỏi cuộc
chiến tranh đế quốc. Chủ trơng chấm dứt chiến tranh là chặn tay bọn đế quốc
đa các dân tộc thuộc địa ra làm bia đỡ đạn cho chúng, là cứu các dân tộc bị áp
bức thoát khỏi thảm hoạ chém giết vì lợi ích ích kỷ của bọn đế quốc. Sắc lệnh
về hoà bình do V.I.Lênin thảo ra viết: "Nếu một dân tộc bị cỡng ép sáp nhập
vào địa giới của một nớc nào đó, nếu mặc dầu dân tộc ấy đã biểu thị nguyện
vọng của nó, chẳng kể là nguyện vọng đó đã đợc biểu thị trên báo chí, trong
các đại hội quốc dân, trong những nghị quyết của Đảng hay bằng những cuộc
bạo động và những cuộc khởi nghĩa chống ách áp bức dân tộc mà ngời ta vẫn
không để cho dân tộc ấy có quyền định đoạt bằng đầu phiếu tự do, không hề
bị cỡng bức chút nào, vấn đề các hình thức chính trị của sự sinh tồn quốc gia
của họ, sau khi quân đội của dân tộc xâm lăng hay nói chung của một dân tộc
hùng mạnh hơn đã hoàn toàn rút lui thì việc sáp nhập dân tộc ấy vào nớc nói
đó là một cuộc thôn tính nghĩa là một cuộc xâm chiếm và hành vi bạo lực"
[21;54].

Chiến tranh làm cho Quốc tế thứ II dần dần phân hoá và đi đến phá sản.
Đặc biệt, từ sau khi F.Ănghen qua đời (tháng 8-1895) kể từ Đại hội lần thứ IV
(họp tháng 8-1896 ở Luân Đôn), cơ quan lãnh đạo của Quốc tế thứ II dần dần
rơi vào tay các phần tử cơ hội chủ nghĩa đứng đầu là E.Becxtainơ. Họ phủ
nhận chuyên chính vô sản, liên minh công nông và t tởng về chuyển cách
mạng dân chủ t sản lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền thuyết "Hoà
bình giai cấp", v.v.. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, đối lập với những ngời
Bônsêvich giữ lập trờng chống chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, các phần tử cơ
hội chủ nghĩa trong Quốc tế thứ II đã công khai đứng về phía giai cấp t sản nớc họ ủng hộ cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa. Cũng vì thế, khi chiến tranh
thế giới thứ nhất bùng nổ, Quốc tế thứ II dới sự thao túng của các phần tử cơ
hội chủ nghĩa đã không còn đủ uy tín và khả năng lãnh đạo phong trào công
nhân quốc tế nữa và bắt đầu bị phân hoá, tan rã.
Sự tan rã của Quốc tế thứ II, sự phản bội sự nghiệp giải phóng giai cấp
của đa số các lãnh tụ Quốc tế II sau khi F.Ăngghen qua đời cùng với sự phát
triển của phong trào xã hội chủ nghĩa đã đặt ra cho những ngời Macxít tiên
tiến nhất nhiệm vụ cấp bách thành lập một tổ chức quốc tế mới của giai cấp vô
sản để lãnh đạo phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa tiên tiến lên làm
tròn sứ mệnh lịch sử. Sứ mạng lịch sử đó đợc đặt lên vai V.I.Lênin và Đảng
Bônsêvich Nga.

22


Một điều đặc biệt là ngay từ năm 1914 V.I.Lênin đã nhận thức rõ sự cần
thiết phải thành lập một tổ chức quốc tế mới.
Tháng 4-1917 V.I.Lênin viết: "Chính là chúng ta, chính là lúc này
không đợc chậm trễ phải thành lập một quốc tế mới, cách mạng là của giai cấp
vô sản" [18;64] và Đảng Bônsêvich đã trở thành trung tâm đoàn kết các nhóm
cách mạng quốc tế trong các nớc anh em. Trong những năm đó chỉ có Đảng
Bônsêvích có cơng lĩnh rõ ràng về các vấn đề chiến tranh, hoàn bình, nhà nớc

và cách mạng, trở thành cơ sở lý luận cho sự liên minh quốc tế cách mạng của
công nhân.
Nh vậy, ta biết đợc bản tuyên ngôn: Chiến tranh và đảng công nhân dân
chủ xã hội Nga của Trung ơng Đảng Bônsêvich công bố tháng 11-1914 ở
Becnơ; Rồi đến việc xuất hiện của phái tả Dimmecvan năm 1915 đã "Lên
tiếng chống chiến tranh đế quốc, đòi hoà bình, giành chủ nghĩa xã hội"
[20;149]. Cùng với cuộc đấu tranh để duy trì và phát triển những nhân tố đó
chống lại phái Longhe ở Pháp, Causky ở Đức, Mac-tôp và Tơrôtski ở Nga; đặc
biệt là sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mời và sự phát triển của cao trào
cách mạng trong nhiều nớc sau chiến tranh đã tạo ra những tiền đề chuẩn bị
cho sự ra đời của một quốc tế mới - Quốc tế Cộng sản.
Những ảnh hởng của Cách mạng tháng Mời, sự vững mạnh của Nhà nớc
Xô Viết đã đập tan các cuộc bao vây, tiến công của bè lũ đế quốc; những mâu
thuẫn gay gắt trong phong trào công nhân và các đảng dân chủ xã hội, sự hình
thành và phát triển của các nhóm phái tả, thành lập các đảng theo đờng lối của
V.I.Lênin ở Hunggari, áo, Đức, Hy Lạp, Ba Lan, Phần Lan, Thuỵ Điển cũng
là những tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của Quốc tế Cộng sản. V.I.Lênin đã
nói: "Quốc tế thứ III đã thực sự ra đời năm 1918, lúc mà những năm đấu tranh
lâu dài chống chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xã hội Sô-vanh, nhất là trong thời
kỳ chiến tranh, đã dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản ở nhiều nớc" [21;56].
Quốc tế Cộng sản thành lập đánh dấu một bớc phát triển mới về chất của
phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế, là bộ tham mu cao nhất của những
ngời vô sản các nớc và các dân tộc bị áp bức, dẫn đờng cho họ trong cuộc đấu
tranh xoá bỏ chế độ t bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức, xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi, tiến
lên chủ nghĩa cộng sản, là bớc "Mở đầu cho chủ nghĩa cộng sản thắng thế trên
phạm vi quốc tế" [21;56].
Cuộc hội nghị thành lập đợc triệu tập do sáng kiến của những ngời
Bônsêvich Nga đứng đầu là V.I.Lênin. Hội nghị bao gồm cục đối ngoại Đảng
23



Cộng sản công nhân Ba Lan, các đại biểu Đảng Cộng sản công nhân
Hunggari, áo, Đức, cục Nga của uỷ ban Trung ơng Đảng Cộng sản Let-to-ni,
uỷ ban Trung ơng Đảng Cộng sản Phần Lan, Ban chấp hành liên đoàn dân chủ
xã hội, cách mạng Ban Căng và đại biểu liên đoàn tuyên truyền chủ nghĩa xã
hội Mỹ họp từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 3 năm 1919 quyết định thành lập
Quốc tế Cộng sản.
Quốc tế Cộng sản là tổ chức cách mạng của giai cấp vô sản từ năm
1919 đến 1943. Tổ chức đó đã đợc hình thành bởi sự liên hiệp của những
Đảng Cộng sản các nớc. Nó tự đặt mục đích là tranh thủ đa số trong giai cấp
công nhân và quảng đại quần chúng lao động cho chủ nghĩa cộng sản dẫn dắt
họ đấu tranh để thực hiện chuyên chính vô sản tiêu diệt chế độ nô lệ t bản chủ
nghĩa và sự áp bức đế quốc chủ nghĩa, để thay thế chế độ ấy bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa, để thủ tiêu tình trạng ngời bóc lột ngời.
Quốc tế Cộng sản là ngời thừa kế duy nhất và là ngời tiếp tục sự nghiệp
của Quốc tế thứ I tức là tổ chức đã đặt ra những nền tảng t tởng cho cuộc
chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội của giai cấp vô sản quốc tế. Quốc tế Cộng sản
đã ra đời và phát triển trong một cuộc đấu tranh gay go và quyết liệt chống
chủ nghĩa xã hội dân chủ, chống sự lãnh đạo phản động của Quốc tế thứ II,
chống bọn vô chính phủ, công đoàn chủ nghĩa và các bè phái cùng xu hớng
khác đối địch với chủ nghĩa Mac.
Quốc tế Cộng sản đã ra đời và phát triển trên nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác- Lênin, nó đã không ngừng truyền bá chủ nghĩa Mác vào trong giai cấp
công nhân và tất cả những ngời lao động, bằng cách đấu tranh chống bọn cơ
hội chủ nghĩa đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác và cũng chống cả chủ nghĩa giáo
điều lẫn sự lặp lại các công thức một cách máy móc. Do đó Quốc tế Cộng sản
đã đem lại cho phong trào công nhân một vũ khí t tởng mạnh mẽ đó là chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Quốc tế Cộng sản đã tự củng cố về mặt t tởng, đã củng cố tổ chức của

mình và tổ chức của tất cả các Đảng Cộng sản trong một cuộc chiến đấu khốc
liệt chống các khuynh hớng phản chủ nghĩa Lênin, chống các nhóm và bè phái
chống lại đảng trong hàng ngũ của phong trào cộng sản, bằng cách thanh trừ
tất cả các loại tay sai của giai cấp t sản (bọn Tơ-rốt-ski, Bu-kha-rin). Quốc tế
Cộng sản đã tự tổ chức trên các nguyên tắc của chế độ tập trung dân chủ. Từ
ngày thành lập cho đến khi giải tán, Quốc tế thứ III đã họp bảy lần Đại hội và
đều diễn ra tại Matxcơva; Đảng Cộng sản Bônsêvich Nga là chi bộ mạnh nhất,
chi bộ lãnh đạo của quốc tế.
24


Vấn đề thành lập Quốc tế Cộng sản không phải mãi đến năm 1919 mới
đợc đặt ra mà thực chất ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh thế giới
thứ nhất, V.I.Lênin đã chủ trơng tập hợp các lực lợng lại để thành lập Quốc tế
Cộng sản.
Tháng 11 năm 1914 trong bản tuyên bố phản đối chiến tranh, Ban chấp
hành Trung ơng Đảng xã hội - dân chủ Bônsêvích Nga đã đặt vấn đề thành lập
một Quốc tế thứ III không có bọn cơ hội chủ nghĩa, để thay thế cho Quốc tế
thứ II sau khi quốc tế này bị phá sản một cách nhục nhã. Tại hội nghị những
ngời xã hội quốc tế chủ nghĩa ở Dimmecvan (tháng 9-1915) V.I.Lênin cùng
với thiểu số cách mạng tại hội nghị đó đã thành lập một nhóm phái tả gọi là
"Phái tả Dimmecvan". Trong "Phái tả Dimmecvan" ấy, đảng của những ngời
Bônsêvích do Lênin lãnh đạo, là đảng duy nhất bảo vệ lập trờng đấu tranh triệt
để và kiên quyết chống chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Năm 1916 tại hội nghị
lần thứ II của những ngời quốc tế chủ nghĩa họp ở Ki- en-tan, ngời ta đã thực
hiện đợc một bớc mới là liên hợp đợc tất cả các thành phần quốc tế chủ nghĩa
mà lúc đó đã họp thành những nhóm riêng lẽ trong hầu hết tất cả các nớc. Tuy
rằng hội nghị Ki-en-tan đã không chấp nhận các lập trờng chính trị cơ bản của
những ngời Bônsêvích (nh là: biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách
mạng; làm cho các chính phủ đế quốc chủ nghĩa của các nớc bị thất bại về

quân sự; tổ chức ra Quốc tế Cộng sản), nhng không phải vì thế mà hội nghị ấy
đã không giúp cho những phần tử quốc tế chủ nghĩa tách ra để sau đó thành
lập Quốc tế Cộng sản .
Sự thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời (năm 1917) vĩ
đại đã đặt phong trào công nhân và phong trào phản đế trên thế giới vào một
hoàn cảnh hoàn toàn mới mẽ và vào những điều kiện phát triển mới. Thắng lợi
đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của nhân loại. Giai cấp công nhân
Nga dới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, đứng đầu là Lênin lần đầu tiên
trong lịch sử đã phá bỏ gông cùm của bọn áp bức và thiết lập chính quyền của
mình, thiết lập đợc nền chuyên chính vô sản và do đó đã đa phong trào công
nhân quốc tế lên một trình độ mới mà trớc đó cha bao giờ đạt đợc. Thắng lợi
của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời còn đánh dấu sự thắng lợi
của chủ nghĩa Mac đối với chủ nghĩa cải lơng, sự thắng lợi của Quốc tế Cộng
sản đối với Quốc tế thứ II, sự thắng lợi của chủ nghĩa Lênin đối với chủ nghĩa
xã hội dân chủ. Dới ảnh hởng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, làn sóng cách
mạng đã dâng lên trên toàn thế giới.
2.1.2. Khái quát quá trình hoạt động của Quốc tế Cộng sản .

25


×