Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính tại thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.87 KB, 85 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý nhà
nước, là một giai đoạn trong chu trình quản lý, là công cụ hữu hiệu cho cơ
quan nhà nước quản lý tất cả các mặt đời sống xã hội. Thông qua hoạt động
thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục, từ đó bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
Kể từ khi có Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 và Luật Thanh tra năm
2004, công tác thanh tra đã góp phần quan trọng phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các sai phạm trong việc quản lý đời sống kinh tế, xã hội; đã kiến nghị
xử lý và đề xuất nhiều biện pháp để chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước
như về đất đai; đầu tư xây dựng cơ bản; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
thực hiện chính sách pháp luật về thuế, về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước; thu hồi nhiều tài sản cho nhà nước và tập thể, cá nhân; đồng thời kiến
nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật
nhằm khắc phục những khiếm khuyết, sơ hở trong công tác quản lý, góp
phần phát triển kinh tế và tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội.
Tuy nhiên trong thời gian qua, công tác thanh tra hành chính vẫn còn
một số tồn tại chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của ngành, còn nhiều
bất cập trong quá trình tiến hành thanh tra, đặc biệt là về tổ chức và hoạt
động thanh tra như: việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật về công tác thanh tra chưa đáp ứng yêu cầu; cơ cấu, tổ chức bộ máy,
công tác chỉ đạo, điều hành trong hoạt động thanh tra hành chính chưa đạt

1


hiệu quả cao; hoạt động thanh tra hành chính còn thiếu tính hệ thống, thiếu


chặt chẽ.
Đặc biệt tại thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn nhất của cả
nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…. là hạt nhân của vùng kinh tế
trọng điểm phía nam và cũng là vùng động lực cho công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội ở địa bàn Nam Bộ và cả nước theo chiến lược công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển đó, trong thời gian qua
thành phố vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém: nền hành chính công
chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; trình độ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh
tế thị trường; kỷ cương, kỷ luật ở một số cơ quan hành chính và cán bộ
công chức còn trì trệ, lỏng lẻo, yếu kém; thủ tục hành chính ở một số lĩnh
vực còn rườm rà, phức tạp; tệ nạn quan liêu, tham nhũng chưa được đẩy lùi
một cách có hiệu quả, đặc biệt đối với các lĩnh vực nhạy cảm như: đất đai,
tài chính, xây dựng, thực hiện các dự án… Đối với công tác thanh tra của
thành phố vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong quá trình hoạt động như: tổ
chức bộ máy chưa được quy định rõ ràng, thống nhất; quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn chưa tương xứng với sứ mệnh được giao và
chậm được kiện toàn trước các yêu cầu cải cách hành chính; việc thực hiện
vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố trong công tác
thanh tra; việc thực hiện quyền hạn và trách nhiệm của Trưởng Đoàn thanh
tra, thành viên Đoàn thanh tra chưa được phát huy; sự can thiệp quá sâu của
thủ trưởng cơ quan quản lý vào tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra
đã làm giảm tính chủ động, tính độc lập cần thiết của cơ quan thanh tra; sự
bất cập trong việc phân định gữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành; việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra chưa đảm bảo tính
độc lập; việc xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, ban hành kết luận thanh
tra và việc thi hành kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra chưa
2



mang tính hiệu lực thực thi cao; hoạt động thanh tra hành chính còn thiếu
tính hệ thống, thiếu chặt chẽ và hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Những điều
này đặt ra cho công tác quản lý nhà nước nói chung và thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng đòi hỏi phải có một thiết chế thanh tra thật sự, xứng đáng là
một thiết chế của “cơ quan bảo vệ pháp luật”, kịp thời phát hiện các sai sót
trong cơ chế, chính sách để chấn chỉnh, góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Với những bất cập nêu trên, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên
cứu về công tác thanh tra nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu
về thanh tra hành chính trong hệ thống thanh tra nhà nước và vẫn chưa có
luận giải một cách thỏa đáng các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về
công tác thanh tra hành chính. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tổ chức và hoạt
động thanh tra hành chính tại thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn
thạc sỹ Quản lý Hành chính công.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích nhằm đảm bảo công tác thanh tra
hành chính cấp tỉnh nói chung và tại Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng có được một cơ sở lý luận vững chắc để chuẩn hóa về tổ chức bộ máy
và hoạt động thanh tra hành chính trong việc thanh tra; phân tích thực trạng
về tổ chức và hoạt động Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh trong công tác
thanh tra hành chính nhằm vạch ra những ưu điểm và hạn chế, từ đó kiến
nghị phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
thanh tra hành chính. Qua đó kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy
định của pháp luật về Thanh tra và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

3



Đối tượng nghiên cứu cụ thể của luận văn này là tổ chức và hoạt
động thanh tra hành chính cấp tỉnh. Để phát hiện được những vấn đề liên
quan đến đối tượng nghiên cứu, đề tài tiến hành tiếp cận các vấn đề sau:
- Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về công
tác thanh tra.
- Cơ cấu, tổ chức bộ máy, công tác chỉ đạo, điều hành trong hoạt
động thanh tra hành chính.
- Tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính trong việc thanh tra.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh.
- Căn cứ pháp lý tập trung nghiên cứu: Luật Thanh tra năm 2004 và
các văn bản có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích văn bản quy phạm pháp luật quy định về cơ cấu, tổ chức
bộ máy, chức năng, nhiệm vụ để đánh giá thực trạng công tác thanh tra
hành chính trong công tác thanh tra tại Thanh tra thành phố.
- Phân tích thực tế hoạt động thanh tra hành chính để đánh giá thực
trạng, đề ra các giải pháp.
- Phân tích, tổng hợp tài liệu, các quy định pháp luật, kết hợp với
những thông tin thực tế mà đề tài khảo sát được để đánh giá tác động của
việc tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính đối với công tác quản lý nhà
nước về thanh tra.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có rất nhiều đề tài về công tác thanh tra được quan
tâm, nghiên cứu, ví dụ như: Nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra
4


chuyên ngành của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngọc - Khóa 10; Vai trò của
Thanh tra Nhà nước trong quản lý việc thực hiện dự án ở nước ta hiện nay

của tác giả Nguyễn Thanh Hải - Khóa 2; Đổi mới tổ chức và hoạt động của
thanh tra chuyên ngành giáo dục (qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh)
của tác giả Bùi Ngọc Âu - Khóa 7; Vai trò của thanh tra hành chính đối với
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Bùi
Thị Thúy Hiền - Khóa 9 và Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức ngành
Thanh tra của tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay của tác giả Dương
Hồng Lạc - Khóa 10. Tuy nhiên, các đề tài này chỉ nói đến vấn đề của
thanh tra chuyên ngành, vai trò của thanh tra nhà nước hoặc về công tác
cán bộ, công chức thanh tra mà chưa nghiên cứu sâu đến tổ chức và hoạt
động thanh tra hành chính cấp tỉnh trong việc thanh tra và chưa có một giải
pháp kiến nghị sửa đổi luật một cách căn cơ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác thanh tra hành chính.
6. Ý nghĩa và tính mới của đề tài
- Ý nghĩa: Đề tài góp phần hình thành cơ sở lý luận cho việc nâng
cao tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính tại Thanh tra thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng và cho ngành thanh tra nói chung trên cơ sở đánh giá
thực trạng và những vấn đề bất cập cần phải giải quyết để đáp ứng yêu cầu
của quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong quá trình hội nhập; giúp Thanh
tra thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ngành thanh tra nói chung có cơ sở
lý luận để nhìn nhận thực trạng, đề ra giải pháp tối ưu nhằm thay đổi các
chính sách pháp luật cho phù hợp.
- Tính mới của đề tài dự kiến:
+ Xây dựng một cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao tổ chức
và hoạt động thanh tra hành chính trong việc thanh tra, dựa trên khía cạnh

5


thực tiễn từ những hoạt động thực tế về công tác thanh tra hành chính tại
Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh.

+ Phát hiện ra những vấn đề khó khăn, vướng mắc, chồng chéo của
hoạt động thanh tra hành chính, từ đó có sự nhìn nhận chuẩn xác về thực
trạng công tác thanh tra hành chính trong công tác thanh tra và đề ra các
giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả công tác thanh tra.
+ Sửa đổi các quy định pháp luật về thanh tra phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn, hình thành một mô hình thanh tra hành chính tối ưu đảm bảo
về các mặt: quy định pháp luật, bộ máy, nguồn nhân lực... và có thể nhân
rộng sang các tỉnh thành khác của cả nước.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được chia làm 03 chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về thanh tra hành chính.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính
tại Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động
thanh tra hành chính tại Thanh tra thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 1:
6


LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA HÀNH CHÍNH

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về thanh tra
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “thanh tra” được hiểu là “Kiểm soát,
xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” 1; theo Từ
điển Hán Việt thì “thanh tra” được hiểu là “Xét rõ, điều tra để xác minh và
xử lý”2. Như vậy, thuật ngữ “Thanh tra” hiểu một cách chung nhất là việc
xem xét tại chỗ các hoạt động của đối tượng thanh tra nhằm xác minh và xử

lý đối với những vi phạm của đối tượng này. Với vai trò là công cụ của
quản lý nhà nước, mục đích chính của thanh tra là tham mưu cho chủ thể
quản lý nhà nước kiểm soát việc chấp hành pháp luật của các đối tượng
quản lý (đối tượng quản lý cũng chính là đối tượng thanh tra). Ngoài việc
phát hiện ra những sai phạm để xử lý thì thông qua công tác thanh tra, chủ
thể quản lý nhà nước còn kịp thời điều chỉnh, khắc phục, hoàn thiện cơ chế
quản lý, chính sách, pháp luật. Do đó, thanh tra là khâu không thể thiếu
được trong quản lý nhà nước, ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó cần có
hoạt động thanh tra, quản lý nhà nước sẽ không đạt được hiệu quả nếu tách
ly với hoạt động thanh tra.
Theo Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 thì “Thanh tra” được hiểu “là
một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phương thức bảo
đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền
dân chủ xã hội chủ nghĩa”3.

Trang 882, Từ điển Tiếng Việt do NXB Đà Nẵng phối hợp với Trung tâm từ điển học xuất bản
năm 1995
1

2

Trang 366, Từ điển từ Hán Việt do NXB TP.Hồ Chí Minh xuất bản năm 2001

3

Điều 1 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990

7



Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2004 thì “Thanh tra” (hay
còn gọi là Thanh tra nhà nước) có nghĩa: “là việc xem xét, đánh giá, xử lý
của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền,
trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của
pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành”4.
Từ sự phân tích trên cho thấy, có nhiều định nghĩa khác nhau về
thanh tra trong từng giai đoạn, theo quan điểm riêng, tác giả cho rằng:
“Thanh tra là một hoạt động không thể thiếu trong quản lý nhà nước,
nhằm xem xét làm rõ những hiện tượng, những vụ việc đúng, sai trong quá
trình quản lý để phản hồi nhu cầu thông tin của công tác quản lý, đồng
thời uốn nắn, chấn chỉnh, xử lý kịp thời các sai phạm và điều chỉnh chính
sách, pháp luật chưa hợp lý, góp phần làm bộ máy trong sạch, vững
mạnh”.
1.1.2. Khái niệm thanh tra hành chính
Theo Luật Thanh tra quy định thì thanh tra hành chính là một bộ
phận cấu thành của Thanh tra nhà nước, thanh tra hành chính là hoạt động
thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là thanh tra của cơ quan cấp trên
đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc quyền quản lý trực tiếp);
là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ thể quản lý khác. Thanh tra
hành chính mang tính kiểm soát nội bộ (được hiểu theo nghĩa rộng là nội
bộ của bộ máy nhà nước hay nội bộ của bộ máy các cơ quan nhà nước,
thường là theo hệ thống). Nếu như mục đích chung của thanh tra là “nhằm
phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện
những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố
4

Khoản 1 Điều 4 Luật Thanh tra năm 2004


8


tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân"5, thì mục đích cụ thể của hoạt động thanh tra hành chính
là làm trong sạch bộ máy, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều
hành.
Như vậy, thuật ngữ thanh tra hành chính có thể được hiểu như sau:
“Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà
nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp”6.
1.1.3. Khái niệm về tổ chức thanh tra
Khái niệm về tổ chức có nhiều cách hiểu khác nhau (có thể hiểu dưới
góc độ là: dùng để chỉ một cơ quan, đơn vị…; hoặc dưới góc độ là động từ
để chỉ công việc) tùy theo góc độ tiếp cận. Tuy nhiên, quan trọng và khó
nhất là việc thiết lập và duy trì hoạt động của một cơ cấu tổ chức. Đây là
công việc liên quan chặt chẽ đến thành công hay thất bại khi triển khai
nhiệm vụ. Cơ cấu tổ chức không phải là yếu tố bất biến mà nó luôn được
nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể. Đối với các nhà quản lý trước hết phải hiểu những vấn đề cơ bản của tổ
chức và hoạt động của nó để trong quá trình triển khai chức năng, nhiệm vụ
không xảy ra sai sót và làm cho hoạt động của cơ quan hiệu quả hơn.
Cũng tương tự như vậy, các cơ quan thanh tra nằm trong tổng thể hệ
thống các cơ quan nhà nước và cũng có đặc tính chung của cơ quan nhà
nước đồng thời có đặc điểm riêng của các tổ chức thanh tra. Tổ chức thanh
tra bao gồm các cơ quan thanh tra thực hiện chức năng do Nhà nước giao,
nằm trong tổng thể bộ máy nhà nước. Đó là bộ máy có tính hệ thống từ
trung ương đến địa phương (đến cấp quận), bao quát được các nhiệm vụ

5

Điều 3 Luật Thanh tra năm 2004

6

Khoản 2 Điều 4 Luật Thanh tra năm 2004

9


của công tác thanh tra. Để hoạt động của ngành Thanh tra được vận hành
một cách khoa học, ổn định, đạt hiệu quả cao cần thiết kế tổ chức, bộ máy
theo đúng các nguyên tắc về tổ chức, với các bộ phận, chức vụ được liên
kết với nhau một cách chặt chẽ theo một mục tiêu nhất định. Như vậy có
thể khái quát rằng: tổ chức thanh tra chính là việc thiết lập và duy trì các
bộ phận, chức vụ trong các cơ quan thanh tra và liên kết các bộ phận, chức
vụ này với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ về thanh tra theo quy
định của luật.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật về thanh tra ở nước ta thì hệ
thống tổ chức cơ quan thanh tra bao gồm7: cơ quan thanh tra được thành lập
theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý
theo ngành, lĩnh vực. Cụ thể:

Thanh tra Nhà nước

Thanh tra hành chính

Thanh tra chuyên ngành


Thanh tra Chính phủ

Thanh tra bộ, cơ quan ngang
bộ

Thanh tra tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương
7

Thanh tra sở

Điều 10, 13, 23 Luật Thanh tra năm 2004

10

Thanh tra huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh


Hệ thống các cơ quan thanh tra được tổ chức chặt chẽ từ trung ương
đến địa phương, đảm bảo quản lý, kiểm soát ngành, lĩnh vực. Đối với công
tác thanh tra chuyên ngành, bên cạnh nhiệm vụ thanh tra ngành, các cơ
quan còn thực hiện chức năng thanh tra hành chính nhằm kiểm tra, giám sát
nội bộ việc thực thi pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
1.1.4. Khái niệm về hoạt động thanh tra hành chính
Trong bất kỳ hoạt động quản lý nào, để đảm bảo cho những mục tiêu
đề ra đạt được hiệu quả tốt nhất, thì nhất thiết phải tiến hành công tác thanh
tra vì nó là một trong những chức năng hoạt động quản lý. Lênin đã từng
nói: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ
không phải là hai”8, nếu không có thanh tra thì không có quản lý tốt, hay

nói một cách khác quản lý sẽ mất đi một chức năng thiết yếu và không thể
mang lại hiệu quả. Thanh tra là sự xem xét để làm rõ những hiện tượng,
những vụ việc đúng, sai trong quá trình quản lý, trong những vụ việc, hành
vi của người thừa hành nhiệm vụ trong công tác quản lý, là một hoạt động
không thể thiếu, nhằm phản hồi nhu cầu thông tin của công tác quản lý,
đồng thời uốn nắn kịp thời các sai phạm và điều chỉnh chính sách, pháp luật
chưa hợp lý, tránh xơ cứng rập khuôn, máy móc, dẫn đến sự quản lý trì trệ,
góp phần làm bộ máy trong sạch.
8

Lênin toàn tập, Nhà xuất bản sách chính trị Berlin 1971, trang 25, 352

11


Hoạt động thanh tra hành chính là phương thức đảm bảo trật tự, kỷ
cương trong quản lý hành chính nhà nước, góp phần tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Thanh tra hành chính thực hiện giám sát hoạt động của
các đối tượng bị quản lý và xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các
quyết định hoặc hành vi hành chính của cán bộ, công chức nhà nước trong
việc thực hiện chính sách, pháp luật, chức trách, nhiệm vụ được giao. Việc
phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của cá nhân,
cơ quan có trách nhiệm, của các cá nhân, tổ chức là đối tượng bị quản lý
góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lý. Mặt
khác, việc tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện
những nội dung trong chủ trương, chính sách chưa phù hợp với yêu cầu
thực tế khách quan để từ đó có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc phục
kịp thời. Tuy nhiên, thanh tra hành chính không chỉ là việc phát hiện, tìm
kiếm sai phạm, sơ hở, yếu kém trong quản lý mà còn phải phát hiện tạo
điều kiện cho những nhân tố mới, cơ chế mới tích cực phát triển. Có như

vậy thì hiệu quả công tác thanh tra mới đáp ứng được yêu cầu phát triển
của thực tiễn, hiệu quả công tác quản lý mới được nâng cao.
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng: Hoạt động thanh tra hành
chính là công cụ hữu hiệu của hoạt động quản lý nhà nước nhằm phòng
ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những
sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích
cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
1.2. Đặc điểm và vai trò của thanh tra hành chính
1.2.1. Đặc điểm của công tác thanh tra hành chính
12


Thanh tra hành chính là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan
quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền và theo
trình tự thủ tục được pháp luật quy định. Từ khái niệm cơ bản trên cho thấy
công tác thanh tra hành chính có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, thanh tra hành chính gắn liền với quản lý nhà nước, đáp
ứng yêu cầu và phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý
nhà nước, thanh tra hành chính gắn liền với quản lý nhà nước. Quản lý nhà
nước và thanh tra hành chính, có cái chung là nhân danh quyền lực nhà
nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Tuy nhiên, xét
theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra hành chính chỉ là những
công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước, là một khâu trong chu trình
quản lý, thanh tra hành chính bị ràng buộc, chế ước bởi quản lý nhưng
đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh các cách thức, phương pháp

quản lý của chủ thể quản lý nhà nước. Trong chu trình đó, thanh tra hành
chính phản ánh và bảo vệ mục đích của quản lý; một thể chế hành chính và
cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động có tính hiệu quả của
thanh tra hành chính sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu
kỷ cương trong hoạt động quản lý nhà nước.
- Thứ hai, tính quyền lực nhà nước của thanh tra hành chính
Thanh tra hành chính là một chức năng của quản lý nhà nước, thể
hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản
lý đối với đối tượng quản lý; nói về quyền lực nhà nước quá trình thanh tra
hành chính cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước
của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra hành chính phải được Nhà nước sử
13


dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý. Khi nhấn mạnh
tính quyền lực của các tổ chức thanh tra, Lênin nói: “Thanh tra thiếu quyền
lực là thanh tra suông”9.
Tính chất quan trọng của quyền lực này, được khẳng định ngay từ
khi Ban Thanh tra đặc biệt được thành lập theo Sắc lệnh số 64/SL ngày 23
tháng 11 năm 1945 quy định: “Ban thanh tra đặc biệt có toàn quyền: nhận
các đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu
giấy tờ của các Ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết
cho công việc giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Ủy
ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng
Chính phủ hay Toà án đặc biệt xét xử; tịch biên hoặc niêm phong những
tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang một phạm nhân
ra Toà án đặc biệt….” và theo Luật Thanh tra năm 2004, quyền lực thanh
tra hành chính tiếp tục được quy định tại Điều 39: yêu cầu đối tượng thanh
tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng văn bản, giải trình về những

vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; quyết định niêm phong tài liệu của
đối tượng thanh tra khi có căn cứ cho rằng có vi phạm pháp luật; tạm đình
chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc
làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Từ sự phân tích trên cho thấy hoạt động thanh tra hành chính không
chỉ là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước mà nó còn
mang tính chất quyền lực nhà nước, yêu cầu các đối tượng thanh tra phải
chấp hành đơn phương các quyết định trong quá trình thanh tra.
- Thứ ba, tính khách quan và độc lập tương đối của thanh tra hành
chính

9

V.I. Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcơva 1978, tập 31, tr.34

14


Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc
điểm này phân biệt thanh tra hành chính với các loại hình cơ quan chức
năng khác của bộ máy quản lý nhà nước. Ngoài những nhiệm vụ như
những cơ quan quản lý nhà nước khác, tổ chức và hoạt động thanh tra hành
chính có nhiệm vụ chủ yếu là “việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan
quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền” 10. Như vậy,
để thực hiện được nhiệm vụ này hoạt động thanh tra đòi hỏi phải được xem
xét, đánh giá một cách khách quan đối với vấn đề cần thanh tra và độc lập
tương đối trong quá trình quyết định các chính sách của mình. Tính khách
quan và độc lập tương đối trong quá trình thanh tra hành chính được thể

hiện trên các điểm sau:
+ Chỉ tuân theo pháp luật.
+ Tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định.
+ Khách quan trong quá trình thanh tra. Mặc dù bản thân hoạt động
thanh tra thông qua con người, mang yếu tố chủ quan, nhưng yêu cầu đặt ra
đối với hoạt động thanh tra là luôn phải tôn trọng sự thật khách quan.
+ Ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của
pháp luật về kết quả của hoạt động thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết
định thanh tra của mình.
Tính độc lập của hoạt động thanh tra hành chính chỉ là tương đối bởi
vì, thanh tra hành chính là chức năng thiết yếu của công tác quản lý nhà
nước, thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước cùng cấp. Mặt khác, trong hoạt động thanh tra hành chính, các cơ
quan Thanh tra phải căn cứ vào pháp luật và chính sách hiện hành, đồng
10

Khoản 1 Điều 4 Luật Thanh tra năm 2004

15


thời phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, đặt sự vật, hiện tượng, việc đang
làm trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học, lịch sử cụ thể.
Tính độc lập của thanh tra hành chính cần phải được hiểu là tính độc
lập của hoạt động thanh tra nói chung và mang tính nguyên tắc. Nó khác
với tính độc lập trong xét xử ở Toà án, bởi vì: một mặt thanh tra xem xét
mọi việc không chỉ căn cứ vào tính hợp pháp mà cả tính hợp lý; mặt khác
không phải mọi hoạt động thanh tra hành chính đều mang tính chất tài phán
và hoạt động thanh tra do người có trách nhiệm, thẩm quyền quyết định

trong việc xử lý kết quả thanh tra là thủ trưởng cơ quan hành chính nhà
nước.
1.2.2. Vai trò của thanh tra hành chính
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội, mang tính quyền lực
nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã
hội và hành vi hoạt động của con người. Thực hiện chức năng quản lý, Nhà
nước ban hành nhiều quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi
của con người, duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp
luật để thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Hiệu quả
của việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chỉ có ý nghĩa
khi có các thiết chế nhằm phát hiện và loại bỏ các lệch lạc có thể có của đối
tượng quản lý; chấn chỉnh lại các quyết định đã ban hành trước đây cho phù
hợp thực tế và yêu cầu từ phía nhà nước. Để làm được điều này, một thiết
chế, công cụ không thể thiếu của hoạt động quản lý đó chính là thanh tra
hành chính. Thanh tra hành chính có tác động tích cực đối với quản lý và
góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả của quản lý nhà nước. Vai trò của
thanh tra hành chính không chỉ là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân
theo pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của nhà nước, kịp thời phát hiện, kiến
nghị xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm và đề ra các biện
pháp giúp các đối tượng thanh tra khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết
16


điểm, phát huy ưu điểm… mà còn là phương tiện để chủ thể quản lý phát
hiện những biểu hiện trì trệ, không phù hợp với thực tế khách quan của cơ
chế và phương pháp quản lý đã và đang cản trở các hoạt động quản lý, từ
đó đề xuất các biện pháp cải cách, hoàn thiện các hoạt động quản lý nhà
nước.
Từ những nội dung nêu trên có thể thấy vai trò của thanh tra hành
chính được thể hiện qua các phương diện chủ yếu sau:

- Một là, thanh tra hành chính có vai trò quan trọng trong việc giúp
cơ quan quản lý nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách. Một
trong những yêu cầu quan trọng nhất của việc xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ, rõ ràng, minh bạch, phù hợp với yêu cầu phát triển
khách quan của nền kinh tế và đảm bảo tính công bằng cho các chủ thể
kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật nước ta còn một số lĩnh vực
còn thiếu và chưa chặt chẽ, một số cơ chế chính sách không đi vào thực tế
đã phát sinh những sơ hở, dễ bị lợi dụng để trục lợi làm ảnh hưởng tiêu cực
đến phát triển của đất nước. Thông qua hoạt động thanh tra hành chính,
những sai sót, gian lận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách,
pháp luật được phát hiện và khắc phục kịp thời; những lỗ hổng, sự bất hợp
lý trong các chủ trương, chính sách, pháp luật được điều chỉnh hợp lý. Bên
cạnh đó, các chủ thể quản lý có được những thông tin góp phần phát hiện
những thay đổi và dự báo những vấn đề sẽ phát sinh để có những biện pháp
phòng ngừa.
- Hai là, thông qua hoạt động thanh tra hành chính góp phần xây
dựng bộ máy nhà nước trong sạch, có hiệu lực, hiệu quả. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ có thể xây dựng thành
công và phát triển vững chắc nếu bộ máy trong sạch, gọn nhẹ, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả hơn. Hiệu lực quản lý nhà nước phần lớn tùy thuộc vào
17


phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức, vào nội dung và biện
pháp tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. Khi nội dung và chất lượng
quyết định được kiểm nghiệm thực tế là đúng, là phù hợp, nhưng đối tượng
thi hành vẫn không tuân thủ, không chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt
động thanh tra, kiểm tra phải làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan,
xác định rõ trách nhiệm thuộc khâu nào, thuộc ai nhằm chấn chỉnh và xử lý

vi phạm.
Thanh tra hành chính còn góp phần xem xét tính hiệu quả của quản
lý nhà nước. Tính hiệu quả của quản lý nhà nước không chỉ xác định bằng
các chỉ tiêu định lượng như: tiền, vàng, diện tích đất đai… mà trong nhiều
trường hợp có thể được xem xét bằng các chỉ tiêu định tính như đảm bảo ổn
định tình hình chính trị xã hội, đảm bảo tính công bằng, tính nghiêm minh
của pháp luật. Thanh tra hành chính còn hướng đến xem xét cả việc tổ chức
cụ thể của cơ quan quản lý nhà nước thông qua các yếu tố: cơ cấu tổ chức
bộ máy, chức năng nhiệm vụ, thầm quyền, năng lực, uy tín, phong cách của
lãnh đạo…
- Ba là, góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Ở nước ta,
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước có nghĩa vụ chăm lo, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, tạo mọi điều kiện để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý nhà nước và quản lý
xã hội. Thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra việc
thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo, các quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân được bảo vệ, góp phần vào việc bảo đảm các quyền dân chủ cho
người dân.
- Bốn là, là phương tiện phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm
nảy sinh trong quản lý nhà nước. Thông qua hoạt động thanh tra hành
chính, các thông tin và kết luận có tác dụng giáo dục và phòng ngừa vi
phạm pháp luật ở đối tượng quản lý nhà nước; là phương tiện hoàn thiện
18


bản thân chủ thể quản lý nhà nước. Thanh tra hành chính không chỉ có vai
trò đối với đối tượng quản lý nhà nước mà còn có vai trò đối với chủ thể
quản lý nhà nước, thông qua hoạt động thanh tra hành chính giúp cho các
chủ thể quản lý nhà nước hoàn thiện các phương tiện quản lý như pháp
luật, cơ chế, chính sách,… Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra hành chính

giúp cho các chủ thể quản lý ra các quyết định áp dụng chính xác, đúng
đắn, khách quan và phù hợp hơn.
1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Thanh tra
hành chính
Từ vai trò quan trọng của công tác thanh tra “là việc xem xét, đánh
giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo
thẩm quyền, theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định” như đã nêu
trên, Nhà nước đã thiết lập hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước (thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành) với nhiệm vụ và quyền hạn cụ
thể. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra gắn bó với
nhau trên cơ sở phân cấp theo vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra nhà
nước. Các cơ quan thanh tra nhà nước có chức năng giúp thủ trưởng cơ
quan cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và công tác phòng, chống tham nhũng. Trong đó, đề tài đặc biệt đi
sâu nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính
được thể hiện chủ yếu như sau:
- Thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ và trách nhiệm thực thi công vụ của cơ quan và công chức
nhà nước. Thông qua hoạt động này, thanh tra góp phần quan trọng vào
việc làm trong sạch bộ máy nhà nước, phát hiện và ngăn ngừa hành vi vi
phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức nhà nước;
19


- Thanh tra trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo, thanh tra trách nhiệm thực hiện công tác phòng chống
tham nhũng của thủ trưởng các cơ quan hành chính. Thông qua đó, hoạt
động thanh tra góp phần tăng cường tính kỷ luật trong quản lý nhà nước,
thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và góp phần vào công tác phòng chống

tham nhũng.
- Thanh tra các hoạt động quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang, hoạt
động của các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp và các tổ chức khác có sử
dụng vốn và tài sản của Nhà nước. Thông qua hoạt động này, công tác
thanh tra góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng cũng như các hành vi tiêu cực khác trong hoạt động kinh tế xã hội.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên đây, mỗi giai đoạn có tổ chức hệ
thống cơ quan thanh tra có thẩm quyền cụ thể. Hiện nay, thẩm quyền của
cơ quan thanh tra đã được quy định khá chi tiết trong Luật Thanh tra năm
2004. Theo đó, thanh tra nhà nước có quyền xem xét, đánh giá, xử lý của
cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền,
trình tự, thủ tục được pháp luật quy định và thanh tra hành chính là hoạt
động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá
nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Như vậy, các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chủ yếu tập
trung vào thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền chung.
1.4. Nguyên tắc hoạt động thanh tra hành chính
20


Nguyên tắc hoạt động thanh tra hành chính là những tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt trong quá trình hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà
nước, nhất là trong khi tiến hành các cuộc thanh tra. Luật Thanh tra đã ghi
nhận và phát triển những vấn đề cơ bản nhất trong Pháp lệnh Thanh tra và
khái quát thành nguyên tắc: “Hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật;

bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời;
không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là
đối tượng thanh tra”11.
Như vậy, nguyên tắc được kế thừa Pháp lệnh Thanh tra là: “Hoạt
động thanh tra bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân
chủ, kịp thời” bởi lẽ nguyên tắc này thể hiện đúng bản chất hoạt động thanh
tra hành chính. Nội dung nguyên tắc “hoạt động thanh tra chỉ tuân theo
pháp luật” được chỉnh lý bằng “hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp
luật” để thể hiện đầy đủ vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra và bản chất
hoạt động thanh tra. Nguyên tắc mới được bổ sung “không làm cản trở hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra”, để
thể hiện mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng thanh tra.
Nguyên tắc hoạt động thanh tra theo Điều 5 của Luật Thanh tra được thể
hiện cụ thể như sau:
- Thứ nhất, hoạt động thanh tra hành chính phải tuân theo pháp
luật, đây là yêu cầu cơ bản, quan trọng đối với tất cả các hoạt động của cơ
quan nhà nước và cán bộ, công chức nhân viên nhà nước. Hoạt động phải
tuân theo pháp luật thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Theo đó “Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công
dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”12.
11

Điều 5 Luật Thanh tra năm 2004

12

Đảng cộng sản VN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, trang 132.

21



Hoạt động thanh tra hành chính phải tuân theo pháp luật là yêu cầu
đầu tiên và trước hết đối với cán bộ, thanh tra viên trong hoạt động thanh
tra. Thanh tra hành chính là công cụ của quản lý; là một trong các yếu tố
đảm bảo sự thành công hay thất bại của chủ trương, chính sách, pháp luật
đã ban hành; là một biện pháp quan trọng đảm bảo chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh. Chính vì
vậy, các cơ quan thanh tra nhà nước và cán bộ, thanh tra viên trong suốt
quá trình hoạt động, không những phải tuân theo đúng các quy định của
Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật khác hướng dẫn thi hành về thẩm
quyền, quyền hạn, trình tự, thủ tục… trong tổ chức, chỉ đạo và thực hiện
hoạt động thanh tra hành chính; mà còn phải tuân thủ các quy định của các
pháp luật khác có liên quan đến công tác thanh tra, như các văn bản pháp
luật có liên quan đến nội dung thanh tra,…
- Thứ hai, hoạt động thanh tra hành chính phải bảo đảm chính xác,
khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, với vai trò, vị trí “Thanh tra là
tai mắt của trên, là người bạn của dưới”, thanh tra hành chính là một bộ
phận cấu thành công tác lãnh đạo, là một bộ phận hợp thành công tác quản
lý nhà nước, nó đóng vai trò như cầu nối giữa cơ quan lãnh đạo, quản lý nơi ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật
và địa phương, cơ quan, đơn vị, cơ sở - nơi thực hiện mọi chủ trương, chính
sách, pháp luật trên thực tế. Như vậy, các cơ quan thanh tra nhà nước, cũng
như cán bộ, thanh tra viên đóng một vai trò rất quan trọng là thu thập, tổng
hợp, nhận xét, xử lý những thông tin trong thanh tra, để phục vụ cơ quan
lãnh đạo, quản lý. Nó giúp cho người lãnh đạo, người quản lý các cấp nắm
được không những tình hình chấp hành, những ưu điểm, khuyết điểm trong
việc thực hiện cơ chế quản lý, các chính sách, pháp luật… ở địa phương, cơ
quan, đơn vị được thanh tra, mà còn cả những sơ hở của cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật… hiện hành cùng với những kiến nghị để cơ quan
22



lãnh đạo, chỉ đạo có những biện pháp khắc phục những khuyết điểm của
cấp dưới và sơ hở của cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật… Do đó,
những thông tin mà thanh tra cung cấp cho cơ quan cấp trên, cho người
lãnh đạo đòi hỏi độ chính xác, khách quan, trung thực rất cao. Muốn có
được những thông tin chính xác, trung thực đó, thái độ của người cán bộ
thanh tra là phải cẩn thận, xem xét một cách tỉ mỷ, thấu đáo và có sự phân
tích, đánh giá một cách khách quan, khoa học, không áp đặt theo ý muốn
hoặc suy đoán chủ quan của mình.
Hoạt động thanh tra hành chính cũng đồng thời bảo đảm yêu cầu
công khai, dân chủ. Theo đó, việc thanh tra phải có quyết định thanh tra và
được công bố công khai với sự có mặt của đối tượng thanh tra, để đối
tượng thanh tra biết trước khi tiến hành thanh tra. Bằng quyết định thanh
tra và công bố, giao quyết định đó cho đối tượng thanh tra, hoạt động thanh
tra đã thực hiện công khai cả nội dung, thời hạn, thời hiệu thanh tra, công
khai thành phần Đoàn thanh tra. Trong quá trình thanh tra, yêu cầu dân chủ
được bảo đảm bằng việc các quyền của đối tượng và Đoàn thanh tra được
tôn trọng thực hiện: thanh tra có quyền chất vấn, đối tượng thanh tra có
quyền chứng minh; thanh tra có quyền nhận xét, đánh giá tình hình và ưu,
khuyết điểm của đơn vị được thanh tra; đối tượng thanh tra có quyền giải
trình; thanh tra có quyền kết luận thanh tra, đối tượng thanh tra có quyền
giải trình hoặc khiếu nại kết luận của Đoàn thanh tra… Đối tượng thanh tra
có quyền tố cáo những hành vi mà họ cho là trái pháp luật của Đoàn thanh
tra, các thành viên Đoàn thanh tra.
- Thứ ba, hoạt động thanh tra hành chính phải kịp thời, thanh tra là
nhằm mục đích giúp cấp trên nắm được tình hình, giúp cấp dưới sửa chữa,
uốn nắn những sai lầm, lệch lạc, giúp đỡ cấp dưới thực hiện đúng chủ
trương, chính sách, pháp luật. Do vậy, công tác thanh tra luôn luôn đòi hỏi
tính kịp thời. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

23


“Khi đã có nghị quyết thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị
quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân viên
địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và
những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt
qua mọi khó khăn”13.
Như vậy cho thấy thanh tra hành chính kịp thời còn là phương
châm, cách làm hiệu quả nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp
khắc phục… góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý
nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
- Thứ tư, hoạt động thanh tra hành chính phải không làm cản trở
hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh
tra, đây là một trong những yêu cầu hoạt động thanh tra mới được bổ sung
vào Luật Thanh tra năm 2004, Nó được quy định bởi mục đích hoạt động
kiểm tra, thanh tra, nhằm tạo sự bình đẳng giữa Đoàn thanh tra và đối
tượng thanh tra, Đoàn thanh tra không được can thiệp vào hoạt động của
đối tượng thanh tra, gây phiền hà cho đối tượng thanh tra, tạo sự công khai
minh bạch trong quá trình thanh tra, thanh tra phải theo kế hoạch và lịch
làm việc đã báo cáo trước cho đơn vị và nó cũng góp phần phát huy nhân tố
tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ,
hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.5. Phân biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành


13

Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay, 1948, HCM, tập 5, tr.521

24


Thanh tra hành chính và Thanh tra chuyên ngành là 02 hệ thống hoạt
động của thanh tra nhà nước, được quy định tại Điều 4 Luật Thanh tra năm
2004: “Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành” và được khái niệm trong luật, đó là:
“Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý
nhà nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp;
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý
nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc
quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý”
Từ 02 khái niệm nêu trên có thể thấy rằng: thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành tuy cùng nằm trong một hệ thống thanh tra nhưng
có những điểm khác biệt với nhau, cụ thể:
- Thứ nhất, hoạt động thanh tra hành chính do các cơ quan có chức
năng quản lý nhà nước theo cấp hành chính tiến hành như: Chính phủ, Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ủy ban nhân dân quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Bên cạnh đó xuất phát từ tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính hiện nay hoạt động thanh tra
hành chính còn do các cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực tiến hành đối
với các cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của
mình. Riêng đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ do cơ quan có
chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực tiến hành.

- Thứ hai, hoạt động thanh tra hành chính được tiến hành đối với các
cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của các cơ quan
quản lý nhà nước theo cấp hành chính, như: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
25


×