Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thức ăn gia súc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 93 trang )

GIÁO TRÌNH
THỨC ĂN GIA SÚC
Biên soạn: TH.S. Nguyễn Thị Hồng Nhân

Chương 1
PHÂN LOẠI THỨC ĂN
Việc phân loại các thực liệu dùng làm thức ăn gia súc thành các nhóm mà chúng ta
nghiên cứu sau đây chỉ có giá trị tương đối nhưng rất tiện dụng trong nuôi dưỡng gia súc,
gia cầm và rất cần thiết trong trao đổi, mua bán thức ăn giá trên thị trường nội địa hoặc
xuất nhập khẩu.
1.1. CÁC CÁCH PHÂN LOẠI THỨC ĂN

Có nhiều cách phân loại thực liệu làm thức ăn gia súc dựa theo giá trị năng lượng của
thực liệu, căn cứ theo nguồn gốc, dựa trên thành phần hóa học hoặc giá trị dinh dưỡng...

1.1.1. Phân loại theo giá trị năng lượng
Dựa theo giá trị năng lượng của thực liệu mà người ta chia chúng thành 2 nhóm: thức ăn
tinh và thức ăn thô.
Theo các nhà khoa học Nhật, được xếp là thức ăn tinh khi giá trị năng lượng của thực liệu
tương đương với 45% đơn vị tinh bột hay hơn và là thức ăn thô khi thấp hơn 45%.
Theo các chuyên gia Liên xô khi 1 kg thực liệu chứa ít hơn hay bằng 0,6 đơn vị thức ăn
(< 1.500 kcal ME) thì được xếp vào nhóm thức ăn thô, ngược lại thuộc về thức ăn tinh.
Theo qui định về thức ăn của Canada thì một thức ăn năng lượng không chứa hơn 16%
protein và 18% xơ.

1.1.2. Phân loại thức ăn theo nguồn gốc

1


Dựa vào nguồn gốc của thực liệu ta có thể chia chúng thành các nhóm thức ăn: thực vật,


động vật, khoáng vật, vi sinh vật và tổng hợp hóa học.
Thức ăn gốc thực vật bao gồm tất cả các loại thức ăn xanh, các sản phẩm chế biến chúng
để tồn trữ (cỏ khô, cỏ ủ xanh, cỏ làm héo ủ chua, bột cỏ và cỏ cắt đoạn), phụ phẩm trồng
trọt (rơm, cùi bắp, thân lá còn lại sau khi thu hoạch sản phẩm chính), khoai củ và các phụ
phẩm của ngành rau quả (ngọn củ cải, carrot, lá bắp cải già), các loại quả (dưa, bầu, bí),
các loại hạt, các phụ phẩm ngành xay xát, làm bột, ép dầu, mía đường (hoặc củ cải
đường), chế biến bia, tinh bột, công nghiệp rượu và chế biến rượu nho.
Thức ăn gốc động vật như sữa và các sản phẩm của ngành chế biến sữa, các phụ phẩm
công nghiệp chế biến thịt, đóng hộp cá, thứ phẩm của ngành chăn nuôi gia cầm, phế
phẩm của lò ấp, của công nghiệp chế biến lông, len và da động vật.
Nhiều ngành công nghiệp khác nhau cung cấp cho ngành chăn nuôi các thức ăn bổ sung
khoáng, men thức ăn gia súc, các chế phẩm vitamin, các chế phẩm có chứa nitơ (urê,
muối ammonium, các acid amin), kháng sinh, các chế phẩm enzym, hormon và phòng trị
bệnh.

1.1.3.Phân loại thức ăn theo các tính chất lý hóa và cách sử dụng thông thường
Ðây là cách phân loại thức ăn gia súc quốc tế do Harris và Harris et al., đề nghị cùng với
danh pháp đã được chấp thuận bởi mạng lưới các trung tâm thông tin quốc tế về thức ăn
gia súc, ủy ban nghiên cứu (NRC) trực thuộc Viện Hàn Lâm khoa học Mỹ cũng đề ra
cách phân loại dựa theo tiêu chuẩn trên.
Các thực liệu được phân nhóm thành 8 hạng loại dựa theo các đặc điểm hóa lý và phương
pháp sử dụng chúng trong khẩu phần được phối hợp. Do sự cần thiết, các hạng loại này
có tính chất khuyến cáo và trong các trường hợp ngoại lệ một thức ăn sẽ được xếp cho
một hạng loại tùy thuộc vào cách sử dụng phổ biến của nó. Tính theo chất khô, các thức
ăn chứa hơn 18% xơ thô hoặc 35% vách tế bào thì được xếp vào thức ăn thô (forages hay
roughages), những thức ăn chứa dưới 20% protein và dưới 18% xơ thô được xếp loại
thức ăn năng lượng và những thức ăn chứa trên 20% protein hay hơn thì xếp loại thức ăn
bổ sung protein.

Bảng 1.1. Các hạng loại thức ăn xếp theo các đặc điểm lý hóa:

Số hạng loại Tên hạng loại và giải thích
1. Thức ăn thô khô và xác vỏ: bao gồm các thức ăn thô khô và xác vỏ được cắt và phơi
sấy và các sản vật khác với hơn 18% xơ thô hoặc chứa hơn 35% vách tế bào (tính theo

2


VCK). Chúng có mức năng lượng thuần thấp trên mỗi đơn vị trọng lượng thường, bởi vì
hàm lượng vách tế bào cao.
Ví dụ về thức ăn thô: cỏ khô, rơm, thân cây bắp .
Ví dụ về xác vỏ: vỏ trấu, vỏ quả.
2. Ðồng cỏ, cỏ đồng và thức ăn thô xanh: bao gồm tất cả thức ăn thô trên đồng chưa cắt
(kể cả các thức ăn khô trên cây) hoặc được cắt và cho ăn tươi.
3. Thức ăn ủ chua: chỉ bao gồm những thức ăn thô ủ chua (cây bắp, đậu alfalfa, cỏ hòa
thảo ...) nhưng không kể cá ướp, hạt, khoai và củ đem ủ.
4. Thức ăn năng lượng: các thực liệu chứa dưới 20% protein và dưới 18% xơ thô (tính
theo VCK) như thức ăn hạt, phụ phẩm xay xát, trái, quả hạch, khoai và củ. Cũng vậy khi
những thức ăn này được ủ, chúng vẫn được xếp thức ăn năng lượng.
5. Thức ăn bổ sung protein: các thực liệu chứa 20% protein hay hơn (tính theo VCK) có
nguồn gốc động vật (kể cả các sản vật được ủ) cũng như các loại tảo, bánh dầu ...
6. Thức ăn bổ sung khoáng
7. Thức ăn bổ sung vitamin (kể cả nấm men được ủ)
8. Các chất phụ gia: các chất bổ sung cho thức ăn như kháng sinh, chất tạo màu, mùi,
hormon và các loại thuốc.
Cách phân loại thức ăn của NRC Mỹ đề ra cũng tương tự như trên với vài khác biệt nhỏ
trong ví dụ minh họa.

Bảng 1.2. Phân loại thức ăn theo NRC
Số hạng loại Tên hạng loại và thực liệu tiêu biểu
1. Thức ăn thô khô và cây thức ăn khô: cỏ khô; cây họ đậu hoặc không phải họ đậu; rơm;

cây thức ăn khô; phần thân lá còn lại sau khi thu hoạch sản phẩm chính; các thức ăn khác
có hơn 18% xơ (vỏ trấu, vỏ trái)
2. Ðồng cỏ, cỏ đồng và thức ăn thô xanh
3. Thức ăn ủ chua: bắp, cây họ đậu, cỏ hòa thảo
4. Thức ăn năng lượng hay thức ăn cơ bản: hạt ngũ cốc, phụ phẩm xay xát, trái, quả hạch,
khoai củ

3


5. Thức ăn bổ sung protein: động vật, hải sản, gia cầm, thực vật
6. Thức ăn bổ sung khoáng
7. Thức ăn bổ sung vitamin
8. Các chất phụ gia không có giá trị dinh dưỡng: kháng sinh, chất tạo màu, chất tạo mùi,
hormon, thuốc.
Cách phân loại thức ăn quốc tế hoặc của NRC rất hữu dụng trong phối hợp khẩu phần
trên máy tính và trong trao đổi mua bán quốc tế.
1.1.4. Phân loại thực dụng
Trong thực tiễn chăn nuôi ta có thể phân các thực liệu thành các nhóm sau đây:
1. Thức ăn nhiều nước (Succelents): thức ăn xanh, thức ăn ủ chua, khoai củ, quả mọng.
2. Thức ăn thô khô (roughages): cỏ khô, rơm, thân khô.
3. Thức ăn tinh (concentrates):
a. Gốc thực vật giàu năng lượng: hạt và phụ phẩm.
b. Gốc thực vật giàu đạm: bánh dầu, hạt họ đậu.
c. Gốc động vật: sữa và sản phẩm chế biến, bột cá, bột thịt, bột thịt xương.
d. Thức ăn hỗn hợp.
4. Thức ăn khoáng: muối ăn, bột vỏ sò, bột xương, các phosphat, muối vi lượng.
5. Các vitamin và premix
6. Các thức ăn khác: mật đường, hèm rượu, bã bia, nấm men.
1.2. CáCH GọI T£N MộT THựC LIệU THEO DANH PHáP QUốC Tế

1.2.1. Danh sách thức ăn gia súc quốc tế
Danh sách thức ăn gia súc quốc tế do Harris et al., (1980) đề nghị bao gồm 6 khía cạnh
với các thuật ngữ mô tả được dùng để định danh từng mặt và những qui định đặc biệt cho
việc sử dụng chúng trong việc diễn đạt các tên thức ăn. Hệ thống này đã lưu hành để mô
tả các thực liệu Ở BẮC VÀ NAM MỸ, MỘT PHẦN CHÂU ¢U, TRUNG ÐÔNG, ÚC,
TRIỀU TIÊN VÀ CHÂU Á. Hệ thống này đã được phát triển khắc phục những dị biệt
trong thức ăn được gọi tên bằng cách cung cấp một cái tên đã mô tả cho mỗi loại thức ăn.

4


Ðể đơn giản và rõ ràng khi áp dụng chúng, danh pháp thức ăn quốc tế đề nghị một
phương cách nhằm chuẩn hóa việc gọi tên các thức ăn trên phương diện quốc tế.
Khi thiết lập các tên thức ăn quốc tế, các mô tả (trong mỗi khía cạnh) đã được chọn lọc
để tiêu biểu cho các đặc điểm giữa các thức ăn, điều này có liên hệ đến các khác biệt về
giá trị dinh dưỡng. Mỗi tên thức ăn quốc tế được thành lập bằng cách dùng các mô tả từ
một hoặc nhiều hơn trong 6 mặt. Ðó là:
1. Vật liệu gốc (nguồn gốc) chứa tên khoa học (chi, loài, giống), tên thông thường (loài,
giống hoặc loài, dòng), và thành phần hóa học.
2. Phần sử dụng: phần dùng làm thức ăn do nó bị ảnh hưởng bởi quá trình chế biến.
3. Cách chế biến hoặc xử lý phần được dùng làm thức ăn.
4. Giai đoạn thành thục (áp dụng cho thực vật và một số động vật).
5. Thời kỳ thu hoạch (cắt): áp dụng cho thực vật.
6. Hạng (chất lượng): các hạng chuẩn chính thức và các bảo đảm luật định.
Mỗi thức ăn phải được định danh rõ ràng (để không có 2 nghĩa) và với một sự chọn lựa
định hướng theo tên một thức ăn quốc tế dùng tới 6 mô tả chọn lọc từ 6 khía cạnh nêu
trên.
Các tên thức ăn quốc tế được nêu ra nhằm đáp ứng các yêu cầu chính xác của các thủ tục
xuất nhập khi sử dụng máy tính. Hệ thống này thống nhất, trong đó mỗi mô tả là một
code (số qui ước) theo thứ tự ABC có thể được để phân loại các mục đích.

Trong định danh thực liệu do NRC (Mỹ) đề nghị còn có thêm một mô tả nữa đó là số
hạng loại và danh pháp của NRC bao gồm 8 đặc điểm.
1.2.2. Tên quốc tế của thực liệu
Việc diễn đạt một tên gọi nhằm đảm bảo không thể hai nghĩa khi định danh một thực liệu
có thể theo các tên thức ăn quốc tế nhưng không thuận lợi cho việc lưu thông phân phối
thường nhật. Vì thế, một tên quốc tế của thức ăn có thể được lập nên bằng cách thay đổi
hoặc bỏ qua vài khía cạnh như: phần sử dụng (2) và cách chế biến (3). Các mô tả được
cải tiến để cho phù hợp hơn trong thương mại. Thí dụ, sự tổ hợp của các MÔ TẢ (PHẦN
TR£N KH¤NG - PH¥I NẮNG) nói chung có thể trở thành "cỏ khô trong lưu thông bình
thường. Tuy nhiên, các khía cạnh 1 (vật liệu gốc), 4 (độ trưởng thành), 5 (thu hoạch) và 6
(hạng) luôn như nhau trong cả 2 trường hợp.
--------------------------------------

5


CHƯƠNG 2
THỨC ĂN NĂNG LƯỢNG
Thức ăn năng lượng (energy feeds) thường được dùng trong các khẩu phần nuôi heo và
gia cầm từ 60-90% nên còn gọi là thức ăn cơ bản (Basal feeds). Theo phân loại đó là
những thức ăn có hàm lượng protein thô dưới 20% và xơ thô dưới 18% (tính theo vật chất
khô). Thường dùng nhất là các loại hạt ngũ cốc và các phụ phẩm chế biến chúng. Các
loại khoai giàu tinh bột như khoai mì cũng khá quen thuộc. Tùy theo địa phương mà sản
phẩm phụ của việc chế biến nông sản cũng được dùng làm nguồn cung cấp năng lượng
cho gia súc, gia cầm như mật đường, hèm rượu, bã BIA ...
2.1. ÐẶC ÐIỂM VÀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG TỔNG QUÁT

2.1.1. Hạt ngũ cốc
Ðây là thức ăn tinh giàu carbohydrate, thành phần chính của chất khô là tinh bột của nội
nhũ. Hàm lượng vật chất khô của hạt tùy vào phương cách thu hoạch và các điều kiện tồn

trữ, nhưng thông thường trong khoảng 80-90%.
Hạt cấu tạo bởi 3 phần chính: vỏ, phôi và nội nhũ. Tỷ lệ giữa vỏ, phôi và nội nhũ thay đổi
tùy theo loại ngũ cốc.

Bảng 2.1. Tỷ lệ vỏ, phôi và nội nhũ (% trọng lượng)
Loại hạt Vỏ Phôi Nội nhũ
Lúa 16-27 2-2,5 72
Bắp 5-8,5 10-15 79-83
Lúa mì 15-19 2,8-3,2 77-82
1. Protein: 85-90% hợp chất có nitơ ở hạt ngũ cốc là protein thuần và tập trung nhiều nhất
trong phôi và lớp aleuron, do vậy cám gạo, cám lúa mì thường có hàm lượng CP cao hơn
hạt nguyên. Trong nội nhũ, nồng độ protein tăng từ giữa ra vùng ngoại vi. Hàm lượng
protein trong hạt ngũ cốc rất biến động, thường từ 8-12% mặc dù có một vài giống lúa mì
có thể đạt đến 22%. Protein của chúng khiếm khuyết một số acid amin không thể thay
thế, đặc biệt là lysin mà methionin. Giá trị protein đối vời gà con đang tăng trưởng giảm
dần theo thứ tự yến mạch, đại mạch, bắp hoặc lúa mì cũng do mức độ giới hạn về acid

6


amin. Giá trị tương đối cao của protein yến mạch đối với sự tăng trưởng phụ thuộc vào
hàm lượng lysin cao không đáng kể của nó.
2. Béo: hàm lượng béo của hạt ngũ cốc biến động tùy theo loài, yến mạch giàu béo nhất
(4-6%) và lúa mì ít béo nhất (1-2%). Phôi mầm CHỨA CHẤT BÉO NHIỀU HƠN NỘI
NHŨ. Ở lúa mì, phôi có từ 100-170g chất béo/kg trong khi nội nhũ chỉ có 10-20 g/kg.
Dầu của hạt ngũ cốc đều chưa bảo hòa, các acid béo chính là acid limoleic và oleic, và vì
thế chúng rất dễ bị ôi do oxy hóa cũng như làm cho mỡ động vật nhão. Ðiều này thể hiện
rõ khi nuôi bằng yến mạch và bắp, những loại hạt chứa chất béo 2 lần nhiều hơn đại mạch
và lúa mì.
3. Chất xơ: hàm lượng xơ thô cao ở những loại hạt có vỏ trấu như yến mạch và lúa và

thấp nhất ở các loại hạt "trần" như lúa mì và bắp. Vỏ trấu có một ảnh hưởng xấu đến hạt
nguyên và làm giảm giá trị năng lượng một cách tỷ lệ. Trong các loại hạt ngũ cốc, yến
mạch có mức năng lượng trao đổi thấp nhất và bắp cao nhất, thí dụ đối với gia cầm lần
lượt là 10 và 13,8 Mj/kg (hay 2400 và 3300 kcal/kg).
4. Chiết chất không đạm: chủ yếu là tinh bột. Tinh bột chứa trong nội nhũ của hạt dưới
dạng các lạp, kích thước và hình dạng của chúng thay đổi tùy theo loài. Tinh bột của hạt
ngũ cốc khoảng 25% amylose và 75% amylopectin, các loại tinh bột "dẻo" (như nếp)
chứa lượng amylopectin nhiều hơn.
5. Chất khoáng: ngũ cốc đều khiếm khuyết về calci, thường chứa ít hơn 0,15%. Hàm
lượng phospho cao hơn, từ 0,3-0,5%, nhưng một bộ phận hiện diện dưới dạng phytat do
đó làm giảm giá trị hữu dụng của P phytat có tính chất có thể làm bất động calci và có lẽ
cả Mg của khẩu phần, phytat của yến mạch hữu dụng hơn so với của đại mạch, lúa mì.
6. Vitamin: hạt ngũ cốc nghèo vitamin D và tiền vitamin A (ngoại trừ bắp vàng). Chúng
là nguồn vitamin E và B1 tốt nhưng hàm lương vitamin B2 tương đối thấp. Phần lớn các
vitamin tập trung trong lớp aleuron và mầm hạt, cho nên cám rất giàu vitamin, đặc biệt là
thiamin.
Chất lượng của hạt ngũ cốc dùng làm thức ăn cũng thay đổi tùy theo trọng lượng riêng
(g/lít) của hạt. Hạt to và trung bình có giá trị dinh dưỡng cao hơn, thường người ta không
dùng hạt nhỏ (lép) để nuôi gà thịt hoặc gà trứng cao sản. Thí dụ, trọng lượng riêng của
lúa miến biến động từ 670-730 g/l, của bắp từ 680-820 g/l và được xếp là hạt to khi 1 lít
nặng hơn 700 g, hạt trung bình từ 650-700 g và hạt nhỏ khi dưới 650 g.
Heo và gia cầm phụ thuộc vào hạt ngũ cốc và phụ phẩm xay XÁT LÀM NGUỒN NĂNG
LƯỢNG CHÍNH. Ở một số giai đoạn sinh trưởng, tỷ lệ này có thể lên đến 90% trong
khẩu phần. Tuy là thành phần chủ yếu của khẩu phần thức ăn tinh nhưng hạt ngũ cốc
chiếm một tỷ lệ rất thấp trong toàn bộ tiêu chuẩn ăn của gia súc nhai lại.
2.1.2. Khoai củ và những thực liệu khác.
2.1.2. a. Củ (root):

7



Các đặc điểm chính của củ là nhiều nước (75-94%) và ít xơ (4-13% VCK). Chất hữu cơ
chủ yếu của củ là các loại đường (của cải thức ăn 600-700 g/kg VCK, củ cải đường 650750) và tỷ lệ tiêu hóa cao (80-87%). Nói chung các loại củ đều nghèo protein mặc dù
cũng như các loại hoa màu khác, thành phần này có thể bị ảnh hưởng do việc bón phân
N. Hàm lượng protein có thể biến động từ 4-8% tính trên VCK. Thành phần và giá trị
dinh dưỡng cũng thay đổi theo kích thước củ.
2.1.2.b . Khoai (Tuber)
Khoai khác củ là có chứa tinh bột hay fructan thay vì sucrose làm nguồn carbohydrate dự
trữ. Chúng có hàm lượng chất khô cao hơn và xơ thấp hơn vì vậy thích hợp hơn củ khi
dùng làm thức ăn thay thế hạt ngũ cốc cho heo và gia cầm. Hàm lượng cũng như chất
lượng của protein, vitamin, khoáng không đáng kể. Cũng như trường hợp củ, thành phần
và giá trị dinh dưỡng của các loại khoai cũng biến động theo cở củ.
2.1.2. c. Mật đường và nước ép đường
Trong chăn nuôi việc sử dụng mật đường làm nguồn thức ăn năng lượng là khá phổ biến.
Ngòai ra ở những vùng sản xuất đường quan trọng, nếu có lãi thì nước ép tươi hoặc cô lại
từ mía hoặc củ cải đường cũng được sử dụng trong chăn nuôi. Ðôi khi đây là một giải
pháp có lợi nếu giá đường thực phẩm sụt giảm và tiêu thụ không hết. Mật đường có hàm
lượng chất khô khoảng 70-75%, đường chiếm khoảng 50%. Mật đường rất nghèo protein,
ở mật đường củ cải chỉ có 2-4% và phần lớn là các hợp chất nitơ phi protein trong đó
chứa amin, betain, chất này có khả năng TẠO MÙI "CÁ" KHÓ CHỊU TRONG SỮA.
2.2. CÁC LOẠI THỨC ĂN NĂNG LƯỢNG DÙNG PHỔ BIÉN

2.2.1. Thóc và các phụ phẩm
Lúa nước là cây trồng chính ở nước ta và là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu cho con
người, đồng thời cũng là nguồn thức ăn năng lượng quan trọng cho gia súc, gia cầm dưới
dạng các phụ phẩm xay xát như tấm cám và phần nhỏ là thóc trong chăn nuôi gia cầm
(nhất là chăn nuôi vì trong người dân).
2.2.1.a. Thóc
Thóc chỉ được sử dụng nguyên dạng trong chăn nuôi vịt chạy đồng, một lượng rất nhỏ
trong chăn nuôi gà gia đình. Ðôi khi thóc ẩm mục không thích hợp cho xay xát cũng

được nghiền nuôi heo thay thế một phần tấm cám. Cần lưu ý ảnh hưởng gây xay xát cơ
giới thành ống tiêu hóa do vỏ trấu nghiền.

Bảng 2.3. Thành phần dinh dưỡng (%) của thóc
VCK Ðạm thô Béo thô Xơ thô Ca P TDN

8


88,6 8,48 6,13 7,97 0,22 0,12 74,79
Theo Piccioni hàm lượng P dưới dạng phytat chiếm đến 61%.
Theo Usuelli hàm lượng các acid amin của thóc khá hơn của lúa mì, tính theo % protein
như sau: lysin (3,2/2,7), trytophan (1,3/1,2), methionin (3,4/2,0), cystin (1,4/1,3), histidin
(1,5/1,5), phenylalanin (6,3/5,7).
2.2. Các phụ phẩm: quan trọng nhất là các phụ phẩm xay xát. Theo số liệu của công
nghiệp xay xát, bình quân từ 100 kg thóc ta có được: 19 kg trấu; 7,2 kg cám to và mịn;
0,8 kg phôi; 6,2 kg tấm; 0,8 kg bột vụn và 66 kg gạo chuốt (bóng). Trong 7,2 kg cám thì
cám 1 là 3,7 kg, cám 2 là 1,5 kg và cám 3 là 2 kg. Tỷ lệ gạo lẫn tấm đạt 70-72%, cám 58% và 20-22% trấu.
2.2.1.B. CÁM GẠO: Ở ta hiện nay có khuynh hướng phân làm 2 loại cám: cám to (rice
bran) có được sau quá trình tách trấu để có gạo sô (lức, brown rice), và cám mịn (rice
polishing) có được sau khi đánh bóng gạo thành gạo thương phẩm (polished rice). Ðôi
khi người ta gộp chung cả 2 loại thành cám gạo để sử dụng trong chăn nuôi hoặc chế biến
dầu cám. Thuật ngữ rice bran cũng được dùng để chỉ cám gạo nói chung.
Khuynh hướng chung của thế giới là tăng khối lượng cám được ép hoặc trích ly dầu. Dầu
cám được ưa chuộng trong công nghệ thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm nhờ hàm
lượng acid lioleic cao hơn hẳn đến 35%. Bánh dầu cám có hàm lượng đạm cao, ít béo
(75% là các acid béo chưa no như linoleic và cleic) nên thuận lợi trong việc bảo quản và
sử dụng. Hàm lượng chất béo của cám gạo ở nước ta đạt 14-15%.
Thóc rất dễ dự trữ nhưng sau khi xay xát enzym lipolytic (phân giải chất béo) trở nên
hoạt động do đó làm tăng nhanh hàm lượng acid béo tự do (chưa no). Có thể ngăn chặn

mức độ này bằng xử lý nhiệt ngay sau khi xay xát. Có thể sử dụng hơi nước nóng 100oC
trong 4-5 phút để làm chậm quá trình này, cũng có thể sấy trống quay ở 200oC trong 10
phút, hoặc làm giảm ẩm độ xuống dưới 4%. Các chất ức chế hóa học tỏ ra không có hiệu
quả.
Cám gạo là một thức ăn giàu vitamin nhóm B và rất hấp dẫn đối với mọi vật nuôi. Tuy
nhiên chất béo của nó có ảnh hưởng là nhão mỡ vật nuôi và mềm bơ sữa. Vì vậy nếu chú
ý đến hàm lượng dầu của cám thì đây là một loại thức ăn có giá trị cho tất cả các gia súc,
gia cầm ở vùng nhiệt đới. Lượng tối đa trong khẩu phần của bò là 40%. Ở HEO KHÔNG
NÊN VƯỢT QUÁ 30-40% KHẨU phần để tránh thịt nhão và nên giảm thấp ở những
tuần cuối trước khi xuất chuồng. Có thể đưa vào khẩu phần của gia cầm đến 25% và
trong thí nghiệm cũng đã thành công với tỷ lệ cao gấp đôi. Cám chưa khử béo là một chất
phối hợp thông dụng trong các hỗn hợp trộn sẵn. Cám gạo thường bị trộn lẫn với vỏ trấu
nên hàm lượng xơ thô lên đến 10-15%. Khi cám chứa một lượng lớn vụn trấu thì tên
thương mại của nó là "rice mill feed" (cám bổi), có giá trị dinh dưỡng thấp hơn nhiều.
Cám lau được sử dụng rộng rãi hơn cám gạo và ít xơ hơn. Nó được dùng trong các khẩu
phần nuôi heo, gà nhưng sử dụng giới hạn ở heo con theo mẹ vì có thể gây tiêu chảy. Do

9


hàm lượng béo cao nên cũng phải sử dụng hạn chế trước khi hạ thịt. Có thể sử dụng đến 5
kg trong khẩu phần nuôi bò sữa.
2.2.1.c. Tấm (broken rice, brewers rice): tấm được tách ra sau quá trình đánh bóng và có
giá trị tương đương với gạo lau. Gạo chứa càng nhiều tấm thì giá trị càng hạ nên tùy theo
nhu cầu tiêu thụ của con người mà tỷ lệ tấm xuất dùng trong chăn nuôi thay đổi.
Tấm là một thực liệu ngon miệng, giàu năng lượng nên được ưa dùng cho mọi hạng vật
nuôi, đặc biệt nhờ giàu năng lượng và ít xơ nên rất có giá trị trong khẩu phần nuôi gà
đang lớn.

Bảng 3.4. Thành phần dinh dưỡng của cám, tấm, gạo.

Thành phần Cám gạo Tấm Cám to Cám mịn Tấm
VCK, % 88,0 88,0 88,0 89,9 92,2
Protein thô, % 12,0 8,0 9,5 12,6 8,6
Béo thô, % 12,0 0,9 6,7 11,6 1,3
Xơ thô, % 11,0 1,0 10,2 5,1 2,5
Ca, % 0,06 0,03 0,26 0,27 0,18
P, % 0,47 0,04 0,59 1,63 0,15
Lysin, % 0,55 0,27
Met + Cys, % 0,50 0,32
Trytophan, % 0,10 0,10
Thremin,% 0,40 0,40
ME - heo (kcal/kg) 3120 3596
ME - gà (kcal/kg) 2710 3500
TDN, % 59,73 78,82 76,94
2.2.1.d. Bắp (corn, maize)

10


Có nhiều giống bắp được trồng nhưng các loại bắp đá (flimt, round maize) và bắp răng
ngựa (dent, horsetooth maize) là phổ biến trong chăn nuôi.
Bắp hạt là thực liệu giàu carbohydrate dễ tiêu hóa và được dùng để nuôi các hạng gia súc,
gia cầm, tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ đạt đến 90%. Thành phần hóa học trung bình, tính
theo % VCK, trong số đó: protein 8,5-10,3; chất béo 4-4,3; xơ thô 3,5-4,3; chiết chất
không đạm 64,8 và tro 1,97.
Trên một đơn vị thức ăn (2500 kcal) chỉ có 57-60 g protein tiêu hóa, protein này lại
nghèo lysin, methiomin và tryptophan. Khiếm khuyết Ca và một số khoáng chất, vitamin
(đặc biệt nhóm B và caroten) do đó cần phải sử dụng phối hợp bắp chung với các thức ăn
khác nhằm đảm bảo dinh dưỡng động vật nuôi, cân đối về protein, các chất khoáng và
vitamin.

Các loại bắp vàng chứa từ 1,5-9 mg caroten/kg là thành phần không thể thiếu được trong
tất cả các loại thức ăn hỗn hợp.
Các loại bắp này lại giàu lysin chứa lượng lysin cao gấp 1,5-1,8 lần so với bắp thường và
có thể đạt tới 4,6-5,4% tính theo protein, do đó có giá trị sinh học cao hơn bắp thường
dẫn đến việc có thể giảm tỷ lệ dùng trong khẩu phần. Các nghiên cứu cho thấy có thể tiết
kiệm 18-25% protein trong nuôi vỗ heo ở giai đoạn đầu và 10-35% ở giai đoạn sau. Có
thể dùng bắp giàu lysin để thay thế 3% bánh dầu đậu nành, tăng tỷ lệ nạc thêm 2% ở quày
thịt heo mà các chỉ tiêu khác như tăng trọng, tiêu tốn thức ăn tương đương với khẩu phần
đối chứng. Hai dòng bắp lai giàu lysin là Opaque và Floury 2 có thành phần hóa học
tương tự nhau trong hạt của Floury 2 mềm hơn. Hàm lượng protein và khoáng trong bắp
giàu lysin hơi thấp hơn, nhưng béo và xơ thì cao hơn so với bắp thường.
Bắp thường được cho ăn dưới dạng nghiền: nghiền thô cho trâu bò, cừu và mịn cho heo
và mảnh cho gia cầm. Bắp nghiền rất dễ bị hỏng so với hạt nguyên, do đó chỉ nên nghiền
trước trong thời gian ngắn (không quá 2 tháng). Chế biến bằng cách rang, cán ép, hấp ép
... có thể làm tỷ lệ tiêu hóa và mức ngon năn của bắp. Hấp ép (flaking) là phương pháp rất
phổ biến hạt được hấp bằng hơi nước rồi cho qua trục cán khi còn đang nóng và mềm.
Bắp hấp đi qua ống tiêu hóa nhanh hơn khoảng 25% tỷ lệ tiêu hóa cao hơn chừng 5% và
ngon hơn. Tuy vậy, không thể tồn trữ bắp hấp lâu trước khi cho ăn.
Do hàm lượng dầu khá nên không thể sử dụng nhiều bắp trong khẩu phần vỗ béo vì làm
mỡ mềm. Ngoài ra, bắp vàng có sắc tố crytozanthin cũng ảnh hưởng vàng mỡ heo nhưng
lại rất có giá trị trong khẩu phần nuôi gà thịt, lẫn gà trứng.

Bảng 3.5. Thành phần dinh dưỡng (%) của bắp hạt

11


2.2.1.e. Lúa miến = cao lương (Sorgho)
Theo thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng thì các loại lúa miến rất gần với bắp,
nhưng nhiều protein và hơi ít béo. Nếu được bổ sung thích hợp, lúa miến rất tốt cho tất cả

các loại vật nuôi. Lớp sáp bao quanh hạt là khó được tiêu hóa, kể cả khi cho trâu bò ăn
hạt nguyên. Nghiền là biện pháp đơn giản nhất, rẻ tiền để chế biến hạt nuôi bò. Các
phương pháp khác bao gồm cám khô, cám dùng hơi nước, hấp-cán và làm nổ cho sản
phẩm cuối cùng có độ tiêu hóa khác nhau. Hạt nguyên cũng có thể được dùng nuôi heo,
gia cầm, nhưng nghiền mảnh hoặc hơi mịn thì tốt hơn, đặc biệt đối với trường hợp hạt
quá nhỏ hoặc quá khô. Nông dân Nam bộ có kinh nghiệm xát hạt để loại vỏ bằng máy
chà gạo mini, vừa nâng cao tỷ lệ tiêu hóa, vừa tăng tính ngon miệng vì đã loại bỏ lớp vỏ
hạt thường chứa nhiều tanin.
Khi sử dụng lúa miến để thay thế bắp cần nhớ là nó khiếm khuyết caroten, điều này có
thể khắc phục bằng cách dùng 3% bột cỏ.

Bảng 2.6. Thành phần dinh dưỡng (%) của lúa miến hạt
Thành phần Thái Lan Miền Nam
VCK 87,0 88,6
Ðạm thô 11,8 11,5
Béo thô 3,0 2,4
Xơ thô 2,5 0,4
Ca 0,04 0,12
P 0,1 0,3
Lysin 0,23
Met + Cys 0,27
Trytophan 0,1
Threonin 0,33
ME- heo (kcal/kg) 3140
ME- gà (kcal/kg) 3250

12


TDN (%) 79,78

2.2.1.f. Khoai mì = sắn (cassava)
Củ khoai mì thường được dùng để sản xuất tinh bột chất lượng cao, dù vậy củ vẫn được
sử dụng cho bò, heo và gia cầm ăn dưới dạng thô hoặc tươi. Thường dùng nhất là ở dạng
xắt lát hoặc khúc phơi khô, khi dùng đem nghiền thành bột. Ðây là một thực liệu khá phổ
biến trong thức ăn hỗn hợp, kể cả những nước ôn đới phải nhập khẩu. Bột khoai thương
mại có độ ẩm 12,5 - 13,5%; protein 1,8-3%; béo 0,3-0,4%; xơ 1,5-4,2%; chiết chất không
đạm 76-81,5% trong đó tinh bột đến 68%; ít khoáng chất 1,3-3,3% trong đó Ca 0,07 0,09 và P 0,05 - 0,09%.
Các dưỡng chất của khoai mì dễ tiêu hóa. Hàm lượng ME biến động từ 13,5-18,05
MJ/kg, tương đương với 1-1,4 ÐVTA.
Protein khoai mì chứa 3,5% lysin; 1% methionin; 0,6% cystin; 0,6% trytophan. Trong 1
kg có 550 UI vitamin; 1,6 mg thiamin; 0,8 mg riboflavin; rất nghèo các acid béo thiết
yếu. Khoai mì chứa 2 glucosid có gốc - C = N là linamarin và lotaustralin, chúng dễ bị
phân hủy phóng thích ra các acid cyanhydric gây ngộ ÐỘC CHO GIA SÚC. Ở VẬT
NON, trao đổi chất khoáng bị vi phạm và giảm năng suất. Những phương pháp xử lý có
thể là hấp, bào nạo và vắt, hoặc xay nghiền thành bột và sau đó đem ép.
Khoai mì được dùng chủ yếu nuôi gia súc lớn có sừng. Trong khẩu phần có thể dùng
không quá 10% để nuôi gia cầm, không quá 40% nuôi heo và 40-70% tính theo giá trị
năng lượng của khẩu phần để nuôi vỗ trâu bò. Việc cân đối các dưỡng chất cần phải được
chú ý.
2.2.1.g. Khoai lang (Sweet potato)
Củ khoai lang dễ tiêu hóa và là một thực liệu cung cấp năng lượng rất tốt. Củ tươi rất phù
hợp khẩu vị của bò. Thức ăn tinh dặm thêm của bò sữa có thể gồm 50% khoai lang xắt lát
khô, 25% bắp, 25% mật đường và urê. Củ tươi có thể thay thế 30-50% tỷ lệ thức ăn hạt
trong các khẩu phần của heo. Nấu làm gia tăng giá trị sử dụng của khoai lang. Do phải
dùng khoai tươi với lượng lớn nên sử dụng cho heo trưởng thành tốt hơn. Khoai lang có
giá trị thức ăn tương đương 90% so với bắp khi chúng chiếm đến 60% khẩu phần. Chăn
thả giới hạn heo nái trên ruộng khoai rất tiện lợi. Kèm theo chăn thả người ta cho nái ăn
thêm 0,5 kg thức ăn bổ sung protein hàm lượng cao, nhưng chú ý heo nái dễ bị mập mỡ.
Quày thịt của heo ăn khoai lang săn chắc. Bột khoai lang có thể đưa vào khẩu phần gia
cầm đến 50%, nếu có bổ sung protein thích hợp cho kết quả tốt.


13


Bảng 3.7. Thành phần dinh dưỡng (%) của khoai mì, khoai lang

2.2.1.h. Mật đường mía (Sugarcane molasses)
Có nhiều loại mật đường nhưng thuật ngữ dùng có khi không thống nhất với nhau. Bảng
sau đây cho biết thành phần % trung bình của các loại đường trong các loại mật đường
khác nhau. Thực tế thì hàm lượng này thay đổi tùy theo nơi sản xuất.
Ðường tổng số Sucrose Ðường khử
Nước mía cô đặc 90 75 25
Mật A 68 60 40
Mật B 57 50 50
Mật cuối (Blackstrap) 47 40 60
Mật high-test 78 30 70
Ðường thô 99 98 1
Mật cuối là phụ phẩm khi đã trích tối đa đường. Thông thường nói đến mật tức là đề cập
đến mật cuối. Ðộ Brix thường từ 80-90. Trong dinh dưỡng, mật cuối được pha loãng với
nước để đạt tiêu chuẩn 79,50 Brix, khi đó 1 lít mật nặng 1,39 kg.
Trong nuôi dưỡng trâu bò không có sự khác biệt lớn giữa các loại mật. Mật high-test và
mật A được khuyến cáo sử dụng nếu dùng với tỷ lệ cao trong các khẩu phần nuôi heo, gà,
còn nếu dùng mật cuối thì nên trộn thêm tối thiểu 30% sucrose. Giá trị sử dụng của mật B
cho heo ở giữa mật A và mật cuối.
Có 4 cách sử dụng mật chính:
- Với thức ăn khô: thêm mật vào để tăng tính ngon miệng, giảm độ bụi hoặc làm chất kết
dính trong thức ăn viên. Mật có thể thay thế một phần thức ăn mắc tiền hơn. Mức sử dụng
trong thức ăn trộn sẵn thương phẩm: trâu bò 15%, bê nghé 8%, heo 15% và gà 5%. Mức
sử dụng tối đa thường được xác định bởi khả năng hấp thu của mật đường bởi các thực
liệu khác trong khẩu phần.

- Trong thức ăn ủ chua: thường dùng 5% khi ủ cỏ nhằm cung cấp nguồn carbohydrate dễ
tiêu để đẩy nhanh quá trình lên men acid lactic.

14


- Làm chất mang urê dưới dạng thức ăn bổ sung lỏng cho gia súc nhai lại: tỷ lệ urê trộn
vào khoảng 10% hay hơn và cho ăn ở mức thấp, thường khoảng 0,5 kg/ngày.
- Dùng ở mức cao để sử dụng mật tối đa: rất quan trọng ở những vùng trồng mía lớn lại
thiếu thức ăn hạt.
Khi dùng với tỷ lệ lớn, mật đường có thể gây độc. Các triệu chứng ngộ độc là thân nhiệt
giảm, yếu ớt và thở nhanh. Có thể chữa cho bò khỏi bằng cách ngưng cho ăn vài ngày và
cho uống nhiều nước giàu phospho và natri.
Tỷ lệ cao mật cuối trong khẩu phần là nguyên nhân gây ra tiêu chảy ở heo và gia cầm,
nguyên nhân có thể giải thích là do hàm lượng khoáng cao trong mật cuối. Theo tài liệu
trích dẫn bởi Bo Gohl (1981) thì với tỷ lệ 6% trong khẩu phần tập ăn, 12% sau cai sữa
đến 30 kg, 20% khi heo có thể trọng 30-45%, 30% trong khẩu phần vỗ béo heo từ 45-70
kg và đến 40% với heo 70-100 kg có thể đạt tăng trọng hàng ngày 0,6 kg, hệ số chuyển
hóa thức ăn 4:1, NẾU KHẨU PHẦN ÐƯỢC CÂN ÐỐI TỐT. Ở gà cũng vậy, gia tăng tỷ
lệ mật lên thì phân đi lỏng và tiêu tốn thức ăn tăng lên. Tuy vậy, nhiều kết quả hứa hẹn
đạt được ở Cuba. Một khẩu phần lỏng 54% mật high-test, 13% bột cá, 27% nấm men, 3%
bột cỏ alfalfa, 1,5% dầu hướng dương và premix khoáng - vitamin cho hệ số chuyển hóa
T¡ 3:1. Trước khi cho ăn pha loãng với một nửa lượng nước. Có thể thay mật high-test
bằng hỗn hợp 25% mật cuối và 75% đường thô.
2.2.1.i. Mỡ động vật
Mức tiêu hóa của mỡ động vật ở độc vị khoảng 80% và đối với đa vị là 85%. Giá trị năng
lượng theo VCK lên đến 190% TDN cho đa vị và 180% TDN đối với heo. Ngoài việc
làm giảm độ bụi hoặc làm chất kết dính trong thức ăn viên, mỡ động vật thứ phẩm là
nguồn cung cấp năng lượng rất quan trọng. Người ta thường dùng nó làm khẩu phần heo
gà để giải quyết bài toán năng lượng, tuy nhiên cần lưu ý cân đối protein và một số chất

khác như khoáng và vitamin.
Dầu thực vật như dầu cọ, dầu dừa cũng được chú ý đến.
----------------------------------------------

CHƯƠNG 3
THỨC ĂN BỔ SUNG PROTEIN
Thức ăn bổ sung protein (protein supplements) là những thực liệu hoặc hỗn hợp thực liệu
chứa từ 20% protein thô (tính theo VCK) trở lên. Trong chăn nuôi thường dùng nhất là
các loại bánh dầu, bột cá, bột thịt xương, bột sữa gạn kem, nấm men, tảo. Hạt đậu T¡GS
cũng được ưa chuộng trong khẩu phần. Trước kia cho đến nay, trên qui mô toàn thế giới
nói chung, nước ta nói riêng, sự thiếu hụt thức ăn protein rất LỚN THỂ HIỆN DƯỚI
NHIỀU MỨC ÐỘ KHÁC NHAU, TÙY NƠI.
15


3.1. ÐẠI CƯƠNG VÀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG TỔNG QUÁT

Có thể chia thức ăn bổ sung protein thành 3 nhóm dựa theo nguồn gốc: thực vật, động vật
và vi sinh vật.
3.1.1. Thức ăn protein gốc thực vật
Hiện nay sản lượng thức ăn protein gốc thực vật chiếm tỷ lệ lớn nhất, đơn giá tính theo %
CP nói chung là rẽ nhất, do vậy chúng chiếm một tỷ lệ quan trọng trong khẩu phần của
các loại gia súc, gia cầm trung bình khoảng 10-20%.
Các loại thức ăn protein thực vật phổ biến nhất là bánh dầu và hạt T¡GS. Trong một số
trường hợp có thể xem các loại bột cỏ chất lượng cao là thức ăn bổ sung protein.
Hàm lượng protein thô trong các loại bánh dầu biến động từ 20-50%, còn trong hạt T¡GS
từ 20-30%, cá biệt trong đậu nành trên dưới 40%. Tuy vậy bánh dầu đậu nành lại được ưa
chuộng hơn do hàm lượng béo trong hạt khá cao (16-21%). Nếu lấy giá trị sinh học làm
tiêu chuẩn so sánh phẩm chất của protein thì protein của bánh dầu cao đáng kể so với hạt
ngũ cốc. Một số loại bánh dầu gần đạt so với protein động vật, như bột cá hoặc bột thịt

loại thường. Một vài loại bánh dầu có phẩm chất kém xa các protein động vật cao cấp
như sữa hoặc trứng (bảng 4.1.). Các chỉ tiêu đánh giá khác như chỉ số hiệu năng protein
và giá trị protein thô cho thấy phẩm chất tốt của protein bánh dầu, nhưng điểm số hóa học
lại thấp.
3.1.2. Thức ăn protein gốc động vật
Ngoài sữa nguyên dùng nuôi vật non trong giai đoạn sơ sinh các loại thức ăn protein
động vật dùng phổ biến nhất là bột sữa gạn kem, bột cá, bột thịt xương, bột huyết...
Ðặc điểm chung của nhóm thức ăn này là đắt tiền, mức sản xuất còn thấp xa so với nhu
cầu thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như ở nước ta. Về mặt giá trị dinh
dưỡng thì chúng có hàm lượng acid amin không thể thay thế được như: lysin, methionin,
trytophan và threonin tương đối cao, hàm lượng CP cao nhưng biến động tùy loại và
phẩm hạng, có thể thay đổi từ 35% (bột sữa gạn kem) đến 80% (bột huyết).

Bảng 3.1.Giá trị dinh dưỡng của một số protein của thức ăn gia súc (McDonald,
1981)
Thực liệu BV (chuột) Ðiểm số Tỷ số hiệu năng Giá trị protein thô
hóa học protein (chuột) (gà con)
Yến mạch 0,65 0,46 - 16


Lúa mì 0,67 0,37 1,5 Bắp 0,55 0,28 1,2 BD bông vải 0,88 0,37 2,0 0,77
BD phọng 0,58 0,24 1,7 0,48
BD đậu nành 0,75 0,49 2,3 0,79
Bột cá trắng 0,77 - - 1,02
Sữa 0,85 0,69 2,8 0,90
Trứng nguyên0,95 1,00 3,8 -

Do giá thành đắt nhưng chất lượng cao, thức ăn động vật thường dùng trong khẩu phần
khoảng 5-15% nhằm giải quyết 2 vấn đề (1) nâng cao hàm lượng CP cho đạt yêu cầu tiêu
chuẩn ăn, và (2) cân đối thành phần acid amin của khẩu phần. Riêng trong tình hình của

ta hiện nay thức ăn protein động vật sản xuất trong nước hoặc nhấp khẩu đều đắt tiền và
số lượng còn quá ít không đáp ứng nhu cầu, do đó nên ưu tiên dành loại thức ăn có chất
lượng cao này cho gia súc, gia cầm non có nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao, hoặc để sản
xuất các sản phẩm cao giá (thịt gà, trứng gà công nghiệp).
Một điều cần lưu ý nữa là trong thức ăn protein động vật có chứa một yếu tố kích thích
tăng trưởng ở vật non gọi là yếu tố protein động vật (APF), do vậy chúng thể thiếu trong
khẩu phần của vật non, kể cả bê nghé.
Các thức ăn động vật tự nhiên như hào hến, côn trùng, sâu bọ, giun đất cũng là nguồn
thức ăn quan trọng trong chăn nuôi gia đình, và kể cả chăn nuôi tập trung như vịt đàn thời
vụ, nuôi giun đất.
3.1.3. Thức ăn protein vi sinh vật
Tính theo VCK thì hàm lượng protein thô chứa trong các nguồn vi sinh vật được nuôi cấy
rất cao. Ví dụ: ở tảo Spirulina, Chlorella hoặc protein đơn bào từ vi khuẩn hàm lượng này
có thể đạt từ 60-70%. Thành phần acid amin của chúng khá cân đối (tốt hơn so với thực
vật), giàu các vitamin (đặc biệt là vitamin nhóm B) và khoáng chất.
Ở CÁC NƯỚC công nghiệp, công nghệ vi sinh phát triển trên các phế phẩm giàu
carbohydrate từ chế biến gỗ, hạt, củ ...và trên carbur hydro của công nghiệp hóa dầu, nên
giá thành rẽ, do đó chúng được sử dụng với tỷ lệ khá cao trong khẩu phần, tạo điều kiện
giảm thấp tỷ lệ thức ăn protein động vật xuống nhằm hạ giá thành thức ăn.

17


Ở NƯỚC TA công nghệ sinh học còn non trẻ, nên sản phẩm làm ra chưa dùng đại trà làm
thức ăn gia súc do giá thành cao, đôi khi đắt hơn cả thức ăn động vật.
3.2. CÁC LOẠI THỨC ĂN PROTEIN DÙNG PHỔ BIẾN

3.2.1. Bánh dầu.
3.2.1.a. Ðại cương
Các loại hạt quả có dầu phần lớn có nguồn gốc nhiệt đới như đậu phọng, đậu nành, bông

vải, dừa, cọ dầu ... Có 2 phương pháp chính để lấy dầu: ép và trích ly bằng dung môi.
Phương pháp ép cơ học thường dùng cho những nguyên liệu có hàm lượng dầu cao như
dầu phọng, cơm dừa ... Phụ phẩm còn lại thường có hàm lượng béo khá cao (4-10%) và
được gọi là khô dầu (oil-seed cake), cứng.
Phương pháp trích ly bằng dung môi hoặc vừa ép, vừa trích ly để lấy gần hết dầu, thường
áp dụng cho các nguyên liệu có hàm lượng dầu trung bình hoặc ít (đôi khi cho cả nguyên
liệu chứa nhiều dầu và dầu có giá) như đậu nành, mè, hướng dương, đậu phọng... Phụ
phẩm thu được có hàm lượng béo rất thấp (1-3%) và được gọi là bả dầu (oil seed meals)
rời rạc.
Bánh dầu là một thuật ngữ được đề nghị gọi chung cho cả khô dầu và bả dầu, trong
trường hợp không có phân biệt cụ thể và oil seed meal là từ tương đương.
Một số loại hạt có vỏ dày hoặc vỏ cứng như đậu phọng chưa bóc vỏ trái, bông vải, hướng
dương... lớp vỏ này làm cho bánh dầu nhiều xơ và tỷ lệ dinh dưỡng kém đi dẫn đến giảm
giá trị dinh dưỡng. Nếu có thể nên tiến hành bóc loại vỏ trước khi lấy dầu, bánh dầu thu
được sẽ có giá trị cao hơn (bảng 4.2). Loại bánh dầu có chứa cả vỏ thường chỉ được dùng
để nuôi dưỡng gia súc nhai lại trưởng thành vì chúng sử dụng chất xơ hữu hiệu hơn.
Khoảng 95% nitơ trong bánh dầu là protein thuần. Bánh dầu có phẩm chất tốt thường có
tỷ lệ tiêu hóa từ 75-90%.

Bảng 3.3. Thành phần và giá trị dinh dưỡng của bánh dầu bông vải
(theo McDonald, 1981).
Chất lượng protein trong một loại hạt dầu có dầu cụ thể tương đối ổn định, nhưng các khô
dầu hoặc bả dầu dẫn xuất từ nó có thể thay đổi, tùy thuộc vào các điều kiện dùng đê lấy
dầu. Các mức nhiệt độ và áp suất cao của quá trình ép chiết có thể làm giảm thấp mức
tiêu hóa và biến chất protein, gây ra sự giảm cấp đáng kể của protein. Ðối với các gia súc
nhai lại một sự biến chất như thế có thể ích lợi cho hiển nhiên cho một giới hạn phối hợp
về sự giảm cấp. Nhiệt độ và áp suất cao cũng giúp kiểm soát hoặc hạ thấp các chất độc

18



hại như gossypol (ở bánh dầu bông vải), goitrin (bánh dầu đậu nành). Trích ly bằng dung
môi thì không phải ép, nhiệt độ sử dụng tương đối thấp do đó giá trị protein của bả dầu
gần như tương đương với hạt nguyên liệu.
Các loại hạt khô dầu chứa một hàm lượng năng lượng đáng kể trong khẩu phần, đặc biệt
đối với những loại có hàm lượng dầu cao. Ðiều này tùy thuộc vào cách chế biến và hiệu
quả của nó. Bánh dầu đậu nành ép có hàm lượng dầu 66g/kg VCK và ME tương ứng là
13 kj/kg VCK, so với 17 g dầu và 12,3 Mj/kg VCK ở bánh dầu đậu nành trích ly bằng
dung môi. Tuy nhiên, những vi phạm tiêu hóa có thể gây ảnh hưởng do việc sử dụng
không kiểm soát các loại bánh dầu giàu béo, và nếu chất béo chưa no thì mỡ sữa hoặc mỡ
của cơ thể có thể mềm và phẩm chất quày thịt hạ xuống.
Bánh dầu thường giàu Phospho 96,6-12,9 g/kg) nhưng lại chứa ít Calci (2,7-5,9 g/kg).
Chúng có thể cung cấp một lượng hữu dụng vitamin nhóm B (tính bằng mg/kg: B1 2,2 10,2; B2 3 - 6,8; acid pantothenic 8,3 - 14,9; cholin 1300 - 6700; PP 25 - 220 và B6 3,5 18; nhưng rất nghèo caroten, vitamin E (3-20 mg/kg) và D (2,5 - 5 mg/kg).
Các loại bánh dầu có thành phần các acid amin không cân đối, chúng thường thiếu hụt
trầm trọng một acid amin nào đó. Nói chung, protein của hạt có dầu chứa hàm lượng thấp
acid glutamic, cystein và methionin và thông thường thiếu một acid amin có giá trị đó là
lysin. Do vậy chúng không thể là một loại thức ăn protein thỏa mãn đầy đủ cho các khẩu
phần của động vật độc vị chủ yếu là hạt ngũ cốc, mà phải dùng phối hợp với một protein
động vật như bột cá.
3.2.1.b. Bánh dầu đậu nành.
Hạt đậu nành chứa từ 160-210 g dầu/kg, thường được ly trích bằng dung môi. Bã dầu
chứa khoảng 1% béo, là một trong những nguồn protein hữu hiệu nhất cho động vật.
Protein của nó chứa tất cả các acid amin không thay thế, nhưng hàm lượng cystin và
methionin còn dưới mức tối hảo. Methionin là acid amin giới hạn nhất và đặc biệt quan
trọng trong các khẩu phần giàu năng lượng.
Bã dầu đậu nành chứa một số độc tố, chất kích thích hoặc ức chế sinh trưởng bao gồm
các yếu tố gây dị ứng sinh bướu cổ và chống đông. Trong dinh dưỡng người ta đặc biệt
chú ý đến các chất ức chế protease mà 6 trong số đó đã được định danh. Hai trong số này
là yếu tố kháng trysin và chất ức chế chymotrysin là có ý nghĩa thực tiễn nhất. Các chất
ức chế protease của đậu nành thô hay bả dầu chưa qua xử lý nhiệt có ảnh hưởng làm

chậm tăng trưởng qua việc làm giảm tiêu hóa protein và cả PHÂN HỦY METHIONIN.
Ở GIA SÚC nhai lại ảnh hưởng của các chất ức chế không quan trọng, nhưng ở động vật
độc vị thì ngược lại. Xử lý nhiệt là phương pháp hữu hiệu để làm bất hoạt các chất ức
chế, nhưng thời gian và nhiệt độ phải được kiểm soát bởi vì thừa nhiệt sẽ làm giảm khả
năng hữu dụng của lysin và arginin, làm giảm giá trị của protein.
Bánh dầu đậu nành nghèo vitamin nhóm B cho nên nếu dùng với tỷ lệ cao mà không có
cách bố sung thích hợp thì nái sẽ đẻ con yếu ớt, heo con tăng trưởng chậm, năng suất sữa
giảm và heo nái già sẽ vận động khó khăn. Ðối với gà thì trứng có khả năng ấp nở thấp và

19


chất lượng gà con kém, dễ bị xuất huyết do thiếu hụt vitamin K. Bánh dầu đậu nành là
nguồn cung cấp Ca và P khá hơn hạt ngũ cốc. Khi dùng bánh dầu đậu nành để thay thế
phần lớn thức ăn protein động vật cần có sự bổ sung cân đối thích hợp, khi đó có thể
dùng đến 40% ở thức ăn hỗn hợp nuôi gà và 25% ở thức ăn nuôi heo. Thông thường tỷ lệ
sử dụng bả dầu đậu nành trong thức ăn hỗn hợp của heo trưởng thành, bò sữa, bò vỗ béo,
bò đực làm việc, cừu non tối đa 20%, bê 1-6 tháng tuổi 35%, thỏ 14% và cá nuôi 30%.
Ngoài ra, bả dầu đậu nành chứa khoảng 1 g genisteim/kg, chất này có tính chất của
oestrogen và hoạt tính bằng 4,44 x 10-6 DIETHYL-STILBOESTROL. ẢNH hưởng của
nó lên tăng trưởng hiện nay chưa được giải thích rõ.
Dầu trong đậu nành có tác dụng xổ nhẹ và tạo mỡ mềm. Bả dầu thì chứa dầu không đáng
kể nhưng vấn đề vừa nêu cần lưu ý khi sử dụng hạt dầu đậu nành nguyên trong cấu tạo
khẩu phần.

Bảng 3.4. Thành phần dinh dưỡng của bánh dầu đậu nành (%)
Thành phần Thái lan Miền Nam
Vật chất khô 90 86,1
Protein thô 44 42,5
Béo thô 1 7,4

Xơ thô 7 5,9
Ca 0,25 026
P 0,2 0,67
Lysin 2,73
Met + Cys 1,26
Trytophan 0,59
Threonin 1,72
ME heo 2825 kcal/kg
ME gà 2280 kcal/kg
TDN (%) 81,47

20


3.2.1.c. Bánh dầu phộng (khô lạc)
Hạt đậu phộng chứa từ 250-300 g CP/kg và 350-600 g béo/kg. Hiện nay bánh dầu thường
được làm từ nhân hạt, thỉnh thoảng từ nguyên. Bánh dầu ép chứa từ 5-10% dầu. Nếu hàm
lượng dầu trong hạt kém thì đầu tiên được ép và sau đó chiết xuất bằng dung môi. Thành
phần hóa học của bánh dầu phụ thuộc vào nguyên liệu và phương cách chiết được sử
dụng.
Protein của bánh dầu phộng ở mức tối hảo về Met + Cys mặc dù lysin là acid amin giới
hạn nhất. ở những động vật sinh trưởng nhanh như heo và gia cầm, trong khẩu phần có
nhiều ngũ cốc và phụ phẩm, việc sử dụng bánh dầu phộng phải kèm theo protein động vật
vừa cân đối lysin, vừa cung cấp thêm vitamin B12 và Ca.
Trong bánh dầu phộng cũng có chứa yếu tố kháng tripsin và yếu tố tăng trưởng, yếu tố
trước có hoạt tính kháng huyết tương (antiplasmin) nên rút ngắn thời gian chảy máu. Nó
dễ bị phân hủy bởi nhiệt.
Bánh dầu phộng rất dễ nhiễm nấm Aspergilus flavus, nấm này sản sinh ra độc tố
aflatoxin. Ðây là một phức chất gồm 4 loại aflatoxin: B1, G1, B2 và G2, trong đó B1 là
độc nhất. Gà tây và vịt con rất mẫn cảm với độc tố, bê và heo cũng mẫn cảm nhưng chuột

nhắt và cừu thì có tính kháng. Trong cùng loài, động vật non mẫn cảm hơn vật trưởng
thành. Bệnh tích chung là gan tổn thương, tăng sinh ống dẫn mật, gan hoại tử và trong
nhiều trường hợp có u gan. Thật vậy, aflatoxin là một độc tố gây hại cho gan và là một
chất gây ung thư rất hoạt động. Người ta đã ghi nhận được nhiều cái chết của bê dưới 6
tháng tuổi ăn phải bánh dầu phộng hư. Bò trưởng thành hơn thì có sức đề kháng cao hơn,
nhưng các trường hợp chết của bò sữa nuôi chuồng, bỏ ăn và năng suất sữa sụt giảm đã
được báo cáo. Các nồng độ khác nhau của aflatoxin trong sữa làm gia tăng mức nguy hại
nếu bánh dầu bị nhiễm mốc càng cao và có thể gây sụt giảm năng suất sữa đột ngột.
ẢNH HƯỞNG CỦA AFLATOXIN đến người tiêu dùng chưa được xác lập đầy đủ.
Aflatoxin tương đối bền vững với nhiệt và để loại chúng khỏi bánh dầu phải xử lý phức
tạp. Cách tốt nhất là phải bảo quản thích hợp để ngăn chặn nấm mốc phát triển. Hàm
lượng aflatoxin cho phép trong các loại T¡GS ở Anh là 0,05 mg/kg cho bò, cừu, dê (trừ
bò sữa, bê, cừu và dê con), không quá 0,02 mg/kg cho heo và gia cầm (trừ heo và gà con)
và không quá 0,01 mg/kg cho những loại thức ăn khác.
Bánh dầu phộng rất hấp dẫn đối với heo nhưng không nên vượt quá 25% khẩu phần do sẽ
làm mỡ mềm và có thể gây xổ nhẹ. Tỷ lệ giới hạn cũng được áp dụng cho bò sữa. Thông
thường tỷ lệ trong thức ăn hỗn hợp cho bò sữa, bò vỗ béo, bò đực làm việc, cừu non tối
đa 20%, bê 1-6 tháng tuổi 35%, cừu trưởng thành 30%, thỏ 15%, và cá nuôi 30%, còn các
hạng heo không quá 10%.

21


Bảng 3.5. Thành phần dinh dưỡng (%) của bánh dầu phộng
Thành phần Thái lan Miền Nam
Vật chất khô 90 92,26
Protein thô 50 39,41
Béo thô 1,5 10,88
Xơ thô 9,0 2,1
Ca 0,15 0,34

P 0,2 0,68
Lysin 1,7
Met + Cys 1,14
Trytophan 0,5
Threonin 1,29
ME heo 3260 kcal/kg
ME gà 2700 kcal/kg
TDN (%) 86,92
3.2.1.d. Bánh dầu dừa
Hàm lượng dầu trong bánh dầu dừa thường biến động từ 25-65 g/kg, bánh dầu có nhiều
béo hữu dụng trong việc phối hợp các khẩu phần cao năng lượng. Khô hoặc bả dầu dừa
dùng trong nuôi dưỡng động vật không để tồn trữ lâu và bị ôi vì nó gây ra tiêu chảy. Dầu
của dừa mau ôi không phải do bị oxid hóa (vì chứa ít acid béo chưa no) mà do hiện tượng
thủy phân xảy ra khi bị hút ẩm (cho ra các acid béo mạch ngắn tan trong nước và có mùi
vị rất khó chịu), hoặc do tác dụng của nấm mốc (phát triển khi có đủ ẩm độ) tạo nên các
ceton có mùi đặc trưng của dầu dừa ôi. Bánh dầu dừa rất dễ bị hút ẩm khi nghiền do đó
cần lưu ý trong tồn trữ. Nên tập ăn với số lượng tăng dần gia súc sẽ đáp ứng tốt hơn.
Bò sữa ăn bánh dầu dừa sẽ gia tăng tỷ lệ sữa, cho bơ cứng và có mùi thơm hấp dẫn.
Lượng sử dụng an toàn hàng ngày ở bò sữa từ 1,5-2 kg, những lượng cao hơn có thể tạo
ra bơ đặc (như mỡ). Bò thịt có thể tiêu thụ nhiều hơn mà không làm giảm chất lượng
quày thịt.

22


Do bánh dầu dừa nhiều xơ nên tỷ lệ sử dụng trong khẩu phần nuôi heo, gà bị giới hạn.
Tùy thuộc vào công thức khẩu phần có thể sử dụng BÁNH DẦU DỪA ÐẾN 25% Ở
HEO. Ở những vùng sản xuất nhiều cơm dừa người ta có thể sử dụng đến 50%, dĩ nhiên
với hiệu quả sử dụng thức ăn kém hơn. Bánh dầu dừa làm cho heo có mỡ cứng rắn hơn.
Thí nghiệm của V.Siriwathananukul và P.F.Alcantara tại viện chăn nuôi thuộc viện Ðại

Học Philippin (1986) trên heo thịt cho thấy khẩu phần có 40% BD dừa với sự bổ sung 4
axit amin thiết yếu: lysin, methionin, threonin và trytophan có thể thay thế 57% BD đậu
nành ở heo lứa và đến 100% ở giai đoạn nuôi vổ kết thúc.
BD ít dùng trong các khẩu phần gia cầm do đó khó khăn trong việc cân đối để đảm bảo
nhu cầu acid amin, năng lượng cao nhưng đồng thời ít xơ. Lysin được đặc biệt chú ý vì
hình như acid này bị phá hủy trong quá trình ép trục vít. Histidin cũng kém trong BD
dừa. Tuy nhiên đã có những khẩu phần chứa đến 40% BD dừa được thử nghiệm. Với sự
bổ sung cân đối lysin, methionin, tryptophan và threonin, cộng thêm sử dụng 5% dầu
dừa, L.JQuerubin và những nhà nghiên cứu cũng ở viện ÐH Philippin đã thành công
trong việc sử dụng đến 30% BD dừa để nuôi gà thịt từ 11628 ngày tuổi với 20% CP và từ
29-46 ngày với 16% CP.(Amin. Hush. and Agric. J., Jun 1989: 28,30,31,38,39,40,44).
BD bị nhiễm mốc không được sử dụng nuôi gia cầm.

Bảng 3.6: Thành phần dinh dưỡng của bánh dầu dừa (%)
3.2.1.d. Bánh dầu bông vải (Cottonseed meal).
Trong BD bông vải có chứa một aldehyd thơm có độc tính là gossypol, tuy nhiên thế liên
kết D-gossypol không độc BD bông có màu vàng xám chứa gossypol cao nhất. BD bông
có hàm lượng gossypol 0,1 - 0,2% có thể dùng trong khẩu phần thức ăn tinh của bò sữa
đến 20%, nhưng không quá 10% trong khẩu phần tinh của bê thịt.
Với hàm lượng gossipol không quá 0,06% thì có thể dùng cho heo đến 7%, nhưng nếu
gossipol tự do quá 0,1% thì không nên sử dụng. Bã dầu bông thích hợp cho gà hơn và
mức sử dụng không quá 6%. Lượng gossipol nếu có trong bánh dầu sẽ làm cho lòng đỏ
có màu xanh ô-liu.
3.2.1.e. Bánh dầu hướng dương (Sunflower-seed meal),ỡ bánh dầu mè (Sesame-seed
meal)
Bã dầu hướng dương (loại vỏ) có chất lượng cao hơn bánh dầu đậu nành nhưng kém hơn
bột sữa. Do giàu các acidamin-S nên rất được ưa chuộng đối với gia cầm. Bánh dầu từ hạt
bỏ vỏ thích hợp cho độc vị hơn, dùng tối đa trong khẩu phần của heo, gà là 10%, thỏ 25%
và cá nuôi 55%. Bánh dầu còn nguyên vỏ chỉ dùng cho gia súc nhai lại và không quá
20%.

Bánh dầu mè cũng được ưa chuộng nhờ chứa nhiều acidamin-S như hướng dương, do có
giá trị cao nên chỉ dùng cho độc vị, đặc biệt là ở gia cầm.

23


Bảng 3.7. Thành phần dinh dưỡng (%) của bánh dầu hướng dương và bánh dầu mè
ở Thái lan (Uthai Kanto, 1989).
Thành phần BD hướng dương BD mè (vừng)
ẩm độ 10,0 10,0
Protein thô 37,0 45,0
ME heo (kcal/kg) 2715 2560
ME gà (kcal/kg) 2310 2660
Béo thô 1,5 2,5
Xơ thô 18,0 7,0
Ca 0,03 2,0
P 0,3 0,4
Lysin 0,29 1,22
Met + Cys 1,36 2,1
Trytophan 0,47 0,6
Threonin 1,32 1,49
3.2.2. Hạt đỗ làm thức ăn gia súc
Phần lớn thuộc 2 họ phụ của họ Leguminosae là Vicieae và PHESEOLEAE. Ở CHÂU Á
PHỔ BIẾN CÁC LOẠI ÐẬU VÁN (DOLICHOS lablab), đậu ngựa (DN beflorus), đậu
xanh (Phaseolus aureus), đậu đen (P. mungo), ÐẬU GẠO (P.CALCARATUS). ẤN độ
đứng đầu về mức sản xuất đậu lentil (Leus esculenta). Ở CÁC NƯỚC CHÂU ¢U VÀ
BẮC MỸ PHỔ biến các loại đậu tầm, đậu ngựa thuộc chi Vicia, đậu Pisum, đậu Iupin,
đậu biển (P. lanatus)... Ngoài ra đậu nành loại hạt nhỏ chứa ít béo, giàu protein cũng được
chú ý sử dụng.
Hạt đậu, đỗ chứa nhiều protein (18-38%) với giá trị tương đương với 75-85% giá trị sinh

học của protein sữa. Trong thành phần thức ăn hỗn hợp có thể sử dụng từ 5-20% và cần
chú ý đến việc cân đối protein và các acid amin giới hạn. Nói chung, hạt cần được xử lý
nhiệt trước khi NGHIỀN TRỘN.

24


3.3. THỨC ĂN PROTEIN GỐC ÐỘNG VẬT
Theo thành phần hóa học thức ăn gốc động vật khác các thức ăn protein gốc thực vật ở
chổ không có xơ, còn các glucid khác ngoài trừ sữa, thì có rất ít. Hơn nữa chúng rất giàu
các acid amin giới hạn: lysin, methioni, trytophan. Chúng còn chứa nhiều vitamin B12 là
chất không có ở phần lớn thực vật.
3.3.1. Sữa và các phụ phẩm chế biến
Sữa là thức ăn thiên nhiên của gia súc non trong những tuần đầu tiên của cuộc sống, trong
sữa có khoảng 200 chất hữu dụng rất dễ hấp thu. Protein và đường sữa được tiêu hóa đến
98%, mỡ sữa 95%.
Thành phần hóa học của sữa thay đổi tùy thuộc vào thời kỳ của sự tiết sữa, loài, giống gia
súc và đặc điểm dinh dưỡng trong các mùa trong năm. Thành phần của sữa bò thay đổi
thường xuyên trong suốt thời kỳ cho sữa. Hàm lượng chất khô cao nhất vào đầu và cuối
kỳ (13,6-13,8%) và thấp nhất vào tháng thứ 3 (12,4-12,5%). Tỷ lệ mỡ sữa tương quan
nghịch chặt chẽ với lượng sữa vắt, do đó vào cuối kỳ khi sản lượng sữa giảm xuống thì
hàm lượng mỡ sữa thường rất cao. Giữa hàm lượng mỡ sữa và năng lượng liên hệ tuyến
tính: 1 kg sữa 3% béo tương đương 0,31 ÐVTA (775 kcal), với 4% là 0,36 và 5% là 0,42
ÐVTA.
Sữa bò là thức ăn đạm hoàn chỉnh cho động vật non. Trong dinh dưỡng động vật người ta
thường sử dụng các phụ phẩm chế biến sữa như sữa gạn kem (thường ở dạng bột trong
TAHH), nhũ thanh, cặn sữa sau khi lấy hết bơ (butter milk).

Bảng 3.8. Thành phần dinh dưỡng (%) của các thức ăn từ sữa
(theo Bakanov và Menkin, 1989)

Sản phẩm VCK Béo Protein Ðường Tro
Sữa nguyên 12,5 3,8 3,3 4,7 0,7
Sữa gạn kem (tươi) 8,8 0,05 3,3 4,7 0,7
Cặn sữa (ngọt) 9,2 0,6 3,2 4,7 0,7
Cặn sữa, chua 9,0 0,3 3,3 4,4 0,7
Nhũ thanh (lấy phómát) 6,2 0,2 0,8 4,7 0,5
Giá trị năng lượng của sữa tươi gạn kem và cặn sữa kém 2 lần, của nhũ thanh kém 3 lần
so với sữa nguyên.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×