DỰ ÁN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM – HÀ LAN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO ĐỊNH
HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ:
Từ lý thuyết đến ứng dụng
Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn Minh Hiếu
Các tác giả tham gia biên soạn:
TS. Lê Tiến Dũng
TS. Trần Thị Lệ
TS. Lê Đình Hường
TS. Trần Đăng Hòa
ThS. Trần Thị Thiên An
ThS. Đinh Xuân Đức
HUẾ-2009
LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp là hướng đi đúng đắn mà Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã đề ra cho chiến lược phát triển giáo dục đại học đến 2020.
Giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp đã nâng cao được chất lượng đào
tạo trên cơ sở ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động. Trường Đại
học Nông lâm Huế là một trong 8 trường được tham gia Dự án Giáo dục Đại học theo
định hướng nghề nghiệp trong khuôn khổ hợp tác giữa chính phủ Hà Lan và Việt Nam
từ 2005- 2009.
Khoa Nông học vinh dự được lựa chọn để xây dựng và thực hiện chương trình này.
Toàn thể cán bộ, giáo viên khoa nông học dưới sự tư vấn của chuyên gia Hà Lan đến
từ Trường Đại học Khoa học ứng dụng Larenstein và Trường Đại học Khoa học ứng
dụng Fontys, sự chỉ đạo chung của Ban Quản lý Dự án (PMU), của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Cố Vấn Trưởng ở Hà Nội, đã thực hiện cuộc điều tra rộng lớn bao gồm tất cả
các tỉnh từ Nghệ An đến tỉnh Khánh Hòa. Trên cơ sở phân tích khoa học các kết quả
thu được cùng với sự tham gia thường xuyên, trực tiếp của các chuyên gia Hà Lan, Thị
trường lao động (WoW), chúng tôi đã xây dựng được chương trình đào tạo cho ngành
Khoa học cây trồng. Tháng 09/2007 sinh viên lớp đầu tiên đã tham dự chương trình
học này.
Trong suốt 5 năm qua với sự kiên trì học tập từ chuyên gia và trao đổi kinh nghiệm
với các trường bạn, các trường đại học nông nghiệp mà đặc biệt là Trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Trường Đại học Nông lâm
Huế, phòng Đào tạo và công tác sinh viên và các khoa khác chúng tôi đã nỗ lực hết sức
mình để xây dựng và thực hiện tốt chương trình. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự
giúp đỡ quý báu đó.
Với hi vọng và tiếp tục hoàn thiện và mở rộng, phát triển hướng đào tạo này cho
các chuyên ngành khác trong và ngoài trường chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bạn
đọc về toàn bộ quá trình xây dựng và thực hiện chương trình, cũng như các kết quả đã
đạt được của khoa, trường. Chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía bạn đọc
cũng như mong muốn có cơ hội được truyền đạt những kinh nghiệm thực tiễn của mình
thu được trong suốt thời gian qua.
Xin trân trọng cảm ơn.
Huế, ngày..tháng...năm 2009
i
ii
Mục lục
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG ........................................................................1
1.1. Lịch sử giáo dục 50 năm qua: mối quan hệ mật thiết giữa việc làm và giáo dục...1
1.2 Giới thiệu về giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp (POHE)...................3
1.3 Mô tả dự án Profed..................................................................................................4
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO ĐỊNH
HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP (POHE)............................................................................6
2.1. Khung chương trình mở và dựa trên cơ sở công việc.............................................6
2.2. Xác định trình độ chuyên môn của sinh viên tốt nghiệp POHE ............................6
2.3. Sự tham gia của thế giới việc làm trong quá trình giáo dục POHE .......................7
2.4. Dạy học dựa vào năng lực .....................................................................................8
2.5. Kết hợp các phương pháp giáo dục.........................................................................8
2.6. Đánh giá dựa vào năng lực ....................................................................................9
2.7. Phương pháp tiếp cận đặt người học làm trung tâm của quá trình học tập.............9
CHƯƠNG 3. CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO ĐẠI HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG
NGHỀ NGHIỆP (POHE).......................................................................................... 11
3.1. Định nghĩa chương trình đào tạo .........................................................................11
3.2. Cấu trúc của một chương trình đào tạo đại học theo định hướng nghề nghiệp
(POHE) .......................................................................................................................11
3.3. Mô tả các thành tố của một chương trình POHE .................................................11
CHƯƠNG 4. CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ
NGHIỆP (POHE) TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ.........................14
4.1. Tiến trình xây dựng và phát triển chương trình đào tạo ......................................14
4.2 Xác định nhu cầu của xã hội, điều tra thế giới việc làm .......................................14
4.3. Hồ sơ nghề nghiệp ...............................................................................................23
4.4. Mô tả năng lực.....................................................................................................24
4.5. Khung chương trình..............................................................................................32
iii
CHƯƠNG 5. TIẾP CẬN PHƯƠNG PHÁP DẠY, HỌC VÀ ĐÁNH GIÁ.............36
5.1. Từ giáo viên làm trung tâm sang sinh viên làm trung tâm ..................................36
5.2. Quá trình học tập...................................................................................................39
5.3. Quá trình giảng dạy...............................................................................................42
5.4. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên.................................................................52
CHƯƠNG 6. ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH.57
6.1 Quan điểm về chất lượng và đánh giá chất lượng trong trường đại học................57
6.2. Vai trò và chức năng của đánh giá chất lượng trọng trường đại học....................57
6.3. Làm thế nào để đánh giá được chất lượng chương trình POHE...........................58
CHƯƠNG 7. SỰ HỢP TÁC VỚI THẾ GIỚI VIỆC LÀM (WoW) VÀ ĐỊNH
HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA CHƯƠNG TRÌNH POHE..................................61
7.1. Giới thiệu..............................................................................................................61
7.2. Những loại quan hệ với WoW nào chúng ta phát triển trong chương trình đào tạo
theo định hướng nghề nghiệp (POHE) ? . ...................................................................63
iv
PHẦN PHỤ LỤC.......................................................................................................69
Phụ lục 4.1. DANH SÁCH CÁC TỔ CHỨC ĐIỀU TRA PHỎNG VẤN...................69
Phụ lục 4.2: CÁC BIỂU PHỎNG VẤN......................................................................74
Phụ lục 4.2.1: BIỂU PHỎNG VẤN KỸ SƯ TRỒNG TRỌT LÀM VIỆC TẠI CÁC
CÔNG SỞ NHÀ NƯỚC*............................................................................................74
Phụ lục 4.2.2: BIỂU PHỎNG VẤN KỸ SƯ TRỒNG TRỌT LÀM VIỆC TẠI CÁC
CÔNG TY ...................................................................................................................77
Phụ lục 4.2.3: BIỂU PHỎNG VẤN GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH CÔNG TY .............80
Phụ lục 4.2.4: BIỂU PHỎNG VẤN QUẢN LÝ CÁC SỞ, PHÒNG, BAN HỌAT ĐỘNG
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP*.....................................................................82
Phụ lục 6: CÁC BẢNG CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ.........................................................84
Phụ lục 6.1: BẢNG CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO.............84
Phụ lục 6.2: PHIẾU ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH.................................................88
(Cho giảng viên và cán bộ ).........................................................................................88
Phụ lục 6.3: BẢNG CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ CỦA WOW VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO
TẠO ............................................................................................................................92
Phụ lục 6.4: BẢNG HỎI ĐỐI VỚI SINH VIÊN RA TRƯỜNG................................96
v
vi
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Lịch sử giáo dục 50 năm qua: mối quan hệ mật thiết giữa việc làm và giáo
dục
Giáo dục là một bộ phận quan trọng của xã hội Việt Nam. Việc học luôn được đánh
giá cao bởi Nhà nước và mọi gia đình. Từ trước đến nay, Nhà nước ta luôn xem giáo
dục là một công cụ giảm nghèo và phát triển kinh tế. Nhận thức được sự tăng trưởng
của Việt Nam và sự hội nhập với kinh tế thế giới phụ thuộc vào trình độ kiến thức và
khoa học kỹ thuật nên nhiều chính sách đã được áp dụng vào lĩnh vực giáo dục. Trong
thời kỳ 1993-2000, sự đầu tư của Chính phủ vào giáo dục đã tăng 13,4% mỗi năm.
Trong những năm gần đây, 15% ngân sách Nhà nước được sử dụng cho giáo dục.
Nền giáo dục đại học trong nước ra đời vào những năm 1950 - thời kỳ mới thành
lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc. Trong suốt quá trình phát triển
50 năm qua, cùng với những thay đổi sâu sắc về kinh tế xã hội của đất nước, giáo dục
đại học đã có thay đổi lớn.
Như ở các nước khác trên thế giới, nhiệm vụ chính của nền giáo dục trong quá trình
phát triển là nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế của
đất nước và thỏa mãn nhu cầu học tập của nhân dân. Những nhiệm vụ này phù hợp với
chính sách phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ.
Trong những năm 1960-1980 đất nước đi theo con đường phát triển kinh tế tập
trung. Trong suốt thời gian này, hệ thống giáo dục được quản lý và tổ chức dựa trên cơ
chế bao cấp với nhiều công ty nhỏ hoạt động trên một lĩnh vực nhất định đã hạn chế
sự liên kết giữa giảng dạy và nghiên cứu. Tổ chức những cơ quan giáo dục lớn hơn với
nhiều bộ phận chuyên biệt phù hợp với các lĩnh vực kinh tế nhằm đào tạo đủ nhân lực
chất lượng cao cho các lĩnh vực kinh tế. Sau khi tốt nghiệp đại học, sinh viên được phân
công làm việc trong các tổ chức nhà nước. Về mặt lý thuyết, thời kỳ này giáo dục đại
học được tổ chức dựa trên nhu cầu tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng bởi nền giáo dục
của Liên Xô cũ. Trên thực tế, do tiềm lực tài chính còn hạn chế và chiến tranh với đế
quốc Mỹ, nên việc nâng cao nền giáo dục của đất nước chưa nhận được đầy đủ ngân
sách cũng như sự quan tâm đúng đắn của Chính phủ, do đó chưa thỏa mãn được nhu
cầu nhân lực cho nền kinh tế. Mặt khác, cơ chế quản lý quan liêu bao cấp không tạo
được sự khích lệ cho các bên liên quan trong thế giới học thuật để họ học tập và làm
việc. Do đó, nền giáo dục đại học đã không phát triển phù hợp với nhu cầu nhân lực
của thị trường lao động.
Từ thập niên 80 đến thập niên 90, thế kỷ 20 chính sách đổi mới nhằm phát triển
kinh tế đã mang lại làn gió mới cho nền kinh tế. Thực hiện nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã bắt đầu tiến hành quá trình tư hữu hóa trong
mọi lĩnh vực của nền kinh tế bao gồm cả giáo dục. Điều này đã mang lại nhiều thành
tựu đáng chú ý với mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Nền kinh tế thuộc quyền sở hữu
Nhà nước được thay thế bởi nền kinh tế nhiều thành phần về phương diện quyền sở
hữu. Nền kinh tế này đã tạo ra sự đa dạng trong thị trường lao động với nhu cầu ngày
1
càng tăng về nhân lực có đủ trình độ. Mục tiêu của Chính phủ nhằm nâng cao giáo dục
và đào tạo trong giai đoạn này là tăng mức độ phổ cập giáo dục và thay đổi điều kiện
giáo dục từ đó chuẩn bị nguồn nhân lực để làm việc hiệu quả cho thị trường lao động.
Thay đổi chính trong chính sách giáo dục được thiết lập dựa trên những mục tiêu xa
hơn đó là phát triển một hệ thống giáo dục tư thục bình đẳng với hệ thống giáo dục công
lập. Giáo dục tư thục bao gồm các tổ chức bán công, tư nhân, liên kết với nước ngoài và
hoàn toàn do nước ngoài đầu tư. Những tổ chức công lập bao gồm các tổ chức cơ quan
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, của các tỉnh thành hay các tổ chức xã hội. Xã hội
hóa giáo dục dẫn đến số lượng các trường đại học và cao đẳng ngày càng gia tăng, từ
120 trường đầu thập niên 90 lên đến 157 trường vào năm 2008. Các nghị định và nghị
quyết mới được thông qua đã khích lệ mở rộng giáo dục tư thục. Các trường đại học
công lập được phép thu các khoản học phí của sinh viên, trong khi các tổ chức ngoài
công lập tự quán xuyến chi phí tổ chức từ học phí thu của sinh viên và tự quản về tài
chính. Điều này tăng nhận thức của xã hội về việc chia sẻ chi phí giáo dục sau một thời
kỳ dài được bao cấp bởi chính phủ. Một thay đổi đáng kể về nâng cao giáo dục là giáo
dục không còn được xem như một phương thức đơn lẻ nhằm tạo ra việc làm cho xã hội
nói chung, mà còn hỗ trợ nguồn nhân lực lành nghề cho các lĩnh vực tư nhân.
Trong giai đoạn 2000-2005 trong điều kiện kinh tế tăng trưởng ổn định, trở thành
thành viên WTO giúp nền kinh tế Việt Nam thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư nước
ngoài và ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Thị trường lao động được mở
rộng và yêu cầu chất lượng lao động phải được nâng cao hơn nữa. Điều này đã tạo thêm
sức ép cho nền giáo dục hướng nghiệp và nâng cao nguồn lao động chất lượng cao cho
đất nước nhằm đáp ứng làm việc trong tất cả các ngành kinh tế cả về số lượng và chất
lượng. Hệ thống giáo dục đại học và cao đẳng tiếp tục được mở rộng theo cả hai hướng
công lập và ngoài công lập. Ngày càng nhiều các tổ chức chính phủ và phi chính phủ
đầu tư vào giáo dục đại học. Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm
2006, trong năm học 2001-2002 có 77 trường đại học và 114 trường cao đẳng trong cả
nước, còn trong năm học 2005-2006 có 148 trường đại học và 163 trường cao đẳng. Số
lượng sinh viên đã tăng lên đáng kể, từ 0.62 triệu sinh viên trong năm học 1992-1993
lên 1 triệu trong năm học 2001-2002 và 1.38 triệu trong năm học 2005-2006.
Việc thiết lập hệ thống giáo dục cũng được tiến hành cho từng vùng. Có 3 kiểu
trường đại học ở Việt Nam: các trường chuyên ngành, trường đa ngành đa lĩnh vực và
đại học mở. Loại trường thứ nhất tập trung vào một lĩnh vực đơn lẻ, trong khi dạng
trường thứ hai thì được tổ chức với sự hợp nhất của nhiều chuyên ngành trong một
thành phố lớn. Kiểu thứ ba cũng là kiểu hình mới nhất trong giáo dục đại học ở Việt
Nam là “đại học mở” ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Có một thực tế rằng cải cách giáo dục của Việt Nam không được tiến hành trên tất
cả các mặt, đặc biệt trong nội dung và phương pháp đào tạo. Chương trình giảng dạy
được tổ chức không dựa trên những thông tin từ thị trường lao động và vẫn giữ nguyên
tính cứng nhắc, thiếu linh hoạt. “Khung chương trình đào tạo” được quản lý bởi Bộ
Giáo dục và Đào tạo, bao gồm nền tảng kiến thức không thay đổi nhiều lắm trong thời
gian dài mặc dù nó đã đem lại những thay đổi sâu sắc cho nền kinh tế đất nước. Các
cơ quan tổ chức giáo dục đại học được cung cấp khả năng hạn chế trong việc dựa vào
chương trình khung để xây dựng chương trình giảng dạy đầy đủ phù hợp với những
2
ngành nghề yêu cầu. Không có một cơ chế nào giúp thế giới việc làm có tiếng nói trong
quá trình phát triển và thực hiện chương trình giảng dạy.
Phương pháp “người dạy là trung tâm” trong hệ thống giáo dục đại học đã được thử
nghiệm rộng rãi ở tất cả các trường đại học với việc sử dụng cách thức giảng dạy chi
phí thấp cho các mẫu lớp học đông sinh viên. “Những phương pháp dạy và học lỗi thời
với những gánh nặng về kiến thức mà không tập trung vào các phương pháp, kỹ năng
và thái độ” (như đã đề cập trong chương trình hội nghị bàn về cải cách năm 2005) đã
dẫn đến lực lượng cử nhân chất lượng thấp và làm tăng thêm khoảng cách giữa nhu cầu
của thị trường lao động và cung ứng từ các trường đại học. Do đó, các công ty thường
phải đào tạo lại hoặc đào tạo trong khi làm việc cho những cử nhân tốt nghiệp mà họ
vừa mới tuyển dụng.
1.2 Giới thiệu về giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp (POHE)
Ý nghĩa và nội dung của việc giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp (POHE)
luôn thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, sự thay đổi về trình độ giáo dục của xã hội, những nhu cầu thực tế của thị
trường lao động. Chính vì vậy, giáo dục theo định hướng nghề nghiệp là một bộ phận
rất quan trọng của hệ thống giáo dục nói chung và được liên kết chặt chẽ với các các
tổ chức và cá nhân quan trọng trong xã hội. Đây là đối tượng có thể cung cấp thông tin
về những kỹ năng, kỹ xảo mới cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế và thị trường
lao động.
POHE cung cấp cho người học những trình độ chuyên môn cần thiết để có thể
đạt đến những cấp độ cao nhất trong công việc. Nó làm cho người học năng động và
có trách nhiệm hơn đối với xã hội. Đồng thời giáo dục đại học theo định hướng nghề
nghiệp cũng là bước đệm để mỗi cá nhân tự phát triển kỹ năng, kỹ xảo trong suốt cuộc
đời làm việc của mình, học tập để theo kịp với sự phát triển của kinh tế, khoa học kỹ
thuật trong xã hội.
POHE khuyến khích sự chuyển giao và áp dụng kiến thức lý thuyết trong các trường
đại học vào thực tiễn sản xuất, áp dụng kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
vào công nghiệp. Quá trình chuyển giao này phải đi từ việc học tập theo định hướng
nghề nghiệp, nghiên cứu cơ bản và ứng dụng để ứng dụng kết quả nghiên cứu vào các
quy trình sản xuất mới trong công nghiệp và các phương pháp tiếp cận mới trong kinh
tế. POHE là yếu tố quyết định giúp lưu thông tri thức và đổi mới nền kinh tế. Do đó,
các tổ chức giáo dục đại học và cao hơn theo định hướng nghề nghiệp chính là các bộ
phận kết nối trong một hệ thống phức hợp bao gồm: các công ty, tổ chức phi lợi nhuận,
các cơ quan tuyển dụng lao động, các ngành dịch vụ. Chính quyền địa phương và các
trường Trung học phổ thông cung cấp thông tin và sinh viên cho các tổ chức giáo dục
đại học theo định hướng nghề nghiệp. Chính sự kết hợp này đã tạo điều kiện cho các tổ
chức này phản ứng lại và thậm chí có thể phán đoán được những sự thay đổi về chính
trị, kinh tế, xã hội xảy ra trong quốc gia.
Mỗi vùng lãnh thổ đều có những khác biệt nhất định về sự phát triển kinh tế xã hội.
Bằng việc liên kết chặt chẽ với nhiều cơ quan trong vùng, các tổ chức giáo dục theo
định hướng nghề nghiệp trở thành động lực cho sự đổi mới và hỗ trợ sự phát triển của
vùng bằng việc cung cấp một lực lượng lao động có chuyên môn. Trái với các trường
3
đại học dựa vào nghiên cứu theo truyền thống, các tổ chức giáo dục theo định hướng
nghề nghiệp có thể:
-- Đưa ra lời giải cho nhu cầu về giáo dục và đào tạo của xã hội;
-- Đáp ứng các đòi hỏi ngày càng tăng của các công ty, tổ chức và các doanh
nghiệp tư nhân nhỏ về lực lượng lao động có chuyên môn;
-- Tạo ra liên kết hiệu quả giữa thế giới việc làm và thế giới học tập;
-- Chuẩn bị đầy đủ hành trang cho người học trước khi bước chân vào thế giới
việc làm.
-- Đóng góp tích cực vào sự hiện đại hóa của các cơ quan, tổ chức và sự đổi mới
của xã hội và của nền kinh tế dựa vào tri thức.
POHE tập trung vào nhu cầu của xã hội và phản ứng trước những thay đổi về nhu
cầu ở cấp quốc gia và địa phương. Những đặc điểm tiêu biểu này được xem như một
hiện tượng mới và đòi hỏi cần có sự quan tâm và chia sẻ thông tin giữa các nhóm trong
xã hội, cụ thể là: những nhà chính trị ở cấp quốc gia và địa phương, người tuyển dụng,
các ngành dịch vụ, các sinh viên tương lai và gia đình của họ, ban giám hiệu các trường
trung học phổ thông và cả các trường đại học truyền thống.
1.3 Mô tả dự án Profed
Profed là là Dự án Giáo dục Đại học Việt Nam – Hà Lan thực hiện thí điểm tại 8
trường đại học ở Việt Nam và được tư vấn thường xuyên bởi các chuyên gia đến từ các
trường học Hà Lan. Dự án là một trong những nỗ lực nhằm hiểu rõ vấn đề giáo dục dựa
trên yêu cầu của thị trường lao động được nêu ra trong Nghị quyết 14 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Mục tiêu chính của dự án là:
(1)Tăng cường khả năng của 8 trường đại học thí điểm trong giáo dục theo định
hướng nghề nghiệp và hướng vào nhu cầu của thị trường lao động.
(2)Tăng cường khả năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc xây dựng các
chiến lược và chính sách phù hợp cho sự phát triển, thực hiện chương trình đào
tạo đại học theo định hướng nghề nghiệp ở Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, dự án đã tiến hành các hoạt động giúp đỡ 8
trường đại học thí điểm phát triển và thực hiện chương trình đào tạo theo POHE, bao
gồm:
-- Các hoạt động xây dựng năng lực: tổ chức nhiều buổi tập huấn về phát triển
chương trình học, các phương pháp đánh giá sinh viên và giảng dạy.
-- Cung cấp sự tư vấn thường xuyên cho các nhóm công tác ở các trường đại học
thí điểm về xây dựng và thực hiện chương trình học và hợp tác với thế giới việc
làm.
-- Giúp đỡ về tài chính cho các trường đại học để nâng cấp các thiết bị giảng dạy,
thư viện, tài liệu học tập chương trình POHE.
-- Giúp đỡ các trường đại học trong việc thiết lập mối quan hệ với thế giới việc
làm trong quá trình thực hiện chương trình.
4
Hiện tại, 8 chương trình POHE đang được thực hiện tại 8 trường đại học thí điểm
với những kết quả đầy hứa hẹn cho thấy những đặc điểm ưu việt của các chương trình
POHE. Những đặc điểm chính của các chương trình này là:
-- Chương trình học theo các năng lực được xây dựng dựa trên điều tra về thị
trường lao động.
-- Sự liên quan trực tiếp của thế giới việc làm trong việc thiết kế, thực hiện và đánh
giá chương trình học.
-- Sự kết hợp giữa kiến thức lý thuyết, thực hành với đào tạo kỹ năng.
-- Phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm.
-- Đánh giá dựa trên năng lực bao gồm thực hành việc đánh giá có sự tham gia của
các thành viên thế giới việc làm (đánh giá sự thể hiện của sinh viên trong quá
trình thực hành nghề nghiệp).
5
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO ĐỊNH
HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP (POHE)
POHE có một số đặc tính dựa vào đó dễ dàng phân biệt được với giáo dục đại học
truyền thống.
2.1. Khung chương trình mở và dựa trên cơ sở công việc
Ngay từ bước phát triển khung chương trình đào tạo người học được chuẩn bị để
có thể làm việc thành công trong các vị trí công việc của họ trong tương lai. Phát triển
khung chương trình POHE bắt đầu thiết lập liên kết giữa các trường đại học với các
nhà tuyển dụng bằng các cuộc khảo sát thị trường lao động để xác định nhu cầu của
thị trường lao động đối với ngành nghề cụ thể. Mặc dù thực tế cho thấy rằng trước khi
dự án PROFED bắt đầu, rất khó để tìm thấy một mối liên kết rõ ràng giữa các trường
đại học với thị trường lao động ở Việt Nam. Các chương trình giảng dạy POHE trong
dự án PROFED được phát triển dựa trên các cuộc khảo sát của 8 trường đại học tham
gia dự án. Hàng trăm nhà tuyển dụng lao động trong các thành phần khác nhau của cả
nước đã được viếng thăm, yêu cầu họ cung cấp thông tin cần thiết, ý kiến về nhu cầu
tuyển dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp từ các trường đại học và các thông tin liên quan
khác để xác định các hồ sơ nghề nghiệp (mô tả nghề nghiệp). Các hồ sơ nghề nghiệp đã
được chuyển tải thành các hồ sơ giáo dục, hồ sơ này đại diện cho trình độ chuyên môn
then chốt mà thế giới việc làm yêu cầu sinh viên mới tốt nghiệp đạt được cho từng vị
trí công việc.
Các chương trình giảng dạy POHE là rất linh hoạt và mở nhằm điều chỉnh để đáp
ứng với những thay đổi của thị trường lao động trong các ngành nghề và những thay
đổi về nhu cầu xã hội. Một hội đồng tư vấn gồm các nhà chuyên môn, nhà quản lý từ
thế giới việc làm (Hội đồng công giới) được thành lập cho từng chương trình POHE
như là một cầu nối giữa hai thế giới: thế giới việc làm và thế giới học tập. Hội đồng
công giới là một thành phần quan trọng tham gia vào quá trình giáo dục của chương
trình POHE. Trường đại học liên lạc có hiệu quả với thị trường lao động thông qua hội
đồng công giới. Hội đồng công giới cũng có thể được xem như là một công cụ hiệu quả
cho nhà trường để bắt kịp với những thay đổi về nhu cầu thị trường lao động và tiếp tục
cập nhật chương trình giảng dạy. Đây là một trong những đặc điểm chính của POHE.
2.2. Xác định trình độ chuyên môn của sinh viên tốt nghiệp POHE
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tăng trưởng nhanh chóng và thay đổi trong phát triển
kinh tế sinh viên tốt nghiệp POHE được chuẩn bị để có trình độ cần thiết nhằm thực
hiện thành công công việc và nhiệm vụ được giao. Chúng bao gồm:
(1)Trình độ chuyên môn nghiệp vụ rộng và thích ứng.
Các chương trình POHE được phát triển theo cách qua đó cung cấp cho sinh viên
cập nhật kiến thức dựa trên các nghiên cứu khoa học, các khái niệm và phát triển quốc
tế mới nhất.
(2) Sự tích hợp đa phương
6
Sinh viên POHE tốt nghiệp có thể tích hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ làm
việc chuyên nghiệp. Bên cạnh các năng lực chuyên môn, sinh viên tốt nghiệp POHE
được đào tạo với các kỹ năng chung/ kỹ năng mềm để có thể xử lý các tình huống phức
tạp trong công việc.
(3) Ứng dụng khoa học
Có khả năng thực hiện các nghiên cứu ứng dụng trong nghề nghiệp là một trong
những năng lực chính của sinh viên tốt nghiệp POHE để giải quyết các vấn đề trong
một bối cảnh nghề nghiệp.
(4) Sự chuyển giao và tính lợi ích rộng.
Áp dụng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp trong các tình huống khác nhau là biểu
hiện rõ ràng trong bất kỳ hồ sơ năng lực của POHE.
(5) Sự sáng tạo và phức hợp của các hành động .
Phương pháp dạy và học dựa vào dự án được áp dụng rộng rãi trong các chương
trình POHE giúp các sinh viên tốt nghiệp POHE có khả năng sử dụng các chiến lược
giải quyết các vấn đề khác nhau trong những tình huống nghề nghiệp khác nhau.
(6) Vấn đề chỉ đạo công việc
Giải quyết vấn đề là một trong những phương pháp giảng dạy chính được sử dụng
để đào tạo sinh viên POHE, những người sẽ có thể xác định và phân tích những vấn
đề phức tạp trong một tình huống nghề nghiệp bằng cách sử dụng các chiến lược giải
quyết các vấn đề khác nhau.
(7) Được đào tạo để có những kỹ năng mềm khác bao gồm: lập kế hoạch, quản lý,
giao tiếp xã hội, hiển thị sự lãnh đạo nghề nghiệp.
(8) Có khả năng phản ánh dựa trên tư duy, hành động độc lập và làm việc theo một
cách thức có cấu trúc
(9) Có trách nhiệm xã hội và sẵn sàng tham gia vào sự thay đổi
(10) Có khả năng học tập suốt đời, liên tục cập nhật và mở rộng kiến thức đối với
sự tốt đẹp của nhân loại.
2.3. Sự tham gia của thế giới việc làm trong quá trình giáo dục POHE
Để hỗ trợ sinh viên POHE tốt nghiệp đạt được các trình độ chuyên môn được liệt
kê ở trên, trường đại học cần phải hợp tác với Thế giới việc làm (WoW) thông qua Hội
đồng công giới. Trong thực tế thế giới việc làm tham gia vào quá trình giáo dục trong
dự án PROFED bằng các hình thức khác nhau. Bên cạnh sự tham gia của WoW trong
thiết kế chương trình đào tạo còn góp phần vào quá trình học tập vì liên quan đến tài
trợ, các vị trí công việc, đánh giá sinh viên, đánh giá chương trình, tham gia giảng dạy
hoặc hội thảo, vv ... Lợi ích của WoW khi tham gia POHE là việc các nhà sử dụng lao
động có thể tuyển dụng nhân viên đúng với năng lực cần thiết mà không phải đào tạo
lại. Đây là một động lực cho sự hợp tác lâu dài giữa trường đại học và thế giới việc
làm.
7
2.4. Dạy học dựa vào năng lực
Năng lực là khả năng áp dụng kiến thức, kỹ năng và giá trị cho môi trường nơi làm
việc có liên quan dựa trên các tiêu chuẩn theo yêu cầu của môi trường đó. Khái niệm
năng lực tập trung vào những khả năng mà người tuyển dụng mong đợi đối với một
nhân viên tại nơi làm việc, hơn là vào quá trình học tập, và biểu hiện khả năng chuyển
giao và áp dụng các kỹ năng và kiến thức vào các tình huống và môi trường mới. Các
chương trình POHE yêu cầu phương pháp học tập mới - nó được gọi là dạy học dựa
vào năng lực (CBL) - để đạt được một tập hợp các kết quả học tập sau khi tốt nghiệp
mà thường được gọi là “hồ sơ năng lực”.
Dạy học dựa vào năng lực là một phương pháp học tập trung vào những gì một
người thực sự có thể làm như là kết quả của đào tạo. Nó nhấn mạnh những nhiệm vụ đã
được phân cho năng lực trong quá trình học tập bằng cách kết hợp năng lực với nhiệm
vụ được giao phó.
Dạy học dựa vào năng lực có ba thành phần chính: kiến thức + kỹ năng + thái độ
nghề nghiệp. Nếu trong hệ thống đại học truyền thống, dạy học dựa vào kiến thức tập
trung vào những gì một người học có thể biết, POHE tập trung vào đào tạo năng lực
cần thiết cho nghề nghiệp cụ thể. Một năng lực luôn luôn là một sự kết hợp giữa kiến
thức và kỹ năng.
Trong bất kỳ chương trình POHE một bộ năng lực cốt lõi (gọi là hồ sơ năng lực)
được định nghĩa trong quá trình thiết kế chương trình giảng dạy dựa trên hồ sơ nghề
nghiệp. Năng lực cốt lõi là những năng lực có liên quan đến một số thiết lập khác nhau.
Các thiết lập đó trao quyền cho người học để có thể thích ứng và chuyển giao học tập
của họ từ một thiết lập này đến thiết lập khác. Số lượng các năng lực trong một chương
trình POHE khác nhau, từ 5 đến 8 phụ thuộc vào các yêu cầu nghề nghiệp. Các năng
lực cốt lõi cho một chương trình POHE bao gồm các kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng
“mềm”. Các kỹ năng mềm thường được tìm thấy phổ biến trong các chương trình
POHE. Trong hồ sơ năng lực từng năng lực được chia theo các cấp độ từ đơn giản đến
phức tạp với tình huống nghề nghiệp cụ thể ở mỗi cấp.
Các tình huống nghề nghiệp đã được phân công rõ ràng cho mỗi đơn vị học tập
trong các chương trình giảng dạy POHE, trên cơ sở đó các hoạt động dạy và học được
thiết kế và lập kế hoạch. Nói cách khác, qua một đơn vị học tập (cho dù đó là một đơn
vị khóa học hoặc mô-đun) một sinh viên có khả năng giải quyết các tình huống nghề
nghiệp và đạt được số tín chỉ nhất định được ấn định cho các khóa học hoặc mô-đun.
2.5. Kết hợp các phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục là một chiến thuật cụ thể của quá trình giáo dục nhằm mục
đích thực hiện mục tiêu giáo dục. Phương pháp giáo dục là một trong những thành phần
cơ bản của giáo dục vì nó là quá trình tổ chức giáo dục.
Trong quan niệm truyền thống học tập chủ yếu được xác định bởi 3 thành phần:
giáo viên, sinh viên và các nội dung học tập. Những thành phần đại diện cho tam giác
giáo dục truyền thống. Quá trình học tập được tổ chức trong cách thức mà học tập là
chuyển giao kiến thức.
Trong POHE học tập là một phần của việc học thực tế. Tam giác đã được cập nhật:
8
giáo viên sẽ trở thành người tạo điều kiện thuận lợi hoặc huấn luyện viên, sinh viên trở
thành người học, và các nội dung được thay thế bằng các năng lực. Sinh viên phải có
khả năng hoàn thành các năng lực cần đạt được. Chuyển giao kiến thức được mở rộng
với một loạt các phương pháp. Kỹ năng đào tạo và phát triển thái độ làm cho quá trình
học tập phức tạp hơn. Thiết lập một quá trình giáo dục phức tạp như vậy chủ yếu được
thực hiện một bối cảnh khác nhau, trong đó môn học được thay thế bằng mô-đun. Để
đạt được những kết quả học tập được giao cho một mô-đun, phải áp dụng sự kết hợp
các phương pháp giáo dục. Những phương pháp này được lựa chọn khác nhau dựa trên
các kiểu mô-đun trong chương trình. Các mô-đun trong một khóa học, phổ biến kết
hợp các phương pháp sau đây: giảng bài, bài tập, hội thảo, thảo luận nhóm, thuyết trình
bằng miệng, thực hành phòng thí nghiệm / thực địa ... Ở các mô-đun thực hành một loạt
các phương pháp được áp dụng, chẳng hạn như giải quyết vấn đề, thực hành dựa trên
công việc, viết báo cáo, trình bày bằng miệng, giám sát, tư vấn, tự học tập... Các hoạt
động học được tổ chức trong các môi trường và bối cảnh khác nhau (như trong lớp học,
phòng thí nghiệm, thực địa, nơi làm việc tại thế giới việc làm vv ...) để giúp sinh viên
trải nghiệm tình huống đời sống thực tế và kỹ năng thực hành. Theo chu trình học tập
của Kolb, chương rình POHE nhấn mạnh vào đào tạo kỹ năng bằng cách áp dụng học
tập dựa vào dự án, sắp xếp việc làm và nghiên cứu ứng dụng. Kết hợp các phương pháp
giáo dục khác nhau trong các chương trình POHE tạo ra một liên kết chặt chẽ giữa giáo
viên và sinh viên để đạt được kết quả học tập cao.
2.6. Đánh giá dựa vào năng lực
Trong chương trình POHE, việc đánh giá sinh viên phức tạp hơn rất nhiều và được
tiến hành ở từng mức của mô-đun. Học tập dựa vào năng lực đòi hỏi cần phải có những
đánh giá dựa vào năng lực. Sinh viên được đánh giá về kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Kết quả đánh giá được cụ thể hóa thành số tín chỉ mà sinh viên đạt được trong mỗi môđun. Nhiều phương pháp đánh giá được áp dụng. Tùy thuộc vào phương pháp giảng
dạy, người đánh giá trong chương trình POHE có thể là chuyên gia WoW, sinh viên
(trong các đánh giá chéo). Sự tham gia của WoW vào việc đánh giá sinh viên là rất quan
trọng trong việc rèn luyện kỹ năng (như các dự án, thực tập định hướng nghề nghiệp,
thực tập tốt nghiệp). Sự tham gia của sinh viên trong đánh giá của sinh viên là rất quan
trọng trong các hoạt động nhóm, các phản hồi từ điểm thực tập, các thực hành trực tiếp
trên thực địa. Ngoài kết quả đánh giá sản phẩm (hoặc tổng kết), đánh giá tiến trình cũng
rất phổ biến trong chương trình POHE. Việc đánh giá này thúc đẩy sinh viên quản lý
tốt hơn quá trình tự học của mình, đặc biệt là quá trình rèn luyện kỹ năng. Chính sách
đánh giá được thiết kế chu đáo là công cụ tốt cho việc đảm bảo chất lượng. Đây chính
là một trong những đặc trưng chủ chốt của chương trình POHE.
2.7. Phương pháp tiếp cận đặt người học làm trung tâm của quá trình học tập
Chuyển đổi từ phương pháp giáo dục hướng đến đầu vào sang phương pháp hướng
đến đầu ra đã giúp sinh viên- người học - trở thành đối tượng của quá trình học tập
trong chương trình POHE. Việc học lấy người học làm trung tâm chú ý vào nhu cầu,
khả năng, sở thích và cách thức học tập của sinh viên, trong đó giáo viên là những
người hướng dẫn trong suốt quá trình học tập. Điều này đòi hỏi sinh viên phải thực sự
chủ động, và có trách nhiệm đối với việc học của mình. Dựa vào khả năng, nhu cầu, và
9
cách thức học tập của sinh viên mà các hoạt động được tổ chức sao cho phù hợp với
từng sinh viên hoặc từng nhóm sinh viên khác nhau, từ đó có thể đạt được những năng
lực cần thiết cho nghề nghiệp trong tương lai.
Những nguyên tắc chính của việc học lấy người học làm trung tâm là :
-- Người học có trách nhiệm đối với việc học của mình.
-- Sự liên quan và tham gia là cần thiết cho việc học
-- Mối quan hệ giữa người học là mối quan hệ bình đẳng, cùng thúc đẩy nhau
trưởng thành và phát triển
-- Giáo viên là những người hướng dẫn và cung cấp thông tin
-- Sinh viên được giáo dục về cả tình cảm lẫn trí tuệ
-- Sinh viên nhận thấy được sự thay đổi khác biệt của bản thân sau quá trình học.
Trong chương trình của POHE, sinh viên được đào tạo để trở thành những người
quản lý thông minh việc học tập của mình.
10
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO ĐẠI HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG
NGHỀ NGHIỆP (POHE)
3.1. Định nghĩa chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo là một tài liệu lập kế hoạch cho một quá trình giáo dục với
việc mô tả các mục tiêu giáo dục, các phương tiện để đạt được các mục tiêu đó và làm
thế nào để đánh giá các kết quả của tiến trình.
3.2. Cấu trúc của một chương trình đào tạo đại học theo định hướng nghề nghiệp
(POHE)
Cấu trúc của các chương trình đào tạo truyền thống (không phải nội dung của nó)
xác định nhiệm vụ của giáo viên và các hoạt động của sinh viên trong thời gian của một
năm học. Một loạt sự phát triển buộc chúng ta phải thay đổi cấu trúc này: cải thiện mối
liên kết giữa giáo dục và thị trường lao động, giáo dục và điều chỉnh tốt, khoa học và
nghề nghiệp, thay đổi truy cập của sinh viên, có nghĩa là thay đổi về công nghệ trong
giáo dục, các thay đổi trong quy định pháp lý và tài chính. Đôi khi cấu trúc cản trở khả
năng tiếp cận của các nhóm xã hội nhất định.
Mô-đun hóa đã chứng minh là một câu trả lời thỏa đáng cho sự linh hoạt của chương
trình đào tạo sau khi hiểu rõ nhu cầu của thị trường, nhiều hơn ở phía đầu vào hoặc ở
phía đầu ra (sự khác biệt) và do đó kết quả của giáo dục (sự định rõ) và ảnh hưởng của
nó được cải thiện, và phát triển, thực hiện giáo dục có hiệu quả ở mức độ hoạt động
cũng như ở mức độ quản lý.
Chương trình POHE (khung chương trình) có cấu trúc mô-đun. Trừ các môn học
chung như Triết học, Chủ nghĩa Marx-Lenin, Kinh tế chính trị và Tư tưởng Hồ Chí
Minh phải giữ nguyên theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các phần khác của
chương trình POHE thiết kế và tổ chức trong một hệ thống mô-đun. Mỗi mô-đun cung
cấp một khối kiến thức và các kỹ năng đóng góp vào việc hình thành các năng lực ở
một mức độ nhất định. Những mô-đun thuộc về một khoảng thời gian liên kết với nhau
tạo thành một học kỳ. Hai học kỳ chính và một học kỳ phụ tạo thành một năm học.
Tổng chương trình học tập là 4 năm. Để đạt được một mức năng lực nhất định, sinh
viên phải học các mô-đun hỗ trợ, các mô-đun tiên quyết, mô-đun cơ bản, mô-đun và
một phần mô-đun trực tiếp liên quan đến chuyên môn trước khi tham gia dự án tổng
hợp (dự án sinh viên) hay đi thực tập nghề nghiệp. Các dự án và chương trình thực tập
được liên kết để thực hành khối lượng năng lực tương ứng với nhiệm vụ trong các tình
huống nghề nghiệp khác nhau. Do đó, các dự án và thực tập nghề nghiệp là xương sống
của chương trình POHE.
3.3. Mô tả các thành tố của một chương trình POHE
3.3.1. Môn học / mô-đun
Để kích hoạt một tiến trình liên tục của quá trình học tập chuyên nghiệp trong quá
trình học tập suốt đời, tổng số các nội dung học tập có thể được chia không chỉ thành
các môn học mà còn chia thành các đơn vị học tập độc lập tương đối nhỏ. Trong một hệ
11
thống phù hợp với trình độ chuyên môn và nghề nghiệp, các đơn vị học tập này, hoặc
còn được gọi là các mô-đun, được liên kết đến các năng lực và kỹ năng nghề nghiệp
tương đương.
Một mô-đun là một đơn vị học tập độc lập với một thời gian được xác định rõ ràng
bắt buộc sinh viên học tập, trong đó một loạt các hoạt động thuộc về giáo dục được
thiết lập để đạt được mức độ cần thiết của các kỹ năng. Các mô-đun học có thể được
phân biệt như sau:
Thời gian học tập bắt buộc tính theo giờ;
Số tín chỉ;
Loại mô-đun;
Thời gian danh nghĩa;
Học kỳ.
Thời gian bắt buộc học tập của một mô-đun xác định lượng thời gian mà sinh viên
học lực trung bình cần có để đạt được trình độ mong muốn. Thời gian bắt buộc học tập
kết hợp tất cả các hoạt động mà sinh viên tham gia như: chuẩn bị, tham dự lớp học, hoạt
động học tập, tư vấn, chuẩn bị cho kiểm tra, tiến hành kiểm tra và đánh giá. Thời gian
bắt buộc học tập được đo bằng giờ hoặc bằng tiến trình cần để đạt đến trình độ mong
đợi. Sau khi hoàn thành một mô-đun, sinh viên nhận được một tín chỉ cho mỗi 48 (số
này là thỏa thuận giữa 8 trường đại học) giờ học tập bắt buộc. Hầu hết các mô-đun có
một thời gian học tập bắt buộc vào khoảng 96-192 giờ (2-4 tín chỉ). Thời gian học tập
bắt buộc của việc học thực hành thực tế là lớn hơn. Tiến độ học tập của sinh viên có
thể được xác định bởi số lượng các tín chỉ mà sinh viên đã thu được trong một khoảng
thời gian nhất định.
Một hệ thống phân chia một chương trình giảng dạy kiểu mô-đun thành các phần
liên kết chặt chẽ và đặt chúng trong một thứ bậc hoặc trật tự liên tục mới (Biểu đồ 3.1).
Mỗi phần phải kết thúc/ “đóng cửa” vì những kiến thức hay các kỹ năng truyền đạt
trong mô-đun này có thể là điều kiện cho một số hệ thống mô-đun tương lai (Biểu đồ
3.2). Điều này có nghĩa là đánh giá các kỹ năng và kiến thức là bộ phận quan trọng của
một hệ thống kiểu mô-đun. Qua đánh giá sinh viên phải hoàn thành mô-đun này mới
có thể học tiếp sang một mô-đun mới trong chuỗi này.
Module 1
Module 2
Module 3
Module 4
Module 5
Diploma
Biểu đồ 3.1. Trình tự trong một hệ thống kiểu mô-đun
12
FAIL
MODULE
PASS
Biểu đồ 3.2. Việc “đóng cửa” nét đặc trưng của việc đánh giá mô-đun
3.3.2. Dự án / đề tài
Học dựa vào dự án là một hệ thống giảng dạy có sự tham gia của sinh viên trong
học tập kiến thức và kỹ năng thông qua một quá trình có cấu trúc để phát triển các vấn
đề xác thực, phức tạp xung quanh, và các sản phẩm và công việc được thiết kế cẩn
thận.
Định nghĩa này bao hàm một phổ rộng, từ các dự án ngắn khoảng 1-2 tuần dựa trên
một chủ đề đơn giản trong một lớp học đến các dự án dài, dự án liên ngành có liên quan
đến sự tham gia của các tổ chức, cá nhân bên ngoài trường đại học. Trong chương trình
POHE, gọi là dự án giáo dục (dự án sinh viên), là các công việc ít phức tạp hoặc phức
tạp (bao gồm cả mục tiêu và kết quả) trong một khoảng thời gian với nội dung, người
tham dự, tổ chức, định hướng về việc học tập của sinh viên trong một môi trường nghề
nghiệp với kết quả thực của cuộc sống, bao gồm cả đánh giá về học tập của sinh viên.
Một dự án giáo dục nên có:
-- Mục tiêu,
-- Tích hợp các kiến thức và kỹ năng,
-- Giới hạn thời gian / quản lý thời gian,
-- Đóng góp cho việc học tập của sinh viên (kiến thức, kỹ năng, thái độ) đặt trên
nền tảng của thế giới việc làm (WoW) (mô phỏng các tình huống nghề nghiệp
cụ thể),
-- Có mức độ nhất định về sự phức tạp,
--
Và dựa trên các chủ đề trong chương trình giảng dạy ...
3.3.3. Thực tập/ thực tập nghề nghiệp
Kinh nghiệm thực tập nghề nghiệp là phương thức giáo dục trong môi trường thực
tế nơi sinh viên ứng dụng các lý thuyết đã được học. Thực tập nghề nghiệp sắp xếp cho
những sinh viên muốn thực hiện quá trình học tập liên quan đến cả học tập hàn lâm và
ứng dụng kinh nghiệm, và đồng ý nhận số lượng các tín chỉ phù hợp với phạm vi của
dự án. Thực tập nghề nghiệp có thể thực hiện trong toàn bộ thời gian hoặc bán thời
gian của một học kỳ chính, trong học kỳ, học kỳ hè hoặc kết hợp các học kỳ. Nó có
thể được tiến hành đồng thời với học tập khác. Một đợt thực tập được sinh viên lập kế
hoạch trong quan hệ hợp tác với một giám sát viên của trường và một giám sát viên từ
bên ngoài nơi sinh viên đến thực tập.
13
CHƯƠNG 4
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ĐẠI HỌC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ
NGHIỆP (POHE) TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
4.1. Tiến trình xây dựng và phát triển chương trình đào tạo
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế xây dựng, phát triển chương trình POHE
cho chuyên ngành khoa học cây trồng. Tiến trình xây dựng và phát triển chương trình
đạo tạo theo Biểu đồ 4.1.
Khảo sát W.o.W
Hồ sơ nghề nghiệp
Mô tả các năng lực
Khung chương trình và mô
tả giáo dục
Các mức năng lực
K
S
Ghi chú: K (Kiến thức), S (Kỹ năng), A (Thái độ)
Biểu đồCác
4.1:mô-đun
Tiến
trình
xâyán
dựng
module
và
và Dự
Dự
án
sinh
sinhvà phát triển khung chương trình đào tạo
viên
A
Các môn học
Ghi chú: K (Kiến thức), S (Kỹ năng), A (Thái độ)
Biểu đồ 4.1: Tiến trình xây dựng và phát triển khung chương trình đào tạo
4.2 Xác định nhu cầu của xã hội, điều tra thế giới việc làm
4.2.1. Giới thiệu
Giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp là đào tạo ra những kỹ sư trồng trọt
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Vì vậy, làm sao để nắm bắt được nhu
cầu của thị trường lao động về lĩnh vực trồng trọt hiện tại và cho cả những năm tiếp
theo, trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO là một yêu cầu cấp thiết.
Để nắm bắt được nhu cầu của thị trường lao động, cán bộ giáo viên Khoa Nông học
14
dưới sự tư vấn của các chuyên gia Hà Lan đã thực hiện 138 cuộc khảo sát tại 138 cơ sở
thuộc các dạng hình sau: Nhà nước, công ty cổ phần (liên doanh, nước ngoài), tư nhân,
tổ chức phi chính phủ (NGO) tại 11 tỉnh miền Trung (Nghệ An, Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngải, Gia lai, Bình Định, Khánh
Hòa, Đăk lăk) (Phụ lục 4.1).
Chúng tôi đã cùng với chuyên gia thiết kế các bộ câu hỏi để phỏng vấn (Phụ lục 4.2.):
-- Kỹ sư trồng trọt làm việc tại các công sở nhà nước
-- Kỹ sư trồng trọt làm việc tại các công ty
-- Người quản lý các Sở, Phòng, Ban hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
-- Giám đốc điều hành các công ty
++ Về vai trò, chức năng của kỹ sư trồng trọt, sản phẩm của các đơn vị cơ quan
được khảo sát.
++ Yêu cầu của những nhà quản lý về kiến thức nghề, kỹ năng, thái độ của người
kỹ sư trồng trọt hiện nay
++ Đánh giá của các nhà quản lý về sự yếu kém của các kỹ sư hiện nay về kiến
thức, kỹ năng và thái độ
++ Yêu cầu của những nhà quản lý về kiến thức nghề, kỹ năng và thái độ cần thiết
cho kỹ sư trong tương lai.
++ Chính sách phát triển nhân viên của các nhà quản lý.
++ Khuyến cáo và mong muốn của các nhà quản lý đối với các kỹ sư trong tương lai.
4.2.2. Kết quả khảo sát
Loại hình các cơ quan khảo sát.
Có 7 nhóm loại hình cơ quan khảo sát , trong đó loại hình công ty sản xuất, dịch
vụ nông nghiệp chiếm gần 55%, các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng KHKT nông
nghiệp chiếm 19%, viên nghiên cứu 4,2%, trường trung cấp nông nghiệp 6,3%, các
phòng ban, và sở nông nghiệp 8,5%, số còn lại là các tổ chức, dự án phi chính phủ
(NGO) chiếm 4,2% (Bảng 4.2.1)
Bảng 4.2.1. Hình thức hoạt động của các cơ quan khảo sát
Mã
(30)
Hình thức hoạt động của các cơ quan được khảo sát
1
Nhà nước
2
Cổ phần
3
Liên doanh
4
Nước ngoài
5
Tư nhân
6
Tổ chức phi chính phủ (NGO)
Tổng cộng
Tỷ lệ
(%)
73.8
14.3
7.1
4.8
100
15
Dựa vào hình thức hoạt động các cơ quan khảo sát được phân ra và trình bày ở
Bảng 4.2.1, trong đó các cơ quan thuộc nhà nước quản lý chiếm 73,8%, các đơn vị tư
doanh chiếm 7,1%, đơn vị cổ phần 14,3%, các tổ chức phi chính phủ (NGO) chiếm
4,8%. Đáng chú ý ở khu vực miền Trung, trong lĩnh vực liên quan đến nông nghiệp
không thấy có các đơn vị liên doanh, hoặc các đơn vị có vốn hoàn toàn từ nước ngoài,
vì thế không có các đơn vị này trong khảo sát (Bảng 4.2.1).
Về chức năng nhiệm vụ và sản phẩm của các cơ quan được khảo sát, được trình bày
ở Bảng 4.2.2.
Kết quả cho thấy có 5 nhóm, trong đó nhóm (1) nhân giống, sản xuất kinh doanh
các sản phẩm có liên quan đến cây trồng chiếm 38,57%; nhóm (2): quản lý các hoạt
động chuyên môn như bảo vệ thực vật, quản lý giống, cây trồng chiếm 20%; nhóm (3):
nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật chiếm 15,71%; nhóm (4): ứng dụng khoa
học kỹ thuật chiếm 18,57%; và nhóm (5): đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật...
chiếm 7,14%.
Bảng 4.2.2. Chức năng, sản phẩm của các đơn vị cơ quan được khảo sát.
Mã (30)
1
2
3
4
5
Tổng cộng
Chức năng, sản phẩm của các cơ quan được khảo sát
Nhân giống cây trồng, kinh doanh sản phẩm cây trồng
Quản lý các hoạt động : bảo vệ thực vật, cây trồng…
Nghiên cứu
Chuyển giao kỹ thuật
Đào tạo công nhân kỹ thuât, cán bộ kỹ thuật
Tỷ lệ (%)
38,57
20,00
15,71
18,57
7,14
100
Đánh giá sự yếu kém của các kỹ sư về kiến thức và khả năng, các nhà quản lý nói
chung đã chỉ ra như sau: 18,4 % nhà quản lý cho rằng các kỹ sư hiện nay yếu về lý
thuyết chuyên môn; 28% cho rằng các kỹ sư phần lớn thiếu kỹ năng thực hành trồng
trọt; 10,3% cho rằng các kỹ sư còn thiếu khả năng giao tiếp với cộng đồng (nông dân,
đối tác…); 14,5% cho rằng các kỹ sư còn thiếu kiến thức về quản lý; 9,7% cho rằng
phần lớn các kỹ sư có ngoại ngữ yếu.
Các yếu kém còn lại chiếm các tần suất như sau: thiếu hiểu biết về luật Việt Nam
và quốc tế (6,8%); thiếu kiến thức về xã hội (0,9%); thiếu kỹ năng lập kế hoạch (6,8%)
và thiếu tính độc lập trong công việc (3,9%).
Khảo sát yêu cầu của các nhà quản lý về kiến thức nghề của các kỹ sư cần thiết cho
tương lai được trình bày ở Bảng 4.2.3.
Bảng 4.2.3. Yêu cầu của những nhà quản lý về việc trang bị những kiến thức
nghề cần thiết cho kỹ sư trong tương lai.
Mã
(22)
1
2
3
16
Những kiến thức nghề cần thiết cho kỹ sư trong tương lai
Phương pháp thí nghiệm
Cây trồng
Sinh lý, sinh hoá
Tỷ lệ (%)
5.7
15.2
3.8