Tải bản đầy đủ (.doc) (718 trang)

ĐỊA CHÍ TỈNH đăk NÔNG năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.36 MB, 718 trang )

TỔNG QUAN ĐỊA CHÍ ĐĂK NÔNG

Đăk Nông là một vùng đất có con người sinh sống từ lâu đời, đã hình
thành truyền thống anh hùng của các dân tộc bản địa (người M’nông, Mạ,
Êđê…) trong công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương. Từ khi hoà nhập vào
Tổ quốc, dân tộc Việt Nam, các dân tộc Đăk Nông đã góp phần không nhỏ vào
công cuộc dựng nớc và giữ nớc. Tiêu biểu là tinh thần đoàn kết dân tộc, sự giao
lu các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, đặc biệt trong kháng chiến chống ngoại
xâm, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và
đế quốc Mỹ.
Từ sau ngày Miền Nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất, cả nước cùng
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các dân tộc đã đoàn kết chặt chẽ, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
đấu tranh để đạt đợc mục tiêu độc lập, dân giàu, nớc mạnh, văn minh, tiến bộ,
tự do, bình đẳng. Hoà chung trong bớc tiến này, nhân dân các dân tộc Đăk
Nông, cùng đồng bào Tây Nguyên và cả nớc đã góp phần to lớn để giành
những thắng lợi mới của công cuộc đổi mới.
Từ thời nguyên thuỷ, bớc sang xã hội có giai cấp và nhà nớc cho đến ngày
nay, vùng đất Đăk Nông có nhiều thay đổi về địa giới hành chính, địa danh,
song lịch sử, truyền thống anh hùng của các dân tộc bản địa không hề thay đổi
mà ngày càng ngời sáng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hơng, Tổ
quốc. Trong những đặc điểm chung của cả dân tộc, những nét riêng tốt đẹp,
truyền thống của mỗi dân tộc đợc bảo tồn và phát huy; nền văn hoá phong phú,
đậm đà bản sắc dân tộc của nhân dân Đăk Nông đợc gìn giữ, và góp phần xây
đắp cho nền văn hoá tiên tiến, xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng rực rỡ.
Cuộc sống tinh thần, vật chất của các dân tộc Đăk Nông ngày một nâng cao
trong thắng lợi chung của cả sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thắng lợi của cách mạng, sự phát triển của đất nước, quê hương trong công
cuộc đổi mới, do Đảng khởi xớng và lãnh đạo thực hiện ngày càng thôi thúc
mọi ngời dân đang sống trên quê hơng hay ở nước ngoài phải tìm hiểu quê hương của mình. Yêu cầu này được đặt ra từ lâu đối với các dân tộc anh em trên
vùng đất Đăk Nông, đặc biệt từ khi tỉnh Đăk Nông đợc thành lập (2004).



1


Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Đăk Nông tổ chức biên soạn
quyển “Địa chí Đăk Nông”, không chỉ để nhắc lại sự giàu đẹp, điều kiện tự
nhiên thuận lợi, tôn vinh những anh hùng, chiến sĩ, toàn thể nhân dân các dân
tộc của tỉnh nhà đã hi sinh chiến đấu cho thắng lợi ngày nay mà còn để giáo
dục truyền thống, am hiểu tường tận, chính xác những điều kiện tự nhiên và xã
hội của Đăk Nông nhằm thực hiện tốt nhất những nhiệm vụ ngày nay của quê
hương, đất nước.
Sự nhận thức về quê hương Đăk Nông trên mọi mặt tự nhiên, kinh tế xã hội,
con người cần tiến hành với tinh thần trung thực, thẳng thắn: nhìn thấy rõ mặt
thành công, thắng lợi, ưu điểm, thuận lợi, thời cơ… cũng như những thất bại,
yếu kém, khó khăn, trở ngại, thách thức, nguy cơ… trong việc xây dựng và bảo
vệ quê hơng, Tổ quốc, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực theo xu thế
“toàn cầu hoá”.
Trên cơ sở nghiên cứu khoa học, hiểu đúng mọi mặt để học tập phát huy
những điều tốt đẹp, tích cực, rút kinh nghiệm, khắc phục những yếu kém các
mặt tiêu cực nên vừa khai thác, vận dụng sáng tạo những bài học của quá khứ,
vừa đấu tranh chống trở ngại của tự nhiên, xã hội và mỗi con người trong sự
nghiệp cách mạng ngày nay. Một số vấn đề về văn hoá, dờng nh đợc lặp lại ở
nhiều phần, song đó là việc nhắc lại những sự kiện quan trọng ở những góc độ
khác nhau về dân tộc học, văn hoá, nghệ thuật, du lịch, để hiểu rõ, toàn diện sâu
sắc hơn về di sản văn hoá dân tộc.
Những phơng hướng chỉ đạo nêu trên được thể hiện trong việc biên soạn
“Địa chí Đăk Nông”. Việc biên soạn địa chí rất khó khăn, phức tạp, vì đây là
việc thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học tổng hợp, liên quan đến
nhiều ngành khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, với sự cố gắng
của đội ngũ cán bộ trong tỉnh, sự hợp tác của nhiều nhà khoa học ngoài tỉnh,

với sự chỉ đạo sát sao của Ban Thờng vụ Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân, trực tiếp là
Sở Khoa học công nghệ, Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch, công trình đã hoàn
thành, đạt yêu cầu, chỉ tiêu đề ra. Dĩ nhiên, một công trình khoa học phải đợc
hoàn thành theo kế hoạch, song việc nghiên cứu khoa học không thể ngừng mà
vẫn tiếp tục. Vì vậy, cũng nh mọi công trình khác, Địa chí Đăk Nông phải đạt
đợc những yêu cầu, tiêu chí nhất định, song khó có thể hoàn chỉnh, hoàn thiện
đợc ngay, song không vì thế mà chờ đến lúc hoàn thiện mới phổ biến rộng rãi.
Cho nên, công trình đợc hoàn thành và thẩm định, chúng tôi kết thúc việc biên
soạn, tu sửa và công bố. Mong các đồng chí tiếp tục góp ý để sửa chữa.
Thay mặt Hội đồng biên soạn “Địa chí Đăk Nông” chúng tôi bày tỏ lòng
biết ơn đối với Ban Chỉ đạo công trình, cảm ơn các cơ quan, đơn vị, địa ph ơng

2


trong tỉnh đã hết lòng giúp đỡ, cảm ơn các giảng viên trờng ĐHSP Hà Nội đã
góp sức hoàn thành địa chí.
Xin trân trọng cảm ơn sự góp ý của bạn đọc.
Tô Đình Tuấn
1. Về tên các dân tộc
Tỉnh Đăk Nông có nhiều dân tộc sinh sống lâu đời và nhiều dân tộc mới c
trú. Có những cách gọi tên và phiên âm chữ quốc ngữ cha thống nhất. Trong
“Địa chí Đăk Nông”, chúng tôi thống nhất cách viết các dân tộc nh sau:
- Dân tộc M’nông
- Dân tộc Mạ
- Dân tộc Êđê
- Dân tộc Việt
- Dân tộc H’mông…
Các từ “Kinh”, “Thợng” đợc sử dụng khi nói về quá khứ và đề cập đến quan
hệ giữa ngời Việt ở miền xuôi với cộng đồng các dân tộc anh em ở miền núi.

2. Về những chữ viết tắt
Địa chí Đăk Lăk không sử dụng những chữ viết tắt, khi cần thiết chỉ viết tắt
những cụm từ đã thông dụng, đợc sử dụng phổ biến, chủ yếu là tên gọi viết tắt
các tổ chức quốc tế, hay trong nớc: ASEAN, UNESCO, FULRO…
3. Về tài liệu tham khảo
Mục “Tài liệu tham khảo” ở cuối sách liệt kê các tài liệu, sách, văn bản, tạp
chí… (gọi chung là tài liệu) đợc các tác giả tham khảo trong quá trình biên soạn
Địa chí Đăk Nông.
Tài liệu tham khảo đợc sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái tiếng Việt - A, B,
C… đợc ghi rõ các yếu tố, nh tên tác giả (hay nhóm tác giả); tên tác phẩm, tên
nhà xuất bản (hoặc cơ quan xuất bản), nơi xuất bản, năm xuất bản, số tập (nếu
tác phẩm có nhiều tập), số kì (đối với tạp chí).

3


Nếu tác phẩm có nhiều ngời viết (không quá 3 tác giả); nếu nhiều tác giả chỉ
ghi tên ngời chủ biên, tiếp đó là cụm từ “nhiều ngời khác”.
4. Về phiên âm
Về cơ bản các từ nớc ngoài (tên đất, tên ngời) đã đợc phiên âm sang quốc
ngữ, viết liền các âm tiết trong một từ của ngôn ngữ đa âm, ví nh Giơnevơ…
Đối với chữ Trung Quốc thì phiên âm Hán - Việt.
5. Cách viết hoa
Viết hoa tất cả các thành phần cấu tạo địa danh, nhân danh: Gia Nghĩa,
N’Trang Lơng…
6. Về sắp xếp các đơn vị, thị xã
Theo thứ tự Thị xã Gia Nghĩa sắp xếp đầu tiên, rồi các huyện theo thứ tự
vần chữ cái tiếng Việt.
7. Ảnh, bản đồ
Tranh, ảnh, bản đồ trong “Địa chí Đăk Nông” đợc lấy từ các cơ quan lu trữ

trung ơng và địa phơng, tài liệu nớc ngoài, hay của cá nhân, tập thể, song phải

xuất
xứ.

4


TỔNG LUẬN
Trớc hết, cần hiểu rõ một số điều chủ yếu về địa chí, yêu cầu biên soạn địa
chí và cấu tạo nội dung của “Địa chí Đăk Nông”.
1. Thế nào là “địa chí”
Mỗi một tộc ngời, về sau trở thành dân tộc hay các dân tộc chung sống với
nhau, đều có một địa bàn c trú nhất định. Có thể là nơi c trú trong một thời gian
nhất định rồi chuyển sang địa bàn khác, khi ruộng đất đã bạc mầu, các nguồn
cung cấp thức ăn đã cạn, không cung cấp nguồn sống cho con ngời thời nguyên
thuỷ, hay cộng đồng ngời còn trong tình trạng du canh, du c. Về sau, khi sản
xuất phát triển, có của thừa, xuất hiện giai cấp rồi nhà nớc thì địa bàn c trú của
cộng đồng ngời đã ổn định, trở thành quê hơng, quốc gia, lãnh thổ nhất định.
Con ngời gắn bó chặt chẽ với quê hơng (lớn và nhỏ) có quan hệ với địa phơng khác trong huyện, tỉnh, quốc gia và dần dần mở rộng mối quan hệ với
nhiều quốc gia khác trên thế giới. Dù quan hệ giữa các huyện, tỉnh trong một nớc, giữa các quốc gia ngày càng mở rộng, song mỗi ngời đều gắn bó với nơi
chôn nhau cắt rốn của mình. Mọi ngời đều yêu mến, tự hào với quê hơng và có
nhu cầu tìm hiểu quê hơng mình (tỉnh, huyện, xã). Do đó, sự hiểu biết về quê hơng, địa phơng đợc truyền lại (truyền miệng) từ đời này qua đời khác, rồi thành
văn và các tập địa phơng chí ra đời.
Theo từ ngữ Hán thì “địa chí” gồm có 2 âm tiết là “địa” và “chí”. “Địa” theo
nghĩa đen là “đất” và “chí” là “ghi chép”. Nh vậy “địa chí” có nghĩa là “sự ghi
chép về một vùng đất”. Theo quan niệm của ngời xa, chữ “địa” không giới hạn
là “đất”, mà bao gồm nhiều thứ có liên quan đến một “vùng đất”, nh núi, sông,
tài nguyên, xã hội, con ngời với các sinh hoạt tinh thần, vật chất của con ngời,
ở nơi mà mình sinh ra và lớn lên.

Chính vì những lẽ trên mà các từ điển của Trung Quốc, nh bộ Từ hải đã
định nghĩa “địa chí” là “sách miêu tả, tờng thuật tờng tận về địa hình, khí hậu,
dân c, chính trị, sản vật, văn hoá của một nớc hay một vùng miền”.
Từ những lý giải trên, chúng ta có thể hiểu rằng: “địa chí” là sự ghi chép
một cách toàn diện, khoa học về một địa phơng trên các mặt địa hình, khí hậu,
văn hoá, lịch sử, kinh tế, tổ chức hành chính, phong tục tập quán, lễ hội…
2. Biên soạn “địa chí” để làm gì?

5


Mỗi ngời đều có một quê hơng và cần hiểu rõ về quê hơng, xứ sở của mình,
nơi có gia đình, họ hàng, những ngời láng giềng thân thiết chung sống, có tác
động, ảnh hởng đến tuổi thơ của mỗi ngời. Địa phơng là một bộ phận, gắn bó
với Tổ quốc, dân tộc. Địa phơng là hình ảnh thu nhỏ của Tổ quốc, dân tộc.
Lòng yêu nớc đợc xây dựng trên tình yêu quê hơng, tự hào với những truyền
thống tốt đẹp, những thành tựu của cha ông trong lao động sản xuất và chiến
đấu bảo vệ quê hơng, giải phóng dân tộc.
Nh vậy sự ghi chép về một vùng đất gắn với việc tìm hiểu về quê hơng, tự
hào với quê hơng và góp phần xây dựng quê hơng.
3. Các loại địa chí
Việc biên soạn địa chí phát triển, trở thành một khoa học có tính chất tổng
hợp của nhiều ngành khoa học, song đối tợng nghiên cứu của nó là một vùng
đất với tất cả những gì liên quan đến vùng đất này.
Tuy nhiên, địa chí có nhiều loại khác nhau, tuỳ thuộc ở phạm vi, quy mô
của địa bàn nghiên cứu, tuỳ theo vấn đề nghiên cứu liên quan đến địa ph ơng,
thời gian nghiên cứu. Do đó, có thể phân ra các loại địa chí khác nhau, dù về
tinh chất vẫn cơ bản giống nhau.
Thứ nhất, nếu lấy không gian làm tiêu chí cho việc nghiên cứu, có thể phân
ra địa chí thế giới, địa chí châu lục, địa chí khu vực, địa chí giáo dục. Trong

phạm vi một nớc, có thể chia ra các loại: địa chí toàn quốc (nhất thống chí), địa
chí địa phơng (địa phơng chí). Địa phơng chí lại có phân ra các cấp độ theo đơn
vị hành chính - địa chí một tỉnh (tỉnh chí), địa chí một huyện (huyện chí), địa
chí một xã (xã chí).
Thứ hai, nếu lấy thời gian, theo phân kì lịch sử mácxít - lêninnít làm tiêu chí
cho việc nghiên cứu thì có các loại địa chí một vùng, miền của các thời kì cổ
đại, trung đại, cận đại, hiện đại. Nội dung cơ bản của địa chí theo thời gian là
trình bày những vấn đề cơ bản của một vùng, miền về các mặt tự nhiên, xã hội,
nhân văn ở thời kì ấy.
Thứ ba, nếu lấy một nhân tố nào của tự nhiên, xã hội của một địa bàn làm
đối tợng nghiên cứu, chúng ta có các loại địa chí tự nhiên, địa chí xã hội - nhân
văn: Địa chí tự nhiên nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc của môi trờng địa lý, cùng
sự hình thành và diễn biến của các vùng hay các tiểu khu địa lý. Địa lý xã hội
-nhân văn lại phân ra các loại về những mặt sinh hoạt của con ngời, nh địa chí
văn hoá, địa chí chính trị, địa chí kinh tế, địa chí dân c…

6


4. Đôi nét về lịch sử biên soạn địa chí ở Việt Nam
Do nhu cầu tìm hiểu những vấn đề về tự nhiên và xã hội có liên quan và tác
động mạnh mẽ đến đời sống con ngời nên từ rất sớm những hiểu biết về địa chí
đã xuất hiện - từ những kiến thức nhỏ, rời rạc trong một số sách về xã hội và tự
nhiên ở nhiều nớc cổ đại phơng Đông và Phơng Tây. Tiêu biểu ở Trung Quốc
và Hy Lạp cổ đại. Từ thế kỉ VI - V trớc CN trở đi, những tri thức về địa chí đã
đợc tìm thấy trong Kinh Dịch, trong sách Thơng th (thời Chiến quốc, thế kỉ V III TCN) và sau đó trong Sơn hải Kinh. Những hiểu biết “trên trời, dới đất”
giúp con ngời nắm đợc các hiện tợng thiên văn, địa lý, nhằm thích nghi, ứng
phó với điều kiện tự nhiên xã hội. Ở Hy Lạp cổ đại, nhà địa lý học Êratôxtênêt
(Eratosthenes), sống vào khoảng thế kỉ III - đầu thế kỉ II TCN, đã phác hoạ một
đôi nét về địa chí trong tác phẩm của mình.

Qua các thời kì lịch sử, việc biên soạn địa chí ở nhiều nớc trên thế giới phát
triển mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên và xã
hội - nhân văn.
Ở Việt Nam, những hiểu biết về đất nớc, nhất là về quê hơng đã sớm hình
thành trong văn học dân gian, truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, qua các câu
ca dao, tục ngữ, sử thi, luật tục của các cộng đồng dân tộc trên đất nớc ta.
Những tri thức này tuy đơn giản trình bày dới hình thức mang vẻ thần bí, song
phản ánh đợc các hiện tợng tự nhiên, xã hội, giúp ích rất nhiều cho lao động sản
xuất, đời sống xã hội con ngời.
Sau khi nhân dân ta thoát khỏi ách đô hộ hơn nghìn năm của phong kiến phơng Bắc, giành đợc độc lập, chủ quyền quốc gia và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ thì các loại địa chí lần lợt ra đời, cùng với nhiều tác phẩm văn học, lịch sử,
địa lý…
Về địa chí toàn quốc có các công trình nh An Nam chí lợc (1939) của Lê
Trắc, Địa d chí (1435) của Nguyễn Trãi; Thiên hạ bản đồ (1490) của Lê Thánh
Tông, Đại Nam nhất thống chí (1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn…
Về địa chí vùng miền, có Ô châu cận lục (1555) của Dơng Văn An, Phủ
biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn, Hải Đông chí lợc (1772) của Ngô Thì
Nhậm, Gia Định thành thông chí (cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX) của Trịnh
Hoài Đức, Bắc Thành địa d chí lục (1845) của Lê Chất…
Về địa chí tỉnh, trớc đây hầu nh tỉnh nào trong nớc ta đều có tỉnh chí, nh
“Nghệ An ký” của Bùi Dơng Lịch, Cao Bằng tạp chí do Bế Huỳnh phác thảo,
Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Đình Chi…

7


Nhiều huyện và một số xã cũng viết địa chí của địa phơng mình.
Các loại địa chí, đợc biên soạn dới thời phong kiến, thờng gồm có các mục
sau đây:
- Phân dã, xác định vị trí vùng trời của địa phơng, lấy các ngôi sao ổn định

làm mốc.
- Kiến trí diện cách, nêu quá trình lập tỉnh và những thay đổi về địa bàn tỉnh,
nếu có.
- Hình thế (toạ độ và địa hình)
- Khí hậu (thời tiết, lợng ma, nhiệt độ)
- Phong tục (thói quen, tục lệ)
- Thành trì (thành và hào, kèm theo bản đồ)
- Học hiệu (trờng học)
- Hộ khẩu (số đinh)
- Điền phú (thuế ruộng)
- Sơn xuyên (núi sông)
- Cổ tích (di tích lịch sử - văn hoá)
- Quan tấn (cửa ải, đồn biển)
- Thị tập (chợ búa)
- Tân lơng (bến sông, cầu đập)
- Đê yểm (đê điều)
- Lăng mộ (mồ mả vua chúa)
- Từ miếu (đền miếu)
- Tự quán (chùa thờ Phật, quán Đạo giáo)

8


- Nhân vật (ngời có tên tuổi trong lịch sử)
- Liệt nữ (phụ nữ nổi tiếng)
- Tiên thích (đạo sĩ, tăng lữ)
- Thổ sản (sản vật địa phơng)
- Giang đạo (đờng sông)
- Tân độ (đò ngang, đò dọc)
Những mục nêu trên thể hiện tính toàn diện của địa chí, giúp mọi ngời hiểu

rõ về địa phơng mình.
Trong thời Pháp thuộc và chế độ Mĩ - chính quyền Sài Gòn ở miền Nam,
việc biên soạn địa chí các tỉnh cũng đợc thực hiện. Ở vùng Đăk Nông, sau khi
tỉnh Quảng Đức đợc chính quyền Sài Gòn thành lập (1959) quyển “Địa phơng
chí tỉnh Quảng Đức” đợc biên soạn, song rất đơn lợc, cha phản ánh đợc tình
hình các mặt, nhất là mặt xã hội, nhân văn của vùng đất này.
5. Các yêu cầu biên soạn quyển “Địa chí Đăk Nông”
Khi biên soạn “Địa chí Đăk Nông”, các tác giả tuân thủ các yêu cầu sau
đây:
Thứ nhất, kế thừa và phát huy những thành tựu của cha ông ta trong việc
biên soạn địa chí, kể cả việc tham khảo có chọn lựa những tài liệu thời Pháp
thuộc và dới chế độ Mĩ - chính quyền Sài Gòn, trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối, chủ trơng của Đảng, Nhà nớc và sự
chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền Đăk Nông.
Thứ hai, việc biên soạn thể hiện sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa
học để đạt yêu cầu có tính nguyên tắc về mặt chính xác, đảm bảo quan điểm
chính trị và có hiệu quả cao trong đời sống (giáo dục nhân dân, góp phần vào
phát triển kinh tế, xã hội…).
Thứ ba, Đăk Nông là một tỉnh mới thành lập, song là một vùng đất đã có
con ngời sinh sống từ lâu đời, nơi c trú của một số dân tộc bản địa và nhiều
cộng đồng ngời khác đến sinh sống trong những thời gian khác nhau. Vì vậy,
khi biên soạn địa chí của tỉnh Đăk Nông ngày nay, chúng tôi không tách khỏi

9


vùng Đăk Nông đã có nhiều thay đổi về mặt địa giới của một đơn vị hành chính
của các thời kì lịch sử.
Thứ t, Đăk Nông là nơi c trú của nhiều dân tộc, trong đó các tộc ngời
M’Nông, Mạ, Êđê… c trú lâu đời; các tộc ngời M’Nông chiếm số dân đông, lại

tiêu biểu cho một nền văn hoá của các dân tộc trên cao nguyên M’Nông. Vì
vậy, khi biên soạn chúng tôi đề cập nhiều hơn về ngời M’Nông, song không vì
thế mà coi nhẹ các dân tộc khác, nhất là các cộng đồng ngời mới đến c trú.
Điều quan trọng là qua những nét tiêu biểu của một số tộc ngời, nêu lên những
nét chung, đặc điểm của các dân tộc ở Đăk Nông.
Thứ năm, về mặt địa lý cũng nh các mặt văn hoá, xã hội, lịch sử, kinh tế,
chính trị… vùng đất Đăk Nông, cũng nh các dân tộc ở Đăk Nông không tách
khỏi tự nhiên và xã hội Tây Nguyên. Vì vậy, khi trình bày những vấn đề của
Đăk Nông không thể không nêu những điểm chung, đặc sắc của Tây Nguyên và
con ngời Tây Nguyên, song bao giờ cũng phải làm nổi bật những nét riêng, độc
đáo của đất nớc và con ngời Đăk Nông.
Thứ sáu, trong quá trình phát triển lịch sử, các dân tộc anh em trên lãnh thổ
Việt Nam ngày nay đã xích gần nhau, cùng nhau lao động sản xuất, đấu tranh
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thống nhất, nhiều dân tộc, ngày càng giàu mạnh, văn
minh, tiến bộ trên con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, “Địa chí Đăk
Nông” cũng nêu rõ mối quan hệ giữa các tộc ngời ở Đăk Nông, cũng nh Tây
Nguyên, với các dân tộc trên nhiều miền khác nhau trên đất nớc Việt Nam
thống nhất. Tuy nhiên, vẫn phải làm rõ những nét riêng của vùng đất và con ngời Đăk Nông trong sự thống nhất của dân tộc và Tổ quốc Việt Nam.
Thứ bảy, mối quan hệ giữa một quốc gia, các dân tộc trong một nớc ngày
càng có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với các quốc gia, dân tộc trên thế
giới. Xu hớng toàn cầu hoá hiện nay càng làm cho các dân tộc xích gần nhau.
Đăk Nông lại có biên giới chung với Campuchia, nhân dân vùng biên giới hai
nớc vốn có quan hệ lâu đời về lịch sử, văn hoá, kinh tế, nên ngày càng có mở
rộng và củng cố mối quan hệ truyền thống này.
Cuối cùng, việc biên soạn “Địa chí Đăk Nông” không chỉ giới hạn ở việc
tìm hiểu những điều kiện tự nhiên, tài nguyên, lịch sử, truyền thống trong công
cuộc dựng nớc và giữ nớc mà còn rút ra bài học, kinh nghiệm cho cuộc sống
ngày nay. Địa chí cần có ý nghĩa, tác dụng giáo dục lòng yêu quê hơng, tổ
quốc, xây dựng niềm tin vào sự phát triển của quê hơng, đất nớc dới sự lãnh
đạo của Đảng. Qua Địa chí, tiến hành đấu tranh chống những luận điệu xuyên

tạc, những âm mu, hành động phá hoại bằng cách thực hiện “diễn biến hoà
bình” của các thế lực phản động trong và ngoài nớc, củng cố tình đoàn kết dân

10


tộc và quốc tế, biết ơn các anh hùng, chiến sĩ đã hy sinh cho cuộc đấu tranh vì
độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
6. Cấu tạo và nội dung Địa chí Đăk Nông
“Địa chí Đăk Nông” đợc cấu tạo với các phần; mỗi phần lại gồm một số chơng, thành một thể hoàn chỉnh; nhằm phác hoạ bức tranh về đất nớc và con ngời Đăk Nông trong sự thống nhất của Tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Cấu tạo và Nội dung các phần nh sau:
Phần thứ nhất: Địa lý hành chính - tự nhiên - dân cư, với 3 chơng trình
bày về vị trí, địa giới, diện tích, quá trình hình thành về mặt phân chia địa giới
hành chính của vùng Đăk Nông qua các thời kì. Đồng thời, giới thiệu về địa
hình, địa chất, tài nguyên, khí hậu, đất đai, động vật, thực vật. Đăk Nông là nơi
con ngời sinh sống từ lâu đời và các tộc ngời c trú ở đây đã chung sức xây dựng
và bảo vệ quê hơng.
Phần thứ hai: Lịch sử - truyền thống xây dựng và bảo vệ quê hơng, đất nớc gồm có 4 chơng, phác hoạ bức tranh về sự phát triển của lịch sử vùng Đăk
Nông từ lúc con ngời sinh sống đầu tiên đến ngày nay qua các thời kì lịch sử,
các chế độ xã hội. Từ đó, rút ra những nét khái quát, đặc trng về truyền thống
dân tộc, những con ngời tiêu biểu của quê hơng.
Phần thứ ba: Kinh tế, gồm 6 chơng. Trớc hết, phác hoạ bức tranh chung về
sự phát triển kinh tế Đăk Nông qua các thời kì lịch sử từ nguyên thuỷ đến nay.
Qua đó, ngời đọc sẽ nhận thấy bớc tiến trong xã hội kinh tế, cùng những trở
ngại làm kinh tế của nhân dân ở đây bị trì trệ, lạc hậu. Tiếp đó, sách giới thiệu
về tình trạng, triển vọng, những khó khăn và thuận lợi trong xây dựng các
ngành kinh tế ngày nay: nông nghiệp, thuỷ lợi, chăn nuôi, lâm nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, công nghiệp, điện lực, xây dựng, giao thông vận tải, bu chính,
viễn thông, thơng mại, kinh tế đối ngoại, du lịch, tài chính tín dụng, ngân
hàng…

Phần thứ t: Văn hoá - xã hội với 7 chơng trình bày bức tranh toàn diện,
phong phú về nền văn hoá vật chất tinh thần, các hoạt động về giáo dục, văn
hoá thông tin, báo chí, công nghệ - khoa học… của Đăk Nông. Điều nổi bật là
giới thiệu tơng đối đầy đủ về nền văn hoá đa dạng, mang đậm bản sắc dân tộc
của các dân tộc ở Đăk Nông, chủ yếu là của ngời M’Nông. Địa chí cũng nêu
những hạn chế và thuận lợi của Đăk Nông trong việc xây dựng công nghiệp,
khoa học, đội ngũ cán bộ khoa học - kĩ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo con đờng xã hội chủ nghĩa.

11


Phần thứ năm: Chính trị - quốc phòng - an ninh trình bày một số vấn đề
cơ bản về các mặt:
- Hệ thống chính trị (tổ chức hành chính qua các thời kì và tổ chức Đảng bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam).
- Quốc phòng toàn dân (sự hình thành và phát triển lực lợng vũ trang và ý
thức của quần chúng nhân dân trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc).
- An ninh nhân dân và hệ thống t pháp
Phần thứ sáu: Thị xã và các huyện giới thiệu những nét nổi bật về mọi mặt
của thị xã Gia Nghĩa và các huyện.
*
**
Với nội dung trên, “Địa chí Đăk Nông” phác hoạ bức tranh chung về tỉnh
nhà, hy vọng đạt đợc mục tiêu mà Ban chỉ đạo biên soạn đã đề ra. Do nhiều
khó khăn khách quan và sự hạn chế chủ quan của ngời viết, sách còn nhiều
thiếu sót, mong đợc góp ý, bổ sung để sách đợc hoàn chỉnh hơn.

12



PHẦN THỨ NHẤT
ĐỊA GIỚI - TỰ NHIÊN - DÂN C
Xã hội loài ngời bắt đầu cùng với việc xuất hiện của con ngời. Từ bầy ngời
nguyên thuỷ - tổ chức xã hội đầu tiên - đến nay, con ngời tìm cách thích nghi
với điều kiện tự nhiên và dần dần tác động tự nhiên đến cải tạo, nâng cao đời
sống của mình. Một trong những tác động đến điều kiện tự nhiên là phân chia
khu vực sinh sống của các cộng đồng ngời và khi giai cấp hình thành, các quốc
gia cổ đại ra đời thì việc phân ra các khu vực với các địa giới hành chính cũng
xuất hiện. Cơng vực, địa giới hành chính của một quốc gia, biên giới giữa các
nớc thờng thay đổi do sự biến đổi về lực lợng, quan hệ giữa các tộc ngời, các
dân tộc và có tác động trở lại đối với đời sống xã hội, sự cải tạo, chinh phục,
làm thay đổi các điều kiện tự nhiên, phù hợp hay không phù hợp với tự nhiên;
khai thác có hiệu quả, vững bền tự nhiên hay bị tự nhiên “trừng phạt”.
Vì vậy chúng ta cần tìm hiểu địa lý hành chính của tỉnh Đăk Nông ngày nay
trớc khi có những kiến thức cơ bnả, khoa học về những điều kiện tự nhiên, sự
phân bố dân c, sinh sống của các tộc ngời trong xã hội. Điều này sẽ khắc phục
quan điểm về “duy địa ý”, khẳng định điều kiện tự nhiên quyết định mọi sự tồn
tại và phát triển của con ngời mà không nhận thức đúng rằng, con ngời chịu tác
động của tự nhên song có ảnh hởng lớn đến tự nhiên để làm nên lịch sử của xã
hội.
Phần thứ nhất “Địa giới - Tự nhiên - Dân c” là phần mở đầu, đợc xem nh
cơ sở để hiểu biết đầy đủ, toàn diện, phù hợp với nội dung của một địa chí địa
phơng về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tỉnh Đăk Nông ngày nay.

13


CHƯƠNG MỘT


ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐĂK NÔNG
I. VỊ TRÍ, ĐỊA GIỚI, DIỆN TÍCH
Đăk Nông là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, thuộc biên giới Tây Nam của Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nằm ở phía Tây Nam cao nguyên miền Trung
Việt Nam, Đăk Nông được xác định trong khoảng toạ độ địa lý: 11 045' đến
12050' vĩ độ Bắc, 107010' đến 108010' kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc
giáp tỉnh Đăk Lăk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây Bắc
giáp tỉnh Munđunkiri của Vương quốc Campuchia, phía Tây Nam giáp tỉnh
Bình Phớc.
Đăk Nông là tỉnh miền núi, có độ cao khoảng 600 - 700m, có nơi lên đến
1.970m so với mực nước biển. Diện tích tự nhiên 651.000ha, dân số (năm
2007) có trên 430.000 ngời.
Các đơn vị hành chính của Đăk Nông gồm: Thị xã Gia Nghĩa và 7 huyện:
Huyện C Jút, huyện Đăk GLong, huyện Đăk Mil, huyện Krông Nô, huyện Đăk
R'Lấp, huyện Đăk Song và huyện Tuy Đức với 66.. xã, phờng, thị trấn.
Đăk Nông là tỉnh có đường biên giới dài trên 130km chung với nước
Campuchia, có lợi thế về giao thông với những tuyến đường quan trọng như
Quốc lộ 14 chạy qua hầu hết các huyện trong tỉnh; Quốc lộ 28 đi Lâm Đồng và
Bình Thuận; đường Hồ Chí Minh chạy qua địa phận tỉnh đang được đầu tư xây
dựng. Đặc biệt, trong thời gian tới, khi tuyến đường sắt Đăk Nông - Chơn
Thành- Di An nối với cảng Thị Vải được xây dựng, sẽ mở ra cho Đăk Nông
nhiều cơ hội khai thác có hiệu quả nguồn tiềm năng đất đai vốn từ lâu đợc xem
là thế mạnh của tỉnh.
Thị xã Gia Nghĩa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh
Đăk Nông. Trung tâm thị xã là điểm giao cắt giữa Quốc lộ 14 (chạy xuyên suốt
chiều dài tỉnh theo chiều từ Bắc xuống Nam) với Quốc lộ 28 (nối thị xã Gia
Nghĩa với các thành phố lớn của các tỉnh bạn, nh thành phố Buôn Ma Thuột
(tỉnh Đăk Lăk), thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng), Thành phố Hồ Chí Minh v.v...
Trong tơng lai, các tuyến đờng này cùng với đờng hàng không (sân bay Nhân
Cơ sẽ đi vào hoạt động), thì tỉnh Đăk Nông sẽ là đầu mối giao lu rất quan trọng.

Điều kiện giao thông này là động lực lớn thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh, cũng
nh của cả vùng Tây Nguyên, phát triển, hội nhập kinh tế đất nớc và khu vực.
II. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT ĐĂK NÔNG

14


Về mặt địa lý - lịch sử, vùng đất thuộc địa bàn tỉnh Đăk Nông ngày nay
trong tiến trình lịch sử trải qua những thay đổi về cơng vực và tên gọi.
1. Vùng đất Đăk Nông từ thời tiền sử đến thế kỷ X
Đăk Nông là vùng đất cổ. Tài liệu khảo cổ học vùng Tây Nguyên, thời Tiền
- Sơ sử cũng cho biết, cách đây trên 4.000 năm, ở hầu khắp 5 tỉnh của Tây
Nguyên là Đăk Lăk, Đăk Nông, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng đã có mặt các
tập đoàn cư dân định c nông nghiệp - Họ cư trú trên những gò cao, thềm sông
suối ven hồ nớc, vùng đất đỏ bazan. Bằng những chiếc rìu, bôn tự chế tác, con
ngời ở đây có thể chặt cây, xới đất, làm nghề nông. Họ đã tạo ra cho mình
những đồ trang sức bằng đá, làm ra đồ gốm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày, phục vụ sinh hoạt tôn giáo, tín ngỡng của cộng đồng và đáp ứng các nhu
cầu xã hội khác(1). Qua cứ liệu hiện vật, đặc biệt là đồ gốm, đồ đá, mộ chum,
vò, có thể nhận thấy mối quan hệ, sự giao lưu văn hoá giữa vùng Tây Nguyên
với các vùng văn hoá khác thuộc thời Tiền sử ở ven biển miền Trung, ở vùng
Đông Nam Bộ nước ta và cả ở môt số nơi khác trong khu vực (2).
Bớc vào thời kỳ tiền phong kiến, vùng đất Đắk Nông xa thuộc đất Việt Thường thị. Đời Tần, đất này thuộc Tượng quận; đời Hán đặt huyện Tượng Lâm,
thuộc quận Nhật Nam Tiền Hán thư địa lý chí, chép: "Quận Nhật Nam, xa là
Tượng quận của nhà Tần, Hán Vũ Đế đổi tên, có 16 sông nhỏ, dài 38.010 dặm.
Sử cổ nói: Quận này ở phía Nam mặt trời, nhà mở cửa Bắc để hướng về mặt
trời. Có 5 huyện là: Chu Ngô, Tỵ Ảnh, L Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm"(4).
Đời Hậu Hán, Khu Liên giết chết Viên huyện lệnh, tự xng Lâm ấp vơng. Đời
Tấn đặt quận Nhật Nam(5). Đời Tuỳ, bình định Lâm ấp, đặt làm Sung châu, sau
đổi thành quận Lâm ấp. Theo ghi chép trong "Tuỳ địa lý chí", quận Lâm ấp có

1.220 hộ, 4 huyện: Tợng Phố, Kim Sơn, Giao Giang, Nam Cực (6). Nhà Tuỳ sau
bị loạn, đất này lại thuộc về Lâm ấp. Nhà Đường lấy quận Lâm ấp đặt Lâm
châu, lãnh ba huyện: Lâm ấp, Kim Long, Hải giới. Đất thì bị Lâm ấp chiếm cứ
đến năm 803, cuối đời Trinh Nguyên. Sau đó là đất của hai thành Chà Bàn và
Thị Nại thuộc Chiêm Thành(4). Nh vậy, có thể thấy, thư tịch cũ ghi chép về
vùng đất này khá phong phú. Tuy nhiên, khó có thể đi đến sự phân định rạch
ròi, bởi do vị trí địa lý, vùng đất Tây Nguyên nói riêng, vùng đất Trung Bộ Việt
Nam nói chung, nằm ở ngã ba của các quốc gia Đông Dương, luôn chịu sự
tranh chấp của nhiều thế lực bên ngoài với các tộc ngời bản địa hoặc giữa các
thế lực xâm lợc với nhau v.v... nên, vùng đất này luôn chịu sự xáo trộn về ranh
giới địa lý hành chính.
Nhà bác học Việt Nam thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn trong sách "Phủ biên tạp
lục" ở phần về "Sự tích khai thiết khôi phục hai xứ Thuận - Hoá và Quảng
Nam", có viết "Huyện đời Hán rất lớn, như hai xứ Thuận - Hoá, Quảng - Nam

15


nước ta là nớc Chiêm Thành đời Tống, nớc Lâm ấp đời Tấn, đời Đờng, mà đời
Hán chỉ là đất một huyện Tợng Lâm thôi. Đờng Thư, Địa lý chí chép rằng: "An
Nam đạo Tĩnh hải quân tiết độ sứ quản 12 châu là Giao, Lục, Phong, Ái, Hoan,
Diễn, Trờng, Phúc Lộc, Thang, Chi, Võ An, Võ Nga. Thời bấy giờ Chiêm
Thành trớc gọi là Lâm ấy, lại gọi là Hoàn Vơng quốc, không biết phân giới ở
chỗ nào. Nhng trong Địa lý chí lại chép có 5 huyện của giáp châu Hoành Sơn
quận, hoặc giả đó là đất Thuận Hoá ngày nay" (1). Điều này cho thấy khó khăn
rất lớn trong việc tìm hiểu địa lý hành chính vùng đất Tây Nguyên nói riêng,
tỉnh Đắk Nông nói riêng trong lịch sử.
2. Vùng đất Đăk Nông từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV
Sử cũ có ghi, khi vơng triều Lý bắt đầu thành lập (1010), Chămpa có sai sứ
sang cống. Nhng đến năm 1020, vua Lý đã sai quân vào đánh Bố Chánh; Năm

1044, quân Đại Việt tiến vào Kinh đô Chămpa là Visaya (tức thành Trà Bàn,
Bình Định nay), vua Chăm phải thần phục nhà Lý. Song, từ năm 1065, vua
Chămpa Rudravarman III lại cắt đứt hẳn quan hệ với Đại Việt. Ngày 24 tháng
2, năm Thiên huống Bảo tợng thứ 2 (1069), Thánh Tông thân chinh đánh
Chiêm Thành, “bắt vua nớc ấy là Chế Củ đem về. Chế Củ xin lấy ba châu: Địa
Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Vua Lý nhận, tha cho Chế Củ về nớc"(2).
Năm 1075, vua Lý sai Lý Thờng Kiệt đi tuần biên thuỳ, vẽ địa đồ hình thế,
núi sông ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố chính dâng lên, đổi tên Địa lý làm
châu Lâm Bình, Ma Linh làm châu Minh Linh, chiêu dẫn đến ở. Đến năm 1103,
vua Chiêm Thành là Chế Mana đem quân cớp lại ba châu ấy.
Năm Hng Long thứ 14 (1306), vua Chiêm Thành là Chế Mân sai sứ dâng
biểu cầu hôn. Vua Trần Anh Tông xuống chiếu đem công chúa Huyền Trân gả
cho; Chế Mân đem hai châu Ô, Lý làm vật cới. Năm 1307 đổi Ô, Lý làm hai
châu Thuận - Hoá, chọn ngời trong dân chúng cho làm quan, vẫn cấp ruộng đất
và cho miễn tô thuế 3 năm(3). Năm 1375, đổi châu Lâm Bình làm phủ Tân Bình.
Thời thuộc Minh, phủ Tân Bình có hai huyện trực lệ là Nha Nghi và Phúc
Khang, lĩnh châu, 1 huyện đó là châu Chính Bình, châu Nam Linh và huyện Tả
Bình; Phủ Thuận Hoá lĩnh 2 châu, 11 huyện; Phủ Thăng Hoa vẫn do Chiêm
Thành chiếm giữ, gồm 4 châu, 11 huyện(4).
Tháng 8, năm Hồng Đức thứ 1 (1470), vua Chiêm Thành là Trà Toàn đem
quân cớp Châu Hoá; Tháng 12 vua Lê Thánh Tông cho quân đóng ở thành
Thuận Hoá, rồi tiến quân chiếm thành Chà Bàn, bắt sống đợc Trà Toàn (tháng
12-1471), cho viên tớng Chiêm Bồ Trì làm vơng phần đất còn lại ở Nam đèo
Cù Mông(1).

16


Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, Lê Thánh Tông lập ra 3 nớc: Chiêm
Thành, Hoá Anh và Nam Bàn. Nam Bàn ở vùng Tây Nguyên ngày nay, đứng

đầu là hai vị Hoả Xá và Thuỷ Xá, ngời Jarai, có hơn 12 làng, lấy núi Thạch Bi
ở phía Tây làm địa giới giáp với tỉnh Phú Yên. Từ đó, Tây Nguyên trở thành
một phiên quốc của triều đình phong kiến Việt Nam.
Sách "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn có đoạn chép: Vua Lê Thánh
Tông sau khi đánh thắng Chiêm Thành bèn "phong Bồ Trì làm Chiêm Thành vơng, lại phong Hoa Anh Vơng và Nam Bàn Vơng, chia làm 3 nớc. Lấy đất Đại
Chiêm và Cổ Luỹ cho ngời đầu hàng là Ba Thái làm Đại Chiêm đồng tri châu;
Đa Thuỷ làm Thiên tri châu. Vua dụ rằng: "Đại Chiêm và Cổ Luỹ trớc là đất
của ta, gần đây bị mất về nớc Chiêm Thành, nay lấy lại đợc hết, sai các ngơi
trấn thủ"(2).
Năm 1490, định lại bản đồ thiên hạ làm 13 xứ thừa tuyên, 52 phủ, 178
huyện, 50 châu, 20 hơng, 36 phơng, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40
động, 30 nguồn, 30 trờng. Các xã, thông, trang, sách các xứ có lúc chia, lúc hợp
lại, trấn phủ, huyện châu đợc duy trì(3).
Năm 1540, dới triều vua Lê Trang Tông (1533-1548) Bùi Tá Hán đợc cử
vào trấn thủ thành Quảng Nam, cai quản toàn bộ đất Tây Nguyên; ông có công
tổ chức dinh diền, di dân khẩn hoang lập ấp trên vùng Thợng và củng cố mối
quan hệ thuận hoà giữa ngời Kinh (Việt) và ngời Thợng (dân bản địa) ở Tây
Nguyên.
Nh vậy, có thể nói, cho đến trớc thế kỷ XV, vùng Tây Nguyên, trong đó có
Đăk Lăk, Đăk Nông ngày nay vẫn cha có một hệ thống hành chính hoàn chỉnh,
về cơ bản vẫn là vùng đất đợc vận hành theo luật tục của các buôn làng độc lập
(luật tục của ngời Êđê, M'nông...).
3. Vùng đất Đăk Nông từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII
Đầu thế kỷ XVI, nhất là từ sau khi vua Lê Hiến Tông qua đời, xã hội Đại
Việt mất dần cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống khổ cực, các thế lực
phong kiến tranh chấp lẫn nhau mở đầu cho một giai đoạn mới của chế độ
phong kiến Việt Nam: chiến tranh Nam - Bắc Triều và sự phân liệt Đàng
Ngoài - Đàng Trong.
Ở Đàng ngoài, nhà Lê - Trịnh duy trì chính sách hoà hợp với các dân tộc ít
ngời, mở rộng việc khai thác khoáng sản. Quan hệ với nhà Thanh, chính quyền

Lê - Trịnh có thái độ mềm dẻo, nhng cơng quyết. Năm 1726, một dải đất thuộc

17


hai châu Vị Xuyên (Tuyên Quang) và Thuỷ Vỹ (Hng Hoá) đợc nhà Thanh trả lại
cho Đại Việt.
Đối với Ai Lao ở Tây Nam, sau khi thiết lập lại chính quyền, nhà Lê - Trịnh
đặt lại quan hệ. Vua Lê Thuận Tông đã gả con gái cho vua Lan Xang, thắt chặt
thêm tình đoàn kết giữa hai nớc.
Ở Đàng Trong, chính quyền chúa Nguyễn, một mặt củng cố việc phòng thủ
đất Thuận Quảng, chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh, mặt khác tìm
cách mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Từ năm 1611, Nguyễn Hoàng đã cho
quân đánh phá biên giới của Chiêm Thành, chiếm đất, đặt thành phủ Phú Yên,
năm 1653, chiếm vùng đất từ Nam Phú Yên đến bờ sông Phan Lang, đặt ra 2
phủ: Thái Khang và Diên Khánh. Năm 1693, cử quân chiếm nốt vùng đất còn
lại của vua Chiêm. Đến đây, nớc Chiêm Thành hoàn toàn hoà nhập vào Đại
Việt. Để mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam, các chúa Nguyễn đã đặt quan hệ
với Chân Lạp, đa ngời vào khai phá đất hoang, lập làng. Đến năm 1757, cả
vùng đất Thủy Chân Lạp hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chúa Nguyễn.
Nh vậy, cho đến giữa thế kỷ XVIII, họ Nguyễn đã làm chủ cả một vùng đất
rộng lớn từ Nam dải Hoành Sơn cho đến mũi Cà Mau. Hình thành 12 đơn vị
hành chính gọi là dinh. Vùng Thuận - Quảng cũ đợc chia làm 6 dinh; vùng đất
mới phía Nam chia làm 6 dinh. Mỗi dinh quản hạt một phủ, dới phủ có huyện,
tổng, xã (hay phờng thuộc, sách, động...). Riêng dinh Quảng Nam quản 3 phủ:
Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
Trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đồng bào Tây Nguyên đã ủng hộ nghĩa
quân rất tích cực, góp phần không nhỏ vào những chiến thắng lịch sử của nghĩa
quân. Đến triều Nguyễn (đầu thế kỷ XIX), do chính sách sai lầm trong việc
quản lý vùng đất này, triều Nguyễn đã để vùng Tây Nguyên rơi vào sự cai trị

của quân Xiêm.
4. Vùng đất Đăk Nông trong thời kỳ thuộc Pháp (từ cuối thế kỷ XIX đến
năm 1945).
Năm 1858, cùng lúc với việc nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu
cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã cử các phái đoàn
lên Tây Nguyên điều tra, khảo sát tình hình dưới các hình thức truyền đạo hoặc
nghiên cứu dân tộc học. Cũng từ đó, không ít lần Pháp đã đa quân đội lên với ý
đồ chiếm lại Tây Nguyên từ tay quân Xiêm, song mãi đến năm 1893, Xiêm mới
thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp trên bờ tả ngạn sông Mê Kông và Tây
Nguyên. Triều đình nhà Nguyễn buộc phải chấp nhận để Pháp toàn quyền cai

18


trị vùng cao nguyên Trung phần, hay nói cách khác, Tây Nguyên là vùng đất
thuộc quyền cai trị trực tiếp của thực dân Pháp.
Ngày 1-6-1899, Toàn quyền Đông Dơng ban hành Nghị định thành lập Đại
lý hành chính Đăk Lăk (Commissariat de Darlac) thuộc Lào gồm toàn bộ địa
bàn tỉnh Stung Streng. Trớc phong trào đấu tranh lâu dài và quyết liệt của nhân
dân các dân tộc Tây Nguyên và sức ép của triều đình Huế, ngày 22-11-1904,
Toàn quyền Đông Dơng buộc phải ban hành Nghị định trả lại Đăk Lăk từ Lào
cho Việt Nam, thuộc quyền giám sát và quản trị của Khâm sứ Trung Kỳ. Sự
kiện này mang tính pháp lý, xác nhận chủ quyền lãnh thổ quốc gia trọn vẹn của
Việt Nam, cột mốc đánh dấu sự thành lập tỉnh Đăk Lăk và tỉnh lỵ Buôn Ma
Thuột.
Năm 1913, Toàn quyền Đông Dơng ra Nghị định thành lập tỉnh Kon Tum,
bao gồm vùng đất các tỉnh Kon Tum, Cheo Reo và Đăk Lăk. Ngày 2-7-1923,
Đăk Lăk tách khỏi Kon Tum thành một tỉnh riêng. Năm 1930, tỉnh Đăk Lăk đợc chia thành 4 tổng (secteur): Buôn Ma Thuột (tỉnh lỵ), M'Nông (bờ trái sông
Srêpok), Buôn Phy và M'léang. Ngày 9-4-1934, Khâm sứ Trung Kỳ ban hành
Nghị định chia Đăk Lăk thành 24 tổng. Đứng đầu các tổng là Cai tổng. Theo số

liệu thống kê năm 1936 (Annuaire Statistique dé L'Indochine), tỉnh Đăk Lăk có
diện tích 21.300 km2, dân số 106.000 ngời, đơn vị trực thuộc có 30 tổng, 576
xã(2).
Ngày 6-1-1942, Khâm sứ Trung Kỳ ban hành Nghị định số 3268 chia Đăk
Lăk thành 3 quận, 2 đại lý và 7 tổng. Quận Buôn Ma Thuột có các tổng: Buôn
Ma Thuột, Buôn Dung, Ea Knir, K'Mrong Prong, Buôn Đôn, Ea H'bong, Ea
K'tur và Ea Yong. Quận Lăk có các tổng: Lăk, Đăk Lieng, Plao Siêng, Pluk,
Thợng Đăk Phoi, Trung Krông Kno, Thợng KrôngBông. Quận Buôn Hồ có các
tổng: Ea H'leo, Ea Đrăng, Ea Súp, Ea Tul, Ea Krông Buk, Ea Drong, Ea Krông
Pac. Hai đại lý là M'drak (gồm các tổng: Buôn Ma Suốt, Buôn M'léang, Buôn
Hai, Buôn Ea Nang, Buôn Giáp) và đại lý Đăk Dam (gồm các tổng: Đăk Mil,
Đăk Dam, Đăk Mam, Đăk Klao, Đăk Buk So, Đăk N'drong và Đăk R'tih). Nh
vậy, vùng đất thuộc hai tỉnh: Đăk Lăk và Đăk Nông ngày nay nằm trong đại lý
Đăk Dam.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ngay sau khi trở lại xâm lợc miền
Nam, Pháp tổ chức 5 tỉnh gồm Đăk Lăk, Đồng Nai Thợng, Lâm Viên, Pleiku,
Kon Tum thành cái gọi là “Liên bang phụ trách các dân tộc sơn cớc miền Nam
Đông Dơng”, đặt trụ sở ở Buôn Ma Thuột. Năm 1950, chính quyền Bảo Đại ở
vùng Pháp tạm chiếm đặt các tỉnh này thành một địa phận hành chính riêng gọi
là “Cao nguyên miền Nam” thuộc “Hoàng triều cơng thổ”, ấn định một số quy
định riêng cho đồng bào các dân tộc ngời Tây Nguyên.

19


5. Vùng đất Đăk Nông từ 1945 đến nay.
Cách mạng tháng 8-1945 thành công. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập
tuyên bố trớc quốc dân và thế giới: Nớc Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã ra đời.
Theo Sắc lệnh số 51, ngày 17-10-1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà ấn định thể lệ tổng tuyển cử, có 7 thành phố (gồm: Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thuỷ, Đà Nẵng và Sài Gòn) là những
đơn vị tuyển cử nh các tỉnh. Nh vậy, kể cả khu đặc biệt Hòn Gai thành lập ngày
19-7-1946, nớc Việt Nam có 73 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Thành phố Hà Nội
là Thủ đô đợc đặt trực tiếp dới quyền Chính phủ Trung ơng, còn các tỉnh và
thành phố khác đều thuộc quyền các bộ. Theo đó, tỉnh Đăk Lăk (trong đó có
vùng đất Đăk Nông ngày nay) thuộc Trung Bộ (1). Sau đó, để thống nhất chỉ đạo
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tỉnh Đăk Lăk đợc đặt thuộc Uỷ ban
kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ, thành lập thêm các huyện: Baroi, Ka
Mil, Cheo Reo(2).
Thực hiện chủ trơng của Chính phủ, từ cuối năm 1945 thành lập các chiến
khu. Tỉnh Đăk Lăk thuộc Chiến khu 6(3).
Từ tháng 12-1946 đến tháng 1-1948, cả nớc có 14 chiến khu, tỉnh Đăk Lăk
vẫn thuộc chiến khu 6.
Tháng 1-1948 thực hiện hợp nhất các quân khu trên cả nớc. Trớc toàn quốc
kháng chiến (12-1946), các chiến khu là đơn vị quân sự, từ sau toàn quốc
kháng chiến kiêm cả chức năng hành chính, là đơn vị quân sự - hành chính gọi
chung là Chiến khu hoặc Khu(4). Khu 6 (còn đợc gọi là Khu Tây Nguyên) hợp
nhất với khu 5 thành Liên khu miền Nam Trung Bộ(1).
Sau Hiệp định Giơnevơ, ngày 2-7-1958, chính quyền Sài Gòn chia Đăk Lăk
thành 5 quận: Quận Ban Mê Thuột (gồm 4 tổng: Ea Tam, C Keh, C Ewi và
Drai Sap); quận Lạc Thiện (gồm 7 tổng: Dak Lieng, Yang Lak, Krông Ana,
Krông Bông, Dak Phơi, Dak Rohyo và Nam Ka); quận M'Drak (gồm 4 tổng:
Krong Jing, Krong Hing, Ea Bar, Krong Pa); quận Dak Song (gồm 2 tổng: Dak
Mil và Dak Thoc); quận Buôn Hồ có 4 tổng: C Dlie Ya, C Kuk, C Kti và C
Dré). Vùng đất Đăk Nông ngày nay phần lớn thuộc đất của quận Đăk Song, với
các tổng: Đăk Mil và Đăk Thóc.
Tháng 1-1959, Chính quyền “Việt Nam Cộng hoà” (chính quyền Sài Gòn)
cắt một phần phía Tây của tỉnh Đăk Lăk để thành lập tỉnh Quảng Đức. Địa giới
hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản giống nh địa giới tỉnh Đăk Nông ngày

nay. Theo Sắc lệnh số 24/NV của Tổng thống “Việt Nam Cộng hoà”, ngày 23-

20


1-1959 tỉnh Quảng Đức đợc giới hạn nh sau: "Thành lập tại Cao nguyên Trung
phần một tỉnh mới đặt tên là tỉnh Quảng Đức, tỉnh lỵ đặt tại Gia Nghĩa”.
Về giới hạn đất đai, cắt xã Bu Prang thuộc địa phận phía Đông Bắc quận
Phớc Hoà, tỉnh Phớc Long và toàn địa phận quận Đăk Song, trừ tổng Đăk Klao
ở phía Bắc và một phần quận Lăk thuộc tỉnh Đăk Lăk, một phần đất phía Bắc
quận Di Linh, thuộc tỉnh Lâm Đồng (xã Bích Khê)(1).
Về địa giới hành chính, theo miêu tả trong sách “Tỉnh Quảng Đức” xuất bản
năm 1960, thì: tỉnh Quảng Đức ở về phía Tây Nam cao nguyên Trung phần,
giáp giới:
- Phía đông với tỉnh Đắk Lắc và Tuyên Đức.
- Phía Tây giáp xứ Cambodge (Cămpuchia).
- Phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và Phớc Long.
Địa phận tỉnh Quảng Đức nằm dài trên một vĩ tuyến. Điểm cực Nam của
tỉnh nằm ở gần vĩ tuyến 13, điểm cực Bắc nằm tại vĩ tuyến 14 04, điểm cực Tây
nằm tại 107013’, điểm cực Đông nằm tại 108010’ đông kinh tuyến.
Tỉnh Quảng Đức có diện tích 5.797 km2, đợc chia làm 3 quận:
- Quận Kiến Đức, có diện tích 1.937 km2, nay là đất của các huyện: Đăk
Song, Tuy Đức, Đăk Rlấp.
- Quận Khiêm Đức, có diện tích 1.387 km2, nay là đất của các huyện: Đăk
GLong và thị xã Gia Nghĩa.
- Quận Đức Lập, có diện tích 2.473 km2, nay là đất của các huyện: Krông
Nô, Đăk Mil.
Dân số toàn tỉnh năm 1960 là 30.792 ngời; trong đó, ngời Kinh (Việt) có
11.391 ngời; ngời Thợng (ngời bản địa) có 17.393 ngời; ngoại kiều có 8 ngời(1).
Theo Nghị định số 616/BNV/NC/8/NĐ của Tổng thống “Việt Nam Cộng

hoà”, ngày 15-2-1960, tỉnh Quảng Đức gồm 3 quận, 1 cơ sở hành chính chia
thành 4 tổng, 15 xã(2).
* Văn phòng hành chính tỉnh, có 1 tỉnh trởng và 2 phó tỉnh trởng phụ tá (1
phó tỉnh trởng hành chính, 1 phó tỉnh trởng nội an). Dới Văn phòng có 5 phòng,

21


mỗi phòng có số nhân viên từ 5 - 7 ngời do một chủ sự điều khiển (xem sơ đồ
1).
Sơ đồ 1: Văn phòng hành chính tỉnh Quảng Đức, năm 1960
TØnh trëng
2 Phã tØnh trëng: - Phã tØnh trëng Hµnh chÝnh
- Phã tØnh trëng Néi an

Toà Hành chính tỉnh

Văn phòng

Phòng Hành chính

Phòng
Kinh tế

Phòng
Tài chính

Phòng
Thuế vụ


* Về đơn vị hành chính của tỉnh: Tỉnh Quảng Đức đợc chia thành 3 quận.
Mỗi quận có quận trởng phụ trách(1), cụ thể là:
- Quận Khiêm Đức, nằm ở phía Đông Nam tỉnh, gồm 1 tổng, 4 xã (3 xã ngời
Thợng, 1 xã ngời Kinh). Quận lỵ đặt tại địa điểm Tamoung (toạ độ 945.246).
- Quận Kiến Đức, nằm ở phía Tây Nam tỉnh, gồm 2 tổng và 4 xã ngời Thợng. Quận lỵ đặt ở toạ độ Y.U. 745-276 (Sùng Đức).
- Quận Đức Lập, nằm ở phía Bắc tỉnh, có 1 cơ sở hành chính 1 tổng, 7 xã.
Quận lỵ đặt tại T Minh (toạ độ 885-778)(2).
Theo quy định, dới quận có các tổng, xã (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Tổng quan các đơn vị hành chính tỉnh Quảng Đức, năm 1960(3)).
Quận

Tổng

Khiêm
Đức

Sơn Khê



Dân
(ngời)
1. Bích Khê 2.323
2. Bích Sơn 2.711
3.
Đạo 2.425
Trung

22


số Ghi chú


4.
Gia 1.326
Nghĩa
Kiến Đức Kiến Minh
1. Kiến Tín 6.246
2.
Kiến 1.340
Thành
Kiến Đạo
Kiến Tâm 2.392
Kiến Trực 2.379
Đức Lập Đức Minh
Đức Minh I 2.349
Đức Minh 2.310
II
Đức Mạnh 1.509
Đức Đam 248
Đức An
496
Cơ sở hành chính Đức Đức Sơn 733
Xuyên
Đức Thịnh 403
Lăk - MDót 703

Do tỉnh Đăk Lăk bàn
giao (1960)


Theo Nghị định 161/BNV/NC8/NĐ của Tổng thống “Việt Nam Cộng hoà”,
ngày 15-2-1960, các tổng đều đặt chức Chánh tổng, xã thành Hội đồng xã, mỗi
hội đồng xã có từ 3 đến 5 hội viên (1). Các đơn vị trực thuộc xã bao gồm buôn,
thôn. Thôn của ngời Kinh đặt trởng thôn, buôn của ngời Thợng thì có chủ làng,
phần lớn họ là các tộc trởng đợc cử ra coi sóc việc trong buôn và giao thiệp với
chính quyền. Tính đến tháng 2-1960, tỉnh Quảng Đức có 14 xã với 209 thôn,
buôn (xem các đơn vị hành chính tỉnh Đăk Nông).
Các ty (sở) chuyên môn của tỉnh Quảng Đức cũng lần lợt đợc thành lập, bao
gồm:
- Ty Công an và Cảnh sát
- Ty Công chính và kiến thiết
- Tỉnh đoàn Bảo an
- Ty Tiểu học vụ

23


- Ty Y tế
- Ty Thanh niên
- Ty Bu điện
- Ty Thông tin
- Ty Hiến binh
- Khu dinh điền(2)
- Tỉnh đoàn công dân vụ
- Đài vô tuyến điện.
Riêng, các ty Canh nông, ty Chăn nuôi, Ngân hàng, Địa chính, Chi cục nông
tín, vào thời điểm tháng 2-1960 cha thành lập. Vì vậy, mọi vấn đề có liên quan
đến các cơ quan này đều phải nhờ sự giúp đỡ của các ty tại Buôn Ma Thuột
(tỉnh Đăk Lăk).
Tháng 2-1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt

Nam ra Nghị định về giải thể Khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam, tỉnh
Quảng Đức hợp nhất với tỉnh Đăk Lăk thành tỉnh Đăk Lăk. Các quận: Khiêm
Đức, Kiến Đức, Đức Lập thuộc về huyện Đăk Nông, tỉnh Đăk Lăk, huyện lỵ
đặt tại thị trấn Gia Nghĩa; địa giới xã, thôn, buôn có sự thay đổi.
Tháng 2-1986, theo Quyết định số 19/HĐBT của Hội đồng Bộ trởng, ngày
22-2-1986, huyện Đăk Nông thuộc tỉnh Đăk Lăk đợc chia thành 2 huyện, lấy
tên là huyện Đăk Nông và huyện Đăk R'lấp.
- Huyện Đăk Nông có 6 xã, gồm: Quảng Thành, Quảng Phú, Quảng Khê,
Quảng Sơn, Đăk BLao, Đăk Rung; diện tích tự nhiên là 244.750 ha, dân số:
19.870 ngời(1).
- Huyện Đăk R'lấp có 4 xã, gồm: Quảng Trực, Quảng Tân, Quảng Tín, Đạo
Nghĩa; diện tích tự nhiên là 163.250 ha, dân số: 8.710 ngời(2).
Ngày 19-6-1990, huyện C Jút đợc thành lập trên cơ sở tách 5 xã Ea T'linh,
Tâm Thắng, Trúc Sơn, Ea Po, Nam Dong của thị xã Buôn Ma Thuột với 36.400
ha diện tích tự nhiên, 18.379 nhân khẩu và 35.100 ha diện tích tự nhiên (gồm
toàn bộ đất lâm nghiệp) của xã Đăk Lao (huyện Đăk Mil). Huyện C Jút khi mới

24


thành lập có 5 xã: Ea T'linh, Tâm Thắng, Trúc Sơn, Ea Po và Nam Dong, với
71.500 ha diện tích tự nhiên và 18.379 nhân khẩu(3).
Năm 2004, tỉnh Đăk Nông đợc thành lập trên cơ sở chia tách tỉnh Đăk Lăk,
hyện C Jút đợc cắt về tỉnh Đăk Nông. Đây là phần đất không có trong tỉnh
Quảng Đức năm 1959.
Từ năm 1990 đến năm 2000, các huyện Đăk Nông, Đăk R'lấp, Đăk Mil, C
Jút, Krông Nô đều có sự điều chỉnh về địa giới hành chính cấp xã (xem phần
các đơn vị hành chính tỉnh Đăk Nông).
Năm 2001, huyện Đăk Song đợc thành lập trên cơ sở tách một số xã của
huyện Đăk Nông và huyện Đăk Mil (4). Huyện Đăk Song khi mới thành lập, có

80.811 ha diện tích tự nhiên, 28.380 nhân khẩu với 5 đơn vị hành chính trực
thuộc là các xã: Đăk Rung, Trờng Xuân, Đăk Môl, Thuận Hạnh và Đăk Song(5).
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập huyện Đăk Song
(2001):
- Huyện Đăk Nông còn lại 172.892 ha diện tích tự nhiên và 27.007 nhân
khẩu, có 9 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các xã: Quảng Khê, Đăk Ha,
Đăk R'măng, Quảng Thành, Đăk Plao, Đăk Som, Đăk Nia, Quảng Sơn và thị xã
Gia Nghĩa.
- Huyện Đăk Mil còn lại 68.352 ha diện tích tự nhiên và 64.560 nhân khẩu,
có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Đức Minh, Đức Mạnh, Thuận
An, Đăk Lao, Đăk Gằn, Đăk R'la, Đăk Săk và thị trấn Đăk Mil (1).
Tháng 11 năm 2003, tại kỳ họp Quốc hội khoá 9 quyết định tách Đăk Lăk
thành 2 tỉnh: Đăk Lăk và Đăk Nông. Năm 2004, tỉnh Đăk Nông đợc thành lập,
bao gồm các huyện: Đăk Nông, C Jút, Đăk Mil, Krông Nô, Đăk Song, Đăk
R'lấp. Tỉnh lỵ là thị xã Gia Nghĩa.
Tháng 1-2005, huyện Đăk Nông đổi tên thành huyện Đăk GLong.
Tháng 1-2007, huyện Tuy Đức đợc thành lập trên cơ sở tách xã Đăk Bút của
huyện Đăk R'lấp.
Tính đến nay (10-2007), tỉnh Đăk Nông có 8 đơn vị hành chính trực thuộc
(xem các đơn vị hành chính tỉnh Đăk Nông).
III. CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TỈNH ĐĂK NÔNG HIỆN NAY

25


×