LỜI MỞ ĐẦU
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra
trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu
quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế
nói chung nên pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt
động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ
thể trong nhiều văn bản pháp luật
Năm 2003, Pháp lệnh trọng tài thương mại được ban hành ngày 25/2/2003 tuy
không đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương mại nhưng thông qua khái niệm về “hoạt
động thương mại” đã tạo được sự tương đồng trong quan niệm “thương mại” và “tranh
chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông
lệ quốc tế. Đến năm 2010, Luật trọng tài thương mại ra đời đã tiến thêm một bước để
hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, qua đó đáp ứng được nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp của cộng đồng doanh nghiệp.
Tìm hiểu về tranh chấp thương mại là cơ sở quan trọng để tìm hiểu và áp dụng
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam
tồn tại 4 phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm: Thương
lượng; Hòa giải; Trọng tài thương mại; Tòa án.
Cả 4 phương thức này đều có những ưu điểm và tầm quan trọng riêng của nó.
Nhưng trong phạm vi bài tập nhóm tháng 2 này, nhóm em sẽ tìm hiểu riêng về hình
thức trọng tài thương mại, từ đó nghiên cứu sâu thêm về việc giải quyết các tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại.
1
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại và giải quyết tranh chấp tại trọng tài
thương mại.
1. Khái niệm trọng tài thương mại.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì:
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này”. Theo đó, trọng tài thương mại là cơ quan
giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế và
thực hiện quản lý Nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế theo quy định của pháp luật. Và
có thể hiểu quy định này có nghĩa là việc giải quyết tranh trấp phát sinh tại trọng tài
thương mại phải được các bên tham gia thỏa thuận, nếu không có sự thỏa thuận này thì
không thể ép buộc hoặc đương nhiên đưa ra trọng tài thương mại được. Và khi đưa
tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài thương mại thì phương thức giải quyết được tiến
hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp luật quy định.
2. Các hình thức trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài
ad-hoc) và trọng tài quy chế. Mỗi hình thức trọng tài lại có những ưu điểm riêng và việc
lựa chọn hình thức trọng tài thương mại nào tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên
trong từng hợp đồng cụ thể.
2.1. Trọng tài vụ việc.
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành
lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải
quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng rộng rãi
trên thế giới. Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện ở chỗ trọng tài vụ việc chỉ
được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để giải quyết vụ tranh chấp cụ
thể đó và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp. Không
giống hình thức trọng tài thường trực, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực,
không có bộ máy điều hành vì chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo thoản
thuận của các bên và không có danh sách trọng tài viên riêng.
2
Hơn thế nữa, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình. Bởi
trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp nên quy tắc tố tụng
để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Tuy nhiên, để tránh
lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào việc xây dựng quy tắc tố tụng, các bên
tranh chấp có thể lựa chọn bất kì một quy tắc tố tụng phổ biến nào, mà thông thường là
quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế. Các bên
tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh
chấp nên chỉ chịu sự ràng buộc bởi quy tắc tố tụng của chính trung tâm trọng tài mà các
bên lựa chọn. Mặt khác quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự không bị
giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có như hình thức trọng tài quy chế mà có thể
lựa chọn bất cứ trọng tài nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên của các trung tâm
trọng tài.
2.2. Trọng tài quy chế.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng các trung
tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có
con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định. Các trung tâm trọng tài được
thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép, chứ không phải được thành lập bởi nhà nước. Tuy nhiên, trung tâm
trọng tài vẫn luôn đặt dưới sự quản lí và hỗ trợ của nhà nước. Khác với hình thức trọng
tài vụ việc, trọng tài quy chế là các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc
lập với nhau. Tổ chức và quản lí ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu
tổ chức của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung
tâm. Mỗi trung tâm trọng tài tồn tại độc lập, bình đẳng với các trung tâm trọng tài khác
và có quy tắc tố tụng riêng được ghi rõ trong điều lệ của trung tâm trọng tài đó. Bên
cạnh chất lượng các trọng tài viên, sự đơn giản và linh hoạt của quy tắc tố tụng cũng là
yếu tố tạo ra sự hấp dẫn của mỗi trung tâm trọng tài trước khách hàng.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì có 5 nguyên tắc giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.
3
3.1. Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận
đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội (Khoản 1 Điều 4 Luật trọng tài
thương mại 2010).
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Như
vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh
chấp. Thỏa thuận trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp
đồng và phải được lập thành văn bản. Ngay cả khi hợp đồng giữa các bên không được
thực hiện bằng vản bản thì thỏa thuận trọng tài vẫn phải được lập thành văn bản. Nếu
không có thỏa thuận trọng tài, trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết.
Trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì khi
đó trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết.
3.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan.
Khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 quy định “Khi giải quyết
tranh chấp, Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật
và tôn trọng sự thoả thuận của các bên”. Sự độc lập là yêu cầu vô cùng quan trọng,
mang tính quyết định đến việc giải quyết và đưa ra một phán quyết khách quan cho vụ
tranh chấp. Hơn thế nữa sự vô tư khách quan của trọng tài viên còn góp phần khẳng
định uy tín của Trọng tài với các bên. Trong quá trình tố tụng không được có bất kỳ một
sự can thiệp của bất kỳ ai đối với Trọng tài viên. Khi giải quyết vụ việc, các Trọng tài
viên trong Hội đồng Trọng tài độc lập với nhau, chỉ lấy pháp luật và sự thoả thuận của
các bên làm cơ sở cho quyết định của mình. Bất kỳ trọng tài viên nào không bảo đảm
được sự khách quan trong khi làm việc, các bên tranh chấp đều có quyền thay đổi.
3.3. Nguyên tắc các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; Hội đồng
trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình (Khoản 3 Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010).
Đây là nguyên tắc đã được Bản luật mẫu UNCITRAL thừa nhận và được Trọng
tài của tất cả các nước thực hiện. Theo nguyên tắc này, các bên tranh chấp hoàn toàn có
quyền như nhau trong việc lựa chọn, khước từ Trọng tài viên, lựa chọn địa điểm, đưa ra
yêu cầu và các lý lẽ biện minh cũng như các chứng cứ để Trọng tài xem xét và việc tiếp
4
nhận thông tin từ các bên. Trong quan hệ tranh chấp các bên có địa vị pháp lý như nhau
và trong tố tụng trọng tài các bên có tư cách tố tụng bình đẳng với nhau trong tất cả mọi
hoạt đọng nhằm bảo đảm giải quyết vụ tranh chấp một cách công bằng và bảo vệ lợi ích
hợp pháp của các bên. Thưc hiện tốt nguyên tắc này thì việc giải quyết tranh chấp mới
có khả năng thành công và phán quyết của Trọng tài sẽ dễ dàng được các bên tự nguyện
thi hành.
3.4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công
khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết pháp
luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in camera) nếu
các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh
tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều
đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh. Đây là ưu điểm đối với những doanh
nghiệp không muốn các chi tiết trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết
lộ trước Tòa án (hoặc công chúng) - điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong
hoạt động kinh doanh của mình.
3.5. Nguyên tắc Phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài. Nguyên tắc này bắt nguồn từ
bản chất của hoạt động Trọng tài là nhân danh ý chí tối cao và quyền lực các bên trao
cho để giải quyết tranh chấp. Nguyên tắc này chỉ được thể hiện bằng quy định: Tố tụng
trọng tài là tố tụng một cấp, phán quyết là chung thẩm, các bên không có quyền kháng
cáo. Các bên chỉ có quyền yêu cầu Toà án huỷ quyết định trọng tài trong những trường
hợp rất hạn chế và Toà án trong trường hợp này không được quyền xét xử lại vụ tranh
chấp mà chỉ kiểm tra tính hợp pháp của quyết định Trọng tài.
4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của trong tài thương mại.
Điều kiện đầu tiên để một tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
thương mại phải là tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh
phát sinh từ hoạt động thương mại.
Theo Điều 2 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp của Trọng tài:
5
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài”.
Trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp thương mại.
Theo đó trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp
thương mại phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Tranh chấp thương mại là
những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá
trình thực hiện các hoạt động thương mại gồm các hành vi thương mại nào mà một bên
là cá nhân, tổ chức thực hiện như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại
diện, đại lý, ký gửi, thuê, xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; li-xăng, đầu tư, tài chính - ngân
hàng, bảo hiểm… Khi các tranh chấp thương mại đó xảy ra thì trọng tài thương mại có
thẩm quyền được giải quyết.
Điều kiện tiên quyết thứ hai để xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại
là giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ.
Trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án.
Chính vì vậy, việc Trọng tài giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại là do các
bên thỏa thuận lựa chọn và thường được ghi nhận trong hợp đồng.
Tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại
nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này có hiệu
lực. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận bằng phương thức trọng tài, không có
tố tụng trọng tài”. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật trọng tài thương mại quy
định về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thì: “Tranh chấp được giải quyết
bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được
lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.”
Thỏa thuận của trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong
hợp đồng và phải được lập thành văn bản (khoản 1,2 Điều 16 Luật trọng tài thương
mại).
6
Để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng, tổ chức và
cá nhân kinh doanh phải có thỏa thuận với nhau một điều khoản về chọn Trọng tài. Tuy
nhiên, nếu đã có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý
thì Trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết, khi đó nếu Trọng tài vẫn tiến hành
giải quyết trong trường hợp này, quyết định trọng tài đó sẽ bị hủy. Một khi không có
thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì Toà án có quyền ra quyết định
hủy quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã
ra quyết định trọng tài thuộc một trong hai trường hợp này. Vì vậy, có thể khẳng định
rằng, thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với
việc áp dụng Trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh,
hay nói cách khác không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài.
Qua đây ra thấy rằng một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
thương mại khi đáp ứng đầy đủ hai điều kiện trên. Nếu thiếu một trong hai điều kiện
trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
5. Các ưu thế khi giải quyết tranh chấp tại trọng tài so với các hình thức giải quyết
tranh chấp khác.
Ưu thế đầu tiên phải kể đến khi áp dụng giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài là tính chất mềm dẻo, nhanh chóng, linh hoạt cho các bên trong khi giải quyết
tranh chấp. Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án
về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó. Trong khi
đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm
phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả
nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi
phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại có ưu điểm nổi
bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá trị
chung thẩm, tức là có hiệu lực cuối cùng, giúp các bên tiết kiệm được nhiều thời gian và
chi phí hơn. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án,
như thế Tòa án sẽ phải xử đến 2 - 3 lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám
7
đốc thẩm, tái thẩm, chưa kể còn có khiếu nại, khiếu kiện. Trong khi xét xử tại trọng tài
thương mại chỉ có một cấp xét xử, cách thức giải quyết lại hết sức đơn giản và linh
động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối với
các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo. Khi
tuyên phán quyết xong, Uỷ ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) đã hoàn thành nhiệm vụ.
Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng
VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.
Ngoài ra, quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục
nhanh những tổn thất trong kinh doanh thương mại. Quyết định trọng tài là quyết định
cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Toà án. Tuy là chung thẩm, nhưng
bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra Toà kinh
tế theo thủ tục giải quyết các vụ án, tuy nhiên nó cũng chỉ xảy ra trong một số trường
hợp nhất định.
Một ưu điểm nữa là các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách
thức lựa chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong
quá trình tố tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài xét xử vụ
kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. Khi mang
một vụ việc ra xét xử ở Toà án, có khả năng thẩm phán được chỉ định giải quyết vụ việc
không có trình độ chuyên môn liên quan đến đối tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành
có đặc thù chuyên môn cao như: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, bảo hiểm… Khi
giải quyết bằng trọng tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên phù hợp với
đối tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính xác trong giải
quyết tranh chấp. Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ
đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi
các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể
hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận. Điều này cho phép các bên sử dụng được kinh
nghiệm của các chuyên gia bởi vì các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên
năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại để có thể giải quyết vụ
việc một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
8
Hơn thế, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại còn duy trì được
quan hệ đối tác. Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối
hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp
tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện. Xét xử bằng
trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ sở những
câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ nhàng… Đó là những yếu tố tạo
điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc
biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin
tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.
Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương mại. Nó
bảo đảm cho việc là nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì các nhà
đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết định tham gia đầu tư thương mại tại
Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước ngoài và cả bên Việt Nam thông qua việc giải
quyết tranh chấp tại Việt Nam.
II. Thực trạng áp dụng giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay có các Trung tâm Trọng tài Thương mại gồm: Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam
(VIAC), Trung tâm Trọng tài thương mại Hà Nội, Trung tâm Trọng tài thương mại
TP.Hồ Chí Minh, Trung tâm Trọng tài thương mại Cần Thơ, trung tâm trọng tài Quốc tế
Thái Bình Dương (PIAC) và Trung tâm Trọng tài Thương mại Á Châu.
Thẩm quyền của các Trung tâm trọng tài tuân theo các quy định của Luật trọng
tài thương mại và theo Điều lệ của từng Trung tâm trọng tài. Ví dụ như, Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam
(VCCI) có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối đại diện, đại lý thương mại; ký
gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính;
ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ v.v...
Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 thì thẩm quyền của trọng tài
thương mại đã được mở rộng hơn so với pháp lệnh trọng tài năm 2003 ở chỗ không chỉ
9
những cá nhân, tổ chức kinh doanh mới có quyền lựa chọn trọng tài. Điều này đã gây ra
khó khăn cho các trung tâm trọng tài và các cá nhân có nguyện vọng lựa chọn trọng tài
làm phương thức giải quyết tranh chấp. Theo đó, thẩm quyền của trọng tài mở rộng để
giải quyết cả các tranh chấp thương mại giữa bất kì tổ chức cá nhân nào miễn là lĩnh
vực đó phát sinh theo quy định của pháp luật.
Một điều sai sót các bên thường gặp phải trong nữa “thỏa thuận trọng tài” là các
bên thường không ghi rõ tên của Trung tâm trọng tài nơi mà hai bên chọn để giải quyết
tranh chấp. Khi đó, thỏa thuận trọng tài này sẽ không có giá trị (hay còn gọi là vô hiệu).
Ví dụ như khi hai bên chỉ ghi chung chung trong hợp đồng là “đưa ra trọng tài để giải
quyết” thì thỏa thuận này sẽ bị vô hiệu.
Thực tiễn các tranh chấp kinh doanh - thương mại tại Việt Nam giữa các doanh
nghiệp Việt Nam thường được giải quyết bằng con đường toà án thay vì giải quyết bằng
trọng tài thương mại. Nguyên nhân của tình trạng phổ biến này là do các bên không có
thoả thuận trọng tài giải quyết trước hoặc trong quá trình phát sinh tranh chấp. Có khi
có thoả thuận trọng tài nhưng điều khoản thoả thuận này vô hiệu. Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thương mại tại đâu là do các bên tự thỏa thuận trong hợp đồng, và chỉ
một trong hai cơ quan được phép xét xử, không bao giờ có trường hợp cả trọng tài và
toà án được cùng xét xử. Chính vì vậy trong khi kí kết hợp đồng một số doanh nghiệp
Việt Nam do không nắm rõ được điều này nên trong hợp đồng có đưa ra các quy định
kiểu như "Nếu có bất kì tranh chấp nào liên quan đến hợp đồng mà không được các
bên giải quyết thoả đáng thì sẽ được đưa ra trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, bên
cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, nếu không được thì đưa ra toà
án ...". Điều đó khiến cho thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được do đó vấn đề
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Trước đây khi pháp lệnh trọng tài 2003 ra đời cũng vẫn chưa có các quy định cụ
thể về cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của trọng tài thương mại. Vì thế, các phán
quyết giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại khi được ban hành
không có hiệu lực trên thực tế. Mặc dù đã có cơ chế bảo đảm thi hành nhưng tâm lý các
doanh nghiệp Việt Nam khi có tranh chấp vẫn ngại mang ra cơ quan trọng tài. Thực tiễn
có chỉ ra rằng nhiều doanh nghiệp đem tranh chấp ra cơ quan trọng tài giải quyết thì lại
10
phải tiếp tục nhờ đến toà án can thiệp để bảo đảm cưỡng chế thi hành phán quyết, tốn
kém tiền bạc và thời gian. Vì vậy, trong một thời gian dài, giải quyết tranh chấp thương
mại bằng con đường trọng tài ở Việt Nam là không hiệu quả.
Nhưng hiện nay, với sự ra đời của Luật trọng tài thương mại và Bộ luật tố tụng
dân sự thì cơ chế đảm bảo thi hành phán quyết của trọng tài thương mại đã có hiệu lực.
Nhờ đó, số lượng các tranh chấp giải quyết bằng con đường trọng tài ngày càng tăng do
nó có những ưu điểm nhất định (thời gian, thủ tục, kinh tế,...). Ngay cả tại Luật trọng tài
thương mại 2010 mới có hiệu lực thì mặc dù pháp luật tuy đã có quy định về quyền
được áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng trọng tài nhưng lại chưa
quy định cụ thể việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cụ
thể là tới nay vẫn chưa có quy định chi tiết về thủ tục thay đổi, bổ sung, chấm dứt, hủy
bỏ các biện pháp này. Có nhiều ý kiến hiện nay cho rằng việc quy định này là chưa thật
sự đầy đủ. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, việc không quy định thi hành
Đến nay, tuy Luật trọng tài thương mại 2010 đã có hiệu lực nhưng cho tới giờ
vẫn chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể, chi tiết, hướng dẫn thi hành luật trọng
tài thương mại về giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài. Do đó sẽ rất khó cho
các doanh nghiệp, tổ chức trong việc chọn lựa việc giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài thương mại.
III. Một số biện pháp khắc phục tồn tại để phát triển hoạt động trọng tài trong
thời gian tới.
Tuy Luật trọng tài 2010 đã có hiệu lực nhưng tới nay vẫn chưa có các quy định
cụ thể về hướng dẫn thi hành các quy định của luật này. Vì thế, biện pháp cần thiết hiện
nay là Chính phủ cần xây dựng hoàn thiện các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành
Luật trọng tài thương mại để luật này có thể đi vào thực tiễn, đem lại hiệu quả cao trong
việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án hay bằng Trọng tài phụ thuộc vào điều khoản
quy định trong Hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận. Song, không phải cứ có thoả thuận
trọng tài là cơ quan trọng tài đó có thẩm quyền giải quyết. Các thoả thuận trọng tài phải
là hợp lệ, đúng pháp luật. Những trường hợp thoả thuận trọng tài không hợp pháp thì cơ
quan Trọng tài cũng không thể giải quyết được. Vì vậy, các cơ quan Nhà nước có thẩm
11
quyền cần ban hành những quy định chi tiết hơn về các tiêu chí xác định tính hợp pháp
của thoả thuận trọng tài. Cần phải làm rõ đầy đủ cả hình thức và nội dung của thoả
thuận trọng tài, bao quát hết các trường hợp thoả thuận của các bên về giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài. Cần xác định rõ nội dung tối thiểu của thoả thuận trọng tài, là sự
đồng ý của các bên về việc sử dụng trọng tài như một trong số các hình thức giải quyết
tranh chấp, hoặc đồng ý chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó cần quy
định rõ và cụ thể các trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu; thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được.
Vì vậy, để tránh xảy ra những tranh chấp, các bên cần thỏa thuận và quy định rõ
về thỏa thuận trọng tài. Trong thỏa thuận trọng tài, các bên có thể áp dụng các điều
khản trọng tài mẫu của các Trung tâm trọng tài để hạn chế việc vô hiệu hay không thực
hiện được của thỏa thuận trọng tài. Ví dụ như, tại bản Quy tắc tố tụng Trọng tài có hiệu
lực kể từ ngày 01/7/2004 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh
phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có khuyến nghị các doanh nghiệp đưa
điều khoản trọng tài mẫu của VIAC vào các hợp đồng thương mại như sau : “Mọi tranh
chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
theo quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này”.
Ngoài ra, các bên liên quan cũng cần chú ý đến hiệu lực của Thỏa thuận trọng
tài, để thỏa thuận này ràng buộc các bên cũng như ràng buộc các cơ quan tố tụng thì tại
thời điểm có tranh chấp, thỏa thuận này phải còn giá trị pháp lý. Trong thỏa thuận trọng
tài các bên có thể bổ sung các nội dung về số lượng trọng tài viên là 1 hoặc 3; địa điểm
tiến hành trọng tài... Đối với vụ tranh chấp có yêu tố nước ngoài, các bên có thể bổ sung
một số điều luật về Luật áp dụng cho hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng
tài…
Các bên liên quan cũng cần biết một quy định đặc thù về giải quyết bằng trọng
tài tại Việt Nam là việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài. Tức là, bất kỳ thay đổi về hợp
đồng mà việc giải quyết tranh chấp đã được các bên thỏa thuận bằng phương thức trọng
12
tài sẽ không làm ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài, và Trọng tài hoàn toàn có thể giải
quyết quyền lợi của các bên khi hợp đồng vô hiệu hoặc các điều khoản khác vô hiệu.
Do hoạt động trọng tài trước đây có quá nhiều bất cập, đặc biệt là việc thiếu cơ
chế cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài khiến các bên có liên quan tốn rất nhiều
thời gian, công sức và tiền bạc. Chính vì vậy mà các cá nhân, tổ chức kinh doanh
thường không tin tưởng và lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Công tác tuyên truyền, giới thiệu về những quy định mới của Luật vẫn chưa được tiến
hành thường xuyên và trên phạm vi rộng nên hiệu quả của công tác này chưa cao. Tuy
Luật Trọng tài đã được ban hành với một loạt những quy định mới nhưng trong khoảng
thời gian ngắn vẫn chưa thực sự làm thay đổi cách nhìn cuả các doanh nghiệp. Họ vẫn
còn ngần ngại, dè dặt, chưa tin tưởng vào cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Vì vậy, Bộ Tư Pháp với chức năng là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về trọng tài sẽ phải xúc tiến hơn nữa các hoạt động nhằm giúp hoạt động trọng tài
thương mại nói chung, hoạt động của các Trung tâm Trọng tài nói riêng có những kết
quả khả quan hơn.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài thì vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ trọng tài viên là một vấn đề hết sức quan
trọng. Các trung tâm trọng tài cần phối hợp với nhau để hỗ trợ nâng cao năng lực trọng
tài viên và thành lập một số trung tâm trọng tài điểm. Muốn khẳng định được vị trí của
mình, muốn tạo được niềm tin cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh thì bên cạnh việc
hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước, các
Trung tâm Trọng tài cần chủ động, tích cực trong việc mở rộng danh sách Trọng tài
viên, đặc biệt chú trọng tới các chuyên gia có uy tín và trình độ chuyên môn cao; bồi
dưỡng nâng cao trình độ của các Trọng tài viên hiện có nhằm nâng cao chất lượng giải
quyết tranh chấp của Trung tâm. Bên cạnh đó, mỗi Trung tâm cần tăng cường hợp tác
với các tổ chức trọng tài trong và ngoài nước nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng như nhận
được những sự hỗ trợ cần thiết; thường xuyên tổ chức việc tuyên truyền, giới thiệu về tổ
chức và hoạt động của mình… Nếu làm được như vậy, chắc chắn hoạt động trọng tài
theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại sẽ có những chuyển biến tích cực,
những kết quả đáng kể hơn trong thời gian tới.
13
KẾT LUẬN
Như vậy thông qua những phân tích cụ thể ở trên thì chúng ta có thể rút ra những
ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương
mại là tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục; đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên
tranh chấp mà không phải chịu sự ràng buộc nghiêm ngặt, chặt chẽ bởi thủ tục tố tụng
như giải quyết tranh chấp tại tòa án. Ngoài ra, phương thức giải quyết này còn đảm bảo
tối đa uy tín cũng bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối quan
hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.
Tuy nhiên phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại
cũng có những trở ngại khó tránh khỏi như: sự thành công của quá trình giải quyết tranh
chấp hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của bên có nghĩa vụ thi hành, còn
cơ chế pháp lý đảm bảo cho sự thi hành thì thường phức tạp và tốn kém. Nhược điểm
này thì lại được bù đắp trong cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án.
Vì thế, đối với phương thức giải quyết tranh chấp này thì nhà nước cần quan tâm
hoàn thiện những quy định của pháp luật nhằm giúp phát triển sự hoạt động của các
Trung tâm trọng tài hơn nữa.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Module 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2008.
2. Luật trọng tài thương mại 2010.
3. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
4. TS. Lê Nết, “Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế và yêu cầu cải
cách hoạt động của các cơ quan tài phán – thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài”, Tạp chí Khoa học pháp lí, 2006.
5. TS. Đỗ Văn Đại, “Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lí, 06/2007.
15