1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật về lịch sử: tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời những tư tưởng tiên tiến, lý luận
cách mạng có vai trò rất to lớn đối với sự tồn tại và phát triển xã hội, C.Mác
chỉ ra: “lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào
quần chúng” [33, tr. 25]. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì
không có phong trào cách mạng” [24, tr. 30]. “chỉ có Đảng nào có được một
lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ
tiên phong” [24, tr.32]. Để làm tròn sứ mệnh của mình, Đảng cộng sản không
chỉ nắm vững lý luận tiên phong, mà còn phải trang bị cho quần chúng lý luận
tiên phong đó; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chỉ khi nào quần
chúng giác ngộ, tự giác chiến đấu với niềm tin khoa học vào sự thắng lợi thì
cách mạng mới thành công.
Với ý nghĩa đó trong mỗi giai đoạn cách mạng Đảng cộng sản Việt
Nam luôn coi trọng công tác tư tưởng, lý luận nói chung và công tác tuyên
truyền chính trị nói riêng. Công tác tuyên truyền là một trong những lực
lượng xung kích của Đảng góp phần cùng cả nước tạo nên những thắng lợi
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH), thực hiện công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề
phức tạp, to lớn và cấp bách cần được nhận thức đúng và giải quyết kịp thời.
Trên thế giới cũng đang diễn ra nhiều sự kiện có tính “đảo lộn”, cực kì phức
tạp, hàng ngày hàng giờ đang tác động vào tư tưởng, tình cảm của hàng triệu
đảng viên và quần chúng nhân dân; cuộc đấu tranh chống lại “diễn biến hòa
bình” của địch diễn ra vô cùng gay gắt, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận
và thông tin. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng những khó khăn khủng
hoảng của CNXH để tấn công ráo riết vào học thuyết Mác - Lênin, con đường
và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), hòng làm lung lạc niềm tin của cán bộ,
đảng viên, quần chúng nhân dân.
Để giành thế chủ động trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chúng ta phải
coi trọng việc lãnh đạo và tổ chức phối hợp thật tốt các kênh tuyên truyền;
2
đặc biệt, phải coi trọng xây dựng đội ngũ báo cáo viên (BCV) từ Trung ương
đến cơ sở vững mạnh, đủ phẩm chất, năng lực, trình độ lý luận chính trị
(LLCT), nắm bắt và phản ánh đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; các xu hướng biến động đời sống xã hội, nhằm
định hướng tuyên truyền, giáo dục thuyết phục quần chúng sát điều kiện thực
tế của địa phương.
Thực tế cho thấy, đội ngũ BCV các cấp nói chung, đội ngũ BCV đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng còn thiếu chuyên nghiệp, trình độ
LLCT còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy,
nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ BCV ở nước ta hiện nay nói chung, địa
phương và cơ sở nói riêng, là nhiệm vụ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức
cấp bách.
Với tính cấp thiết đó tác giả chọn đề tài: “Nâng cao trình độ LLCT
cho đội ngũ BCV của Đảng bộ cấp huyện ở ĐBSCL hiện nay (qua thực tế
Long An)” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học triết học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ đã có một số công
trình nghiên cứu trên tạp chí và luận văn như sau:
- “Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy”, của
Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, số 10, 1987.
- “Quan hệ giữa lý luận và chính trị”, của Nguyễn Thế Phấn, Tạp chí
Cộng sản, số 8, 1982.
- “Góp phần bàn thêm khái niệm chính trị”, của Hồ Tấn Sáng, Tạp chí
Sinh hoạt lý luận, số 5, 1995.
- “Vai trò của lý luận đối với quá trình đổi mới xã hội ở nước ta hiện
nay”, của Phạm Đình Đạt, Luận văn thạc sĩ triết học, 1993.
- “Nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh
doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, của Trần Thị
Yến Ninh, Luận văn thạc sĩ triết học, 1998.
- “Nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp
huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay”, của Nông Văn Tiềm, Luận
văn thạc sĩ triết học, 2001.
3
- “Nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
cơ sở ơ tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Lê,
Luận văn thạc sĩ triết học, 2004.
Các tác giả trên đã đề cập ở những góc độ khác nhau về LLCT, trình
độ LLCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nói chung hoặc cán bộ quản lý
sản xuất kinh doanh… Nhưng vấn đề nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ
BCV các cấp của Đảng, cụ thể là cấp huyện ở ĐBSCL vẫn còn là mảng trống
cần được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích thực trạng trình độ LLCT của đội ngũ BCV Đảng
bộ cấp huyện ở ĐBSCL (qua thực tế Long An), đề xuất một số phương hướng
và giải pháp chủ yếu nhằm từng bước nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ
này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Chỉ rõ vai trò LLCT đối với hoạt động của người BCV.
- Phân tích thực trạng nâng cao trình độ LLCT của đội ngũ BCV Đảng
bộ cấp huyện ở ĐBSCL (qua thực tế Long An).
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm từng bước
nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ BCV Đảng bộ cấp huyện ở ĐBSCL
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc nâng cao trình độ LLCT cho
đội ngũ BCV Đảng bộ cấp huyện ở ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay (qua
thực tế Long An).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng ta về đào tạo bồi dưỡng LLCT cho cán bộ.
5.2. Phương pháp luận nghiên cứu:
Dựa trên cơ sơ phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy về lịch sử, cùng với những phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
4
Góp phần làm sáng tỏ yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ LLCT
cho đội ngũ BCV Đảng bộ cấp huyện ĐBSCL, qua đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ BCV này.
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể giúp cho các cấp ủy Đảng, hệ
thống các Trường Chính trị tham khảo và vận dụng trong việc nghiên cứu ,
xây dựng tiêu chuẩn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền của Đảng trong
tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, luận văn chia làm 3
chương, 6 tiết.
5
Chương 1
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI BÁO CÁO VIÊN
1.1. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1.1.1 Bản chất của lý luận chính trị
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của thực tiễn cải tạo tự
nhiên, xã hội. Để làm được điều đó con người phải có tri thức. Tri thức không
phải là cái sẵn có trong đầu óc con người mà được hình thành và bổ sung
trong quá trình tác động cải tạo thế giới. Từ những tri thức, kinh nghiệm thực
tiễn, con người trừu tượng hóa, khái quát hóa, để hình thành nên lý luận về
một lĩnh vực hiện thực nhất định của đời sống xã hội, định hướng cho thực
tiễn.
Có thể chia tri thức đạt được thành: tri thức kinh nghiệm và tri thức lý
luận. Không nên đồng nhất kinh nghiệm với tri thức cảm tính, hoặc đồng nhất
lý luận với tri thức lý tính, vì trong kinh nghiệm ít nhiều có tính khái quát hóa,
có yếu tố lý tính, tri thức kinh nghiệm là cơ sở để khái quát thành lý luận, lý
luận là kết quả khái quát hóa kinh nghiệm.
Tri thức kinh nghiệm là tri thức thu nhận được chủ yếu từ quan sát trực
tiếp đời sống hàng ngày, trong lao động sản xuất, chiến đấu và thực nghiệm. Tri
thức kinh nghiệm của con người bước đầu đã mang tính trừu tượng hóa, khái
quát hóa, song còn nhiều hạn chế. Nó mới đem lại cho con người sự hiểu biết về
các mặt riêng lẻ, bên ngoài của sự vật. Tri thức kinh nghiệm còn rời rạc, chưa tạo
thành chỉnh thể, phạm vi áp dụng hẹp. Khi nhận xét về tri thức kinh nghiệm
Ăngghen nói: “Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể
chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” [35, tr. 718].
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn
phản ánh những mối liên hệ tất nhiên, bản chất, mang tính quy luật của các sự
vật hiện tượng trong thế giới khách quan; lý luận không tự phát hình thành mà
thông qua hoạt động tự giác của các nhà lý luận. Không phải cứ có nhiều kinh
nghiệm là có lý luận, lý luận không phải là số cộng giản đơn của các kinh
nghiệm; tri thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát cao, có thể đem lại
6
cho con người những hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính tất yếu, tính quy
luật của các sự vật hiện tượng.
Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có quan hệ biện chứng, kinh
nghiệm là cơ sở để các nhà lý luận tổng kết, khái quát hóa thành lý luận. Lý
luận thực sự là khoa học khi nó khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn
phản ánh cái tất yếu, cái bản chất, những mối liên hệ bản chất của các sự vật
hiện tượng. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau trong quá trình
nhận thức, nhưng ranh giới giữa chúng cũng chỉ là tương đối; sự chuyển hóa
giữa hai quá trình này tạo nên những vòng khâu phát triển liên tục, tạo nên
bước nhảy về chất trong nhận thức của con người. Vậy lý luận là gì? Hiện
nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận theo nhiều quan điểm tiếp
cận khác nhau.
Trong từ điển triết học: “Lý luận là hệ thống những tri thức đã được
khái quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ
bản của hiện thực” [58, tr. 341].
Trong từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được
khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là
những kiến thức được khái quát hóa và hệ thống hóa trong một lĩnh vực nào
đó” [48, tr. 561].
Trong Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái
Quốc, ngày 7/ 9/ 1957 Hồ Chí Minh coi: “Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm
của loài người là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử” [42, tr. 497].
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng tựu trung lại đều
thống nhất ở chỗ: Lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự
tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội được tích lũy trong quá trình hoạt
động lịch sử của con người; phản ánh mối liên hệ bản chất, mang tính quy luật
của các sự vật hiện tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và
có vai trò hướng dẫn hoạt động thực tiễn. Trong điều kiện hiện nay, lý luận ngày
càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động của con người.
7
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị muốn giữ vững địa vị
thống trị thì phải có lý luận của mình, nói đến Đảng chính trị, đồng thời phải
nói đến LLCT của Đảng ấy.
Để hiểu LLCT, chúng ta cần làm rõ thêm khái niệm chính trị: chính trị
là một hiện tượng xã hội đặc biệt xuất hiện từ khi xã hội phân chia thành giai
cấp, nhà nước. Thuật ngữ chính trị xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là công
việc có liên quan đến nhà nước, nghệ thuật cai trị nhà nước, là phương pháp
nhất định để thực hiện các mục tiêu của quốc gia.
Trong lịch sử nhân loại, chính trị đã từng được coi là lĩnh vực hoạt
động, là công cụ đặc quyền của nhóm người thống trị đối với người bị trị, là
đặc quyền của tầng lớp trên, thậm chí của một người được coi là “thiên tử”.
Tư tưởng dân chủ ra đời là một bước tiến của lịch sử: chính trị trở thành công
việc đông đảo của quần chúng nhân dân, mọi người có quyền tham gia vào
chính trị, vào công việc của nhà nước… tuy nhiên, mức độ này phụ thuộc vào
những điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của mỗi công dân.
Nhà Triết học Hy lạp cổ đại – Platon cho rằng, chính trị là nghệ thuật
cai trị, cai trị bằng sức mạnh là độc tài còn cai trị bằng thuyết phục mới đích
thực là chính trị.
Nhà xã hội học Đức đầu thế kỷ XX – Max Weber quan niệm, chính trị
là khát vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực
giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, hay giữa các tập đoàn người bên trong
quốc gia. Chính trị là những mong muốn và những tương tác khách quan của
cộng đồng người đối với quyền lực v.v…
Các quan niệm trên tuy có những nhân tố hợp lý, nhưng chưa đề cập
đến nội dung cơ bản của phạm trù chính trị như là thực thể tồn tại bên trong
đời sống xã hội với những cấp độ khác nhau, liên quan đến những công việc
của nhà nước.
Với thế giới quan khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đưa ra cách hiểu đúng đắn về chính
trị. C.Mác cho rằng:
Tuyệt đối từ bỏ chính trị là không thể được, tất cả các tờ báo
chủ trương từ bỏ chính trị cũng đều làm chính trị. Vấn đề chỉ là làm
8
chính trị như thế nào và làm loại chính trị gì? Vả chăng đối với
chúng ta không thể từ bỏ chính trị. Đảng Công nhân với tư cách là
chính Đảng đã tồi tại trong phần lớn các nước. Chúng ta không được
phá hoại nó bằng cổ vũ từ bỏ chính trị. Thực tiễn của cuộc sống hiện
đại, sự áp bức chính trị của chính phủ hiện tồn tại với công nhân
nhằm mục đích chính trị cũng như xã hội đều buộc giáo dục công
nhân dù muốn hay không cũng phải làm chính trị. Cổ vũ họ từ bỏ
chính trị có nghĩa là đẩy họ vào vòng tay của chính trị tư sản. Từ bỏ
chính trị là hoàn toàn không thể được, đặc biệt sau công xã Pari đã
đưa hoạt động chính trị của giai cấp vô sản vào chương trình nghị sự
[34, tr. 551-552].
Như vậy bản chất giai cấp của hoạt động chính trị đã được C.Mác xác
định rõ: chính trị là hoạt động thực hiện lợi ích giai cấp, lợi ích giai cấp khác
nhau thì mục đích chính trị cũng khác nhau.
Theo Lênin, “Chính trị có tính lôgic khách quan của nó, không phụ vào
những dự tính cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác”
[25, tr.246]. Chính trị luôn tồn tại và gắn liền những điều kiện lịch sử cụ thể,
không phụ thuộc ý chí chủ quan của một ai, hay giai cấp, chính Đảng nào.
“Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là vạch hướng đi
cho nhà nước, việc xác định những hình thức nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của nhà nước” [28, tr.404]. Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, là
thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự giải phóng mình chống giai cấp
tư sản toàn thế giới … chính trị của chúng ta lúc này là xây dựng nhà nước về
mặt kinh tế “. Lênin còn chỉ rõ:
Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp – là cái quyết định vận
mệnh của các nước Cộng hòa. Bộ máy là công cụ bổ trợ, nó càng
vững mạnh chừng nào thì càng tốt và càng có ích hơn cho sự biến
đổi. Nhưng nếu không có năng lực chấp hành sứ mệnh đó, thì nó
cũng chẳng còn có tác dụng gì nữa [30, tr. 482-483].
Như vậy, vấn đề mà Lênin quan tâm là: “năng lực chấp hành sứ mệnh”
của giai cấp. Năng lực này không chỉ phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của
giai cấp mà còn phụ thuộc trình độ dân trí, trình độ văn hóa của quần chúng
9
nhân dân: “một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị; trước hết
phải dạy a, b, c, d… cho họ đã. Không thế thì không thể có chính trị; không
thế thì chỉ có những tin đồn đại, những chuyện nhảm nhí, những chuyện
hoang đường, những thiên kiến chứ không phải chính trị”. [31, tr. 87-88]
“Quần chúng có hàng triệu, và chính trị thì bắt đầu ở nơi nào có hàng
triệu người, không phải ở nơi có hàng nghìn người mà ở đâu có hàng triệu
người thì ở đó có một chính trị nghiêm túc” [29, tr. 20].
Như vậy theo Lênin, phạm trù chính trị được hiểu:
* Chính trị là lợi ích, là đấu tranh giai cấp.
* Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền, quyền lực
nhà nước.
* Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, đồng thời chính trị không
thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
* Văn hóa là cơ sở để xây dựng nền chính trị tiến bộ.
* Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh
hàng triệu người, giải quyết vấn đề chính trị vừa khoa học, vừa nghệ thuật.
Từ cách tiếp cận về khái niệm lý luận và chính trị ở trên, có thể khái
quát chung về LLCT như sau: LLCT là lý luận về chính trị phản ánh trực tiếp
tập trung lợi ích giai cấp, một chính Đảng nhất định trong xã hội; là cơ sở lý
luận cho hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một
Đảng hay một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Đối với giai cấp vô sản lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin là LLCT, lý luận
này là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản và chính Đảng Cộng sản. Từ những
năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác- Lênin được truyền bá vào phong trào
công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam nhằm thành lập chính Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hồ Chí Minh từng nói, Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm nòng cốt … Đảng mà không có chủ nghĩa như người không có trí khôn,
tàu không có bàn chỉ nam và Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” [38, tr. 268]. Chính vì vậy, trong tiến trình
cách mạng Đảng ta luôn kiên định và lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng cho hành động cách mạng. Đối với giai cấp
10
công nhân Việt Nam, LLCT là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, là LLCT của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định, đổi mới phải nắm vững bản
chất cách mạng và khoa học chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đã chỉ rõ:
Kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số
một của Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin có nghĩa là
nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin,
vận dụng một cách đúng đắn thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin một cách sáng tạo và cùng với chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng [10, tr. 127].
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi
mới, Đảng ta khẳng định, từ đại hội VII một bước tiến mới trong tư duy lý
luận của Đảng ta là nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư
tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng sáng tạo,
phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn cụ thể nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta khẳng định:
Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu CNXH mà là làm cho
CNXH được nhận thức đúng đắn hơn và xây dựng có hiệu quả hơn.
Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy
đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động
cách mạng [18, tr. 70].
Trong những năm đổi mới, Đảng ta có sự nhận thức đúng hơn, tư duy
lý luận của Đảng ta ngày càng sâu sắc hơn, bổ sung, phát triển chủ nghĩa
11
Mác- Lênin trên một loạt các vấn đề. Chẳng hạn, mục tiêu của CNXH, vấn đề
sở hữu tư liệu sản xuất, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN v.v…
Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của
phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước, nó là khoa học về
các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của
quần chúng bị áp bức và bóc lột; khoa học về sự thắng lợi của CNXH; khoa
học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản … Vì vậy, tất yếu nó phải được bổ sung
và hoàn thiện trong điều kiện thực tiễn mới. Lênin từng nói: “chúng ta không
hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm… mà những người XHCN cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu
họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” [23, tr. 232]. Với Hồ Chí
Minh thì: “Chủ nghĩa Mác- Lênin không phải là kinh thánh” [40, tr. 247].
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, trong điều
kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định cho mình những quan điểm cơ bản chỉ đạo hành
động cách mạng, xây dựng nên hệ thống quan điểm tư tưởng lý luận bằng
những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cụ thể. LLCT của Đảng ta
bao gồm: lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta, kinh tế thị trường
định hướng XHCN, vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp… xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, xây dựng Đảng… trong điều kiện nước ta hiện nay. Bản
chất LLCT của Đảng ta hiện nay là lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu sâu sắc toàn diện, có hệ thống những di sản
tư tưởng lý luận mác xít. Phải đổi mới tư duy để trở về với chính luận điểm
của các ông, kể cả những bổ sung phát triển mà chính các ông đã phác họa
trước những thay đổi của thực tiễn.
Sức sống và sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn còn nguyên giá trị định hướng cho công cuộc cách mạng hiện nay, những
giá trị ấy không chỉ ảnh hưởng trước mắt mà còn lâu dài đối với sự phát triển
của nước ta và các nước trên thế giới. Hình thành tư duy mới đối với chủ
12
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là trở về cội nguồn sáng tạo với tư
duy khoa học của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh. Ngọn đuốc tinh thần
sáng tạo không ngừng dẫn dắt chúng ta bước vào thế kỷ XXI với một quyết
tâm không gì lay chuyển nổi xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
1.1.2. Đặc trưng của lý luận chính trị
Một là, như tất cả mọi lý luận khác, LLCT cũng có tính trừu tượng và
khái quát cao.
LLCT là kết quả khái quát hoá những tri thức về chính trị xã hội, trên
cở hoạt động thực tiễn chính trị xã hội của quần chúng. Do đó, nó có tính trừu
tượng và khái quát cao. Nó giúp nhận thức đi sâu vào bản chất và phát hiện ra
những quy luật vận động, phát triển của xã hội. Quá trình trừu tượng hoá, khái
quát hóa không tách rời nhau mà liên hệ, bổ sung, xâm nhập nhau. Mục đích
của hoạt động lý luận đặc biệt LLCT là đi vào bản chất của đời sống xã hội,
quan hệ giai cấp, vạch ra bản chất ấy thông qua quy luật lịch sử và hoạt động
lý luận – thực tiễn của con người. Với LLCT khoa học, các khái niệm, phạm
trù, quy luật của nó có tính chính xác, chặt chẽ và lôgic, có độ tin cậy cao, tạo
thành một chỉnh thể thống nhất; tuy diễn đạt sự vật hiện tượng ở những khía
cạnh, yếu tố khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ nhau. Do đó, LLCT
khoa học không thể là sự hùng biện áp đặt, chấp vá, cắt xén những tri thức rời
rạc, trái lại phản ánh đúng sự vật, dự báo, định hướng sự vận động phát triển
của lịch sử, xã hội.
Chủ nghĩa Mác- Lênin, một hệ thống lý luận khoa học điển hình, tiêu
biểu cho sự phản ánh hiện thực xã hội, Lênin viết: “Trong cái triết học ấy của
chủ nghĩa Mác, đúng bằng một khối thép duy nhất, người ta không thể vứt bỏ một
tiền đề cơ bản, một phần chủ yếu nào, mà không xa rời chân lý khách quan, không
rơi vào dối trá của giai cấp vô sản phản động” [26, tr. 404]. Một lý luận khoa học
sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy hoạt động con người, sẽ được con người,
cộng đồng người, những lực lượng cách mạng trong xã hội nhanh chóng tiếp
thu và ủng hộ.
Hai là, LLCT của Đảng ta có sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
LLCT hình thành, tồn tại và phát triển cùng với sự vận động và phát
triển của đời sống hiện thực; thực tiễn luôn vận động, biến đổi, LLCT phản
ánh đời sống chính trị xã – hội cũng không ngừng được bổ sung phát triển. Vì
13
vậy, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, làm cho LLCT ngày càng phản
ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, phong phú hơn đời sống thực tiễn chính trị –
xã hội. Tuy nhiên, LLCT cũng có tính độc lập tương đối, có vai trò rất lớn đối
với thực tiễn chính trị – xã hội, tác động trở lại đời sống chính trị – xã hội,
góp phần làm biến đổi đời sống chính trị – xã hội thông qua hoạt động của
con người. LLCT có thể dự kiến được sự vận động của xã hội trong tương lai,
chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn xã hội. LLCT khoa
học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác hạn chế tình
trạng mò mẫm, tự phát. Vì vậy, Hồ Chí Minh nói: “Không có lý luận thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi” [39, tr. 234].
Tuy nhiên, do tính trừu tượng, khái quát trong phản ánh hiện thực nên
đôi lúc LLCT có khả năng xa rời thực tiễn, trở nên ảo tưởng; khả năng ấy
càng lớn nếu LLCT đó bị chi phối bởi những tư tưởng không khoa học hoặc
phản động. Vì vậy, LLCT là quan trọng, nhưng không nên tuyệt đối hóa nó,
tách LLCT khỏi thực tiễn, xem thường thực tiễn, mà phải quán triệt nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hành
động cách mạng. “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận không có thực tiễn là lý luận suông” [42,
tr.496].
Chính chủ nghĩa Mác- Lênin là hiện thân tiêu biểu cho sự gắn bó mật
thiết giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển, là sự
khái quát thực tiễn cách mạng và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó
là ở chỗ nó gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung,
phát triển trong thực tiễn chính trị – xã hội.
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách
sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Việt Nam,
lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi to lớn. Vì vậy, sinh thời
Hồ Chủ tịch luôn coi trọng việc bồi dưỡng, giáo dục lý luận cho cán bộ Đảng
viên, nhất là bồi dưỡng giáo dục LLCT – yêu cầu cơ bản không thể thiếu
trong công tác xây dựng Đảng.
14
Việc học tập của các đồng chí không phải nhằm biến các
đồng chí thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào
cho công tác của các đồng chí tốt hơn, nghĩa là các đồng chí phải
học tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin; học lập trường, quan điểm,
phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin, để áp dụng lập trường,
quan điểm, phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực
tế trong công tác cách mạng của chúng ta. Như thế chúng ta học lý
luận là cốt để áp dụng vào thực tế. Học lý luận là nhằm mục đích
học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo
cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng.
Không phải học để thuộc lòng từng câu chữ, đem kinh nghiệm các
nước anh em áp dụng máy móc, nhưng chúng ta phải học chủ nghĩa
Mác- Lênin để phân tích và giải quyết những vấn đề cụ thể của cách
mạng nước ta; cho phù hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta [42,
tr. 497].
Trong giai đoạn hiện nay tổng kết thực tiễn là một đòi hỏi tất yếu đồng
thời là yêu cầu quan trọng để tiếp tục nâng cao trình độ tư duy lý luận của
Đảng:
Kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng,
thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết
đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra [18, tr. 131].
Sự nghiệp đổi mới hiện nay đã và đang tạo ra những tiền đề cho lý
luận tổng kết, khái quát, chính trong quá trình đó lý luận có vai trò tiếp tục
luận giải, minh chứng soi sáng và chỉ đường cho hoạt động cách mạng. Do
đó, con đường phát triển lý luận nói chung, LLCT nói riêng là con đường
thông qua nghiên cứu tổng kết thực tiễn, nâng cao tầm tư duy lý luận của
Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, LLCT của Đảng ta có sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa
học.
15
Tính đảng, tính khoa học của LLCT của Đảng ta thể hiện lợi ích của
giai cấp công nhân, toàn thể nhân dân lao động; là sự phản ánh đúng quy
luật khách quan của tiến trình cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác- Lênin
không chỉ xuất phát, phản ánh khách quan nhu cầu lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động mà còn phù hợp nguyện vọng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động nữa. Do vậy, sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa
học trong LLCT của Đảng ta là một đặc trưng quan trọng, không thể thiếu.
Nhiệm vụ của LLCT không phải chỉ dừng lại mô tả, ngắm nhìn, giải
thích những hiện tượng xã hội mà còn ở sức mạnh cải tạo xã hội phục vụ nhân
dân lao động. Tính khoa học của LLCT càng cao sẽ làm cơ sở, tiền đề cho
tính cách mạng trong LLCT càng vững chắc; đồng thời tính cách mạng càng
triệt để, sâu sắc thì làm cho tính khoa học của LLCT càng phát triển. Lênin
viết:
Sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người
XHCN của tất cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết
hợp tính khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa
học xã hội ) với tinh thần cách mạng và kết hợp không phải một
cách ngẫu nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy
đã kết hợp trong bản thân mình những phẩm chất của nhà bác học và
của nhà cách mạng, mà là sự kết hợp trong chính bản thân lý luận ấy
một sự kết hợp nội tại và khắng khít. Thật thế, nhiệm vụ của lý luận,
mục đích của khoa học được nêu ra ở đây là giúp đỡ giai cấp, những
người bị áp bức trong cuộc đấu tranh kinh tế đang thực sự diễn ra
[22, tr. 421].
Để làm vai trò của người chiến sĩ tiên phong thì trước hết phải có được
một lý luận tiên phong hướng dẫn, để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình,
Đảng phải thực sự tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc, thời đại. LLCT phải xuất
phát từ thực tiễn chính trị và đời sống của nhân dân, đồng thời đưa ra những
kiến giải dự báo khoa học về sự phát triển cho các vấn đề mới nảy sinh và
những kết luận mới nhằm bổ sung phát triển chính bản thân LLCT. Tính đảng
giữ vai trò định hướng cho sự nghiên cứu LLCT đạt hiệu quả cao trong thực
16
tiễn chính trị. Lý luận cách mạng xuất phát từ thực tiễn cách mạng, được thực
tiễn cách mạng kiểm nghiệm và điều đó làm cho LLCT có tính đảng và tính
khoa học cao.
LLCT của Đảng ta được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát triển những tinh hoa trí tuệ của dân
tộc, thời đại khái quát những thành tựu khoa học công nghệ thế giới, là sự
tổng kết kinh nghiệm từ phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc và nhân
dân thế giới.
LLCT của Đảng ta cũng có tính hệ thống và kế thừa. Nó giúp cho
Đảng ta hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình; là kim chỉ nam cho
Đảng cách mạng hành động, lãnh đạo phong trào cách mạng quần chúng
trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới. Trong giai đoạn hiện
nay Đảng ta kiên định mục tiêu Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, xây
dựng đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh. Vì vậy phải tập trung nghiên cứu lý luận, làm cho LLCT của Đảng
không ngừng phát triển, những chủ trương đường lối ngày đi vào cuộc sống
có sức sống mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn; mặt khác bổ sung thêm vào kho
tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin tính khoa học và cách mạng của nó.
1.2. VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI
BÁO CÁO VIÊN
1.2.1. Báo cáo viên
Thuật ngữ BCV trong một thời gian dài được sử dụng ở nước ta với rất
nhiều nghĩa khác nhau, qua các giai đoạn và trong từng lĩnh vực cụ thể.
Theo từ điển tiếng Việt, BCV là người trình bày báo cáo trước một
hội nghị đông người [48, tr. 54] .Theo cách hiểu này, BCV chỉ tất cả những
người trình bày báo cáo trước hội nghị đông người do cơ quan nhà nước, các
tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội nghề nghiệp…
tổ chức. Do vậy, BCV không chỉ có trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Đoàn
thể mà còn trong các tổ chức quần chúng tự nguyện khác.
Chức danh BCV được Đảng ta qui định trong nhiều văn bản và Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương hướng dẫn thực hiện, trừ một số BCV ở các cơ
quan chức năng và một số cán bộ, đảng viên đã nghỉ hưu được các cấp ủy
17
Đảng lựa chọn làm BCV chuyên trách. Phần lớn BCV hoạt động theo chế độ
kiêm nhiệm và hưởng chế độ theo qui định của Bộ Tài chính.
Chỉ thị số 14 ngày 03/08/1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu
rõ “BCV, tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng có nhiệm vụ
tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn tư tưởng và hành động cho cán bộ Đảng
viên và nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng” [9]. Theo chỉ thị này,
BCV là một chức danh để chỉ đội ngũ những người tuyên truyền trực tiếp
bằng lời nói đến các đối tượng là cán bộ, đảng viên và nhân dân dưới sự lãnh
đạo chỉ đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng, cơ quan Nhà nước. Đội ngũ BCV
được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, các ngành, các tổ chức đoàn
thể, lực lượng vũ trang, được tổ chức theo hệ thống dọc, dưới sự lãnh đạo của
cấp ủy và sự quản lý của cơ quan Tư tưởng - Văn hóa, cơ quan Tuyên huấn
các cấp.
BCV của Trung ương: do Ban Bí thư ủy nhiệm cho Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương chọn một số cán bộ cao cấp, Ủy viên Trung ương, lãnh
đạo các bộ, ban, ngành, chuyên gia giỏi có phẩm chất và năng lực tuyên
truyền làm BCV.
Ở địa phương, BCV được lựa chọn theo những tiêu chuẩn nhất định do
cấp ủy xây dựng. BCV ở cấp nào do cấp ủy cấp đó trực tiếp ra quyết định
công nhận, Ban Tuyên giáo quản lý điều hành, số lượng BCV phụ thuộc vào
yêu cầu nhiệm vụ của từng cấp. Thông thường, BCV ở cấp tỉnh có từ 35 – 50
người, cấp huyện có từ 15-30 người, cấp xã có từ 1-3 người, phương thức
hoạt động chủ yếu của BCV là giảng bài, báo cáo chuyên đề, giới thiệu nghị
quyết, nói chuyện thời sự, chính sách, các vấn đề xã hội khác… trong các hội
nghị, các buổi sinh hoạt đảng, câu lạc bộ, mít tinh, nơi tập trung đông đảo cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả chỉ tập trung bàn đến đội
ngũ BCV Đảng bộ cấp huyện- còn gọi BCV Huyện ủy, là những người do
Ban chấp hành Huyện Đảng bộ chọn, Ban thường vụ Huyện ủy công nhận và
ra quyết định, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Tuyên giáo Huyện ủy.
BCV Huyện ủy gồm một số đồng chí là cán bộ chủ chốt cấp huyện, lãnh đạo
quản lý các ban, ngành, đoàn thể của huyện, một số chuyên viên giỏi trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… và một số đồng chí
18
cán bộ chủ chốt cấp xã. BCV Huyện ủy với nhiệm vụ tiếp thu quán triệt
những chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
các chỉ thị, nghị quyết của địa phương, những vấn đề về thời sự chính trị xã
hội, trong nước và quốc tế đến cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trên
địa bàn cấp huyện, cấp xã.
Trong điều kiện hiện nay, để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của
mình, hoạt động của BCV không chỉ đa dạng về phương thức mà còn phải có
phẩm chất và năng lực nhất định, một trình độ LLCT cao, có vậy công tác
tuyên truyền của Đảng mới đi vào chiều sâu, có hiệu quả.
Chức năng chủ yếu của BCV:
Một là, cung cấp thông tin, đặc biệt là những thông tin mới có giá trị,
những thông tin có tính nội bộ về tình hình trong nước và quốc tế; phổ biến,
giải thích các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách lớn, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại. Thông qua cung cấp thông tin, BCV giúp cán
bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân hiểu được nhiệm vụ chính trị của Đảng,
Nhà nước, địa phương, cơ quan và đơn vị.
Hai là, BCV không chỉ dừng lại cung cấp thông tin cho đối tượng mà
quan trọng hơn phân tích, bình luận, làm rõ ý nghĩa nội dung chính trị của các
sự kiện, các nhiệm vụ. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, xác đáng, có
tính thuyết phục, BCV phân tích, bình luận, làm rõ bản chất các sự kiện chính
trị, từ đó chỉ ra các nguyên nhân, dự báo chiều hướng, khả năng và triển vọng
của tình hình, định hướng thông tin, nhất là thông tin có tính chính trị cao;
góp phần hình thành dư luận xã hội tích cực, đúng đắn nâng cao trình độ giác
ngộ chính trị của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân.
Ba là, động viên cổ vũ mọi người, mọi tầng lớp nhân dân tích cực
tham gia vào các hoạt động xã hội, nâng cao chất lượng hiệu quả sản xuất.
Chức năng hiệu triệu, cổ vũ sẽ tăng lên nếu như lời nói của BCV có sức
truyền cảm mạnh mẽ, có khả năng làm xúc động lòng người, tác động sâu sắc
đến tình cảm của quần chúng nhân dân.
Bốn là, hoạt động BCV là hoạt động thông tin hai chiều, một mặt
thông tin tác động đến đối tượng, mặt khác nhận thông tin phản hồi từ phía
đối tượng. Qua đó BCV nắm tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, cũng như tâm
19
trạng, thái độ nhận thức, tư tưởng của họ đối với chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phản ánh lên cấp trên. Trên cơ
sở đó, Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chủ trương,
đường lối của mình cho phù hợp quy luật phát triển, với thực tiễn cách mạng,
hợp lòng dân, trong đó BCV đóng vai trò là kênh thông tin huyết mạch, là cầu
nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân. BCV không chỉ thực hiện nhiệm vụ
bằng trí tuệ, năng lực, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm mà còn bằng cả lòng
nhiệt tình, tâm huyết, phong cách gần gũi gắn bó với quần chúng, gương mẫu
để thuyết phục người nghe. Trên cơ sở phân tích các mối quan hệ lợi ích giữa
các nhóm xã hội, tình trạng phát triển dân trí và tình trạng thông tin, BCV có
thể nắm được tình hình tư tưởng và dư luận xã hội trong những giai đoạn nhất
định để báo cáo lên cấp trên.
Tâm trạng của con người rất dễ thay đổi trước những biến động của
đời sống xã hội. Trong công tác tuyên truyền miệng, BCV cần phải nắm bắt
diễn biến tư tưởng của đối tượng khi tâm trạng chưa bộc lộ thành quan điểm
chủ kiến, nhất là phải nắm được tâm trạng khởi đầu, xu hướng phát triển của
nó để định hướng nội dung tuyên truyền, có những phương pháp, hình thức
tuyên truyền phù hợp và hiệu quả nhất.
Tóm lại, chức năng thông tin, bình luận và định hướng thông tin, cổ vũ
và thực hiện, nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội luôn gắn chặt nhau, bổ sung
tác động cho nhau. BCV khi tuyên truyền với những nội dung phong phú,
phân tích thấu đáo, có cơ sở lý luận- thực tiễn khoa học xác đáng, bình luận
sâu sắc, tính định hướng cao, nắm bắt diễn biến tư tưởng tâm trạng của đối
tượng chắc chắn sẽ có tác dụng tuyên truyền giáo dục rất lớn, sức cổ vũ hoạt
động mạnh mẽ, hiệu quả tuyên truyền sẽ cao.
Tính đặc thù hoạt động BCV:
Một là, đối tượng hoạt động. BCV và giảng viên đều làm nhiệm vụ
truyền đạt, thuyết trình trước một tập thể có đông người nghe, nhưng giảng
viên là người được đào tạo chuyên ngành về nội dung và phương pháp sư
phạm; nội dung chương trình đã được đào tạo theo quy chuẩn như: giáo khoa,
giáo trình; giảng dạy nhiều lần về nội dung chương trình cho đối tượng nhất
định, tương đối đồng đều về trình độ. Đối tượng thuyết trình của BCV là
20
những cộng đồng người vừa không ổn định vừa không đồng đều về đặc điểm
xã hội: giai cấp, nghề nghiệp, tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, trình độ,
kinh nghiệm, cách suy nghĩ… cũng như tâm lý: nhu cầu, tâm trạng, lợi ích. Vì
vậy, sự đa dạng về đối tượng đòi hỏi người BCV phải có trình độ tri thức về
các lĩnh vực chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, con người, cũng như phương
pháp truyền đạt, sự hiểu biết đối tượng sâu sắc.
Hai là, công cụ chủ yếu của BCV là ngôn ngữ. Quá trình diễn giảng,
thuyết phục, sự cảm hóa mà BCV thực hiện với đối tượng đều qua ngôn ngữ;
bằng ngôn ngữ BCV thực hiện quá trình chuyển thông tin đến đối tượng như
mục đích đã đặt ra. Vì vậy, người BCV phải tích lũy vốn từ, nắm vững quy
luật của ngôn ngữ và đặc điểm văn phong trình bày.
Ba là, tính chất hoạt động tuyên truyền miệng của BCV vừa là một
khoa học vừa là một nghệ thuật. Trong quá trình tuyên truyền: Một mặt, dựa
trên những luận cứ khoa học và thực tiễn để nhìn nhận, phân tích sự việc, hiện
tượng, từ đó thuyết phục cảm hóa đối tượng; mặt khác, công tác tuyên truyền
phải gắn với thực tiễn, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tổng kết công tác tuyên
truyền trong từng thời kỳ cách mạng để giải đáp những vấn đề cuộc sống đặt
ra. Muốn đạt hiệu quả thì phương pháp và hình thức tuyên truyền phải phù
hợp với từng đối tượng và tình hình thực tiễn. Điều đó cho thấy, hoạt động
BCV là hoạt động nghệ thuật- nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật giao
tiếp, nói chung nghệ thuật diễn thuyết. Hoạt động BCV còn có đặc trưng sáng
tạo - sáng tạo ra bài giảng của mình (với những nội dung khác nhau chưa sẵn
có, biên soạn đề cương nội dung chương trình theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị
hoặc yêu cầu người tổ chức). Nhiều khi những nội dung trong trình bày bài
giảng là những vấn đề mới, chưa diễn ra nhưng người BCV cần sáng tạo, cần
phân tích, dự báo những khả năng sắp xảy ra, đây là một yếu tố khách quan
quy định đặc trưng hoạt động BCV - thực hiện hai lần sáng tạo trong một hoạt
động.
Là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, hoạt
động BCV không chỉ đòi hỏi tính sáng tạo, sự rèn luyện nghiêm túc, mà còn
phải có năng khiếu nghề nghiệp (giao tiếp, sự nhạy cảm chính trị).
21
Bốn là, hoạt động BCV khác với hoạt động của các “binh chủng”
hợp thành công tác tư tưởng, như: hệ thống trường chính trị, báo chí, xuất
bản, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình … Mỗi “binh chủng” có đặc điểm
riêng, chức năng riêng, có phương thức tác động riêng, và do đó hiệu quả
tác động là không giống nhau. So với các “binh chủng” khác, tác động
tuyên truyền miệng của BCV có ưu thế: tiếp xúc trực tiếp với người nghe,
biết được phản ứng của người nghe, có khả năng điều chỉnh ngay bài nói
của mình cho thích hợp. Người BCV có thể gợi ý, trao đổi với người nghe,
lấy được ý kiến quần chúng, thực hiện được thông tin hai chiều, do đó có
thể giải đáp một cách sinh động, kịp thời vấn đề quần chúng nêu ra. Điều
quan trọng là do nói với từng tập thể nhỏ, từng người nên BCV phải vận
dụng những nội dung chung nhưng phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Năm là, BCV cấp ủy các cấp cũng có những nét đặc thù nhất định.
BCV Tỉnh ủy báo cáo chuyên đề theo từng lĩnh vực BCV phụ trách. Do đó
hoạt động BCV Tỉnh ủy thể hiện tính chuyên môn và chuyên sâu rõ rệt. Ở cơ
sở do tính đặc thù của đối tượng người nghe: trình độ tương đối thấp, đa phần
nông dân, địa bàn nông thôn nên lựa chọn BCV cấp ủy ở cở thường là những
người cao tuổi, có uy tín, kinh nghiệm; đa phần những cán bộ đã về hưu tham
gia BCV, không nhất thiết là đảng viên trong cấp ủy. Đối với BCV Đảng bộ
cấp huyện hầu hết là những người đang tham gia cấp ủy, tham gia báo cáo
chuyên đề trên tất cả các lĩnh vực do cấp ủy phân công. Khác với BCV Tỉnh
uỷ, người BCV Đảng bộ cấp huyện không chỉ hoạt động trên địa bàn cấp
huyện mà còn tăng cường hoạt động ở cơ sở khi cấp ủy cơ sở yêu cầu. BCV
Đảng bộ cấp huyện phải không ngừng thay đổi nội dung báo cáo và lựa chọn
phương pháp thuyết trình phù hợp với từng đối tượng. Có thể nói, đội ngũ
BCV này phải rất năng động, sáng tạo, linh hoạt và nhạy bén … Nhưng do
đặc thù vậy, nên ở họ có sự hạn chế tính chuyên môn và chuyên sâu khi báo
cáo các chuyên đề, nhất là những chuyên đề không thuộc lĩnh vực mình công
tác.
Biểu hiện trình độ lý luận chính trị của người BCV:
Trong từ điển tiếng Việt, trình độ là “mức độ về sự hiểu biết về kỹ
năng được xác định hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn nhất định nào đó; là “ trình
22
độ khá cao trong một lĩnh vực nào đó”[48, tr. 1018]. Với nghĩa như vậy, có
thể hiểu, trình độ LLCT là sự hiểu biết sâu sắc, nhận thức đúng về chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và được thể hiện qua hiệu quả hoạt động thực tiễn. Như
vậy, trình độ LLCT của người BCV được hiểu là mức độ hiểu biết, mức độ
nhận thức, khả năng vận dụng LLCT vào thực tiễn công tác tuyên truyền của
họ.
Đối với hoạt động BCV, trình độ LLCT được biểu hiện:
Một là, có thế giới quan khoa học Mác- Lênin, phương pháp biện
chứng duy vật, được trang bị một cách cơ bản về lý luận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về xây dựng Đảng, Nhà nước và nghiệp
vụ đoàn thể.
Hai là, có niềm tin vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng,vào sự
nghiệp cách mạng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH, trung
thành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, hiểu đúng, bảo vệ, tuyên truyền một cách sáng tạo nền tảng tư
tưởng của Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, những chủ trương, biện pháp của địa phương; thông tin có định
hướng tình hình thời sự trong nước và quốc tế, những thành tựu kinh tế, chính
trị xã hội của đất nước địa phương đến cán bộ đảng viên, quần chúng nhân
dân một cách có hiệu quả.
Bốn là, có phẩm chất đạo đức lối sống tốt, tình cảm cách mạng cao cả
trong sáng, có tinh thần phê bình và tự phê bình, ý thức tự giác, tích cực thực
hiện nhiệm vụ tuyên truyền của mình.
1.2.2. Lý luận chính trị với hoạt động của người báo cáo viên
LLCT có vai trò quan trọng đối với hoạt động của người BCV, điều
này thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, trình độ LLCT là cơ sở cho BCV nhận thức đúng đắn bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực
chất hoạt động của người BCV là tuyên truyền, giáo dục sâu rộng về chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm xây dựng và hình thành lập trường
23
tư tưởng đúng đắn, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng và sự nghiệp đổi
mới. Quán triệt quan điểm, Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức tư tưởng,
hướng dẫn và cổ vũ quần chúng hành động; góp phần thực hiện và hoàn thiện
đường lối, chủ trương, chính sách đã đề ra. Giáo dục về tư tưởng – văn hóa,
phẩm chất đạo đức, lối sống cho quần chúng là nhằm xây dựng con người
mới, nền văn hóa mới, đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng lạc hậu, các
quan điểm chống đối sai trái và phản động, góp phần hạn chế, đẩy lùi tiêu cực
trong xã hội. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình, đòi hỏi
người BCV phải có trình độ LLCT nhất định.
Có trình độ LLCT thì BCV mới có thể nhận thức vấn đề một cách có
hệ thống, hiểu rõ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó hình thành năng lực định hướng đúng
đắn, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận
đúng đắn, có nhãn quan chính trị rộng để nhận thức các vấn đề một cách toàn
diện; có ý thức tự giác và tích cực trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ do Đảng đề ra. Thực tế cho thấy, nếu BCV không có trình độ LLCT, thì
không những không tiếp thu được chuẩn xác những tinh thần cơ bản của lý
luận khi truyền thụ, mà trong quá trình tuyên truyền sẽ chỉ đơn thuần đọc lại
tài liệu sẵn có, thậm chí còn làm mất đi tính hệ thống, không làm rõ được bản
chất, trọng tâm của vấn đề trình bày. Từ đó, việc triển khai chủ trương, đường
lối các vấn đề kinh tế - xã hội của địa phương gặp không ít những khó khăn,
thậm chí còn phản tác dụng khi quần chúng nhân dân tiếp nhận làm ảnh
hưởng đến việc chấp hành và thực thi nghị quyết của Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
Tuyên truyền miệng – không phải là thuộc lòng câu chữ mà là hiểu
thực chất nội dung của nó; nắm bắt được bản chất linh hồn sống của chủ
nghĩa Mác - Lênin, biến tri thức cần tuyên truyền của Đảng – chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, các vấn đề về
thời sự chính trị khác… thành tri thức của chính mình, trên cơ sở đó tuyên
truyền cho quần chúng. Một tất yếu nếu không có trình độ LLCT thì sẽ không
hiểu được bản chất của LLCT, chứ chưa nói gì đến một trình độ lý luận cao,
24
để hiểu nền tảng tư tưởng của Đảng cơ sở lý luận trực tiếp trong việc xây
dựng các chủ trương, đường lối. Do vậy, người BCV ngoài năng khiếu tuyên
truyền sẵn có của bản thân, đòi hỏi họ phải không ngừng nâng cao trình độ
LLCT cho mình.
Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ nói chung và trình
độ LLCT nói riêng là điều kiện để nhận thức tốt bản chất LLCT của Đảng.
Hai là, trình độ LLCT góp phần nâng cao năng lực hoạt động của
người BCV. Quá trình thực hiện một bài tuyên truyền của BCV phải bắt
đầu từ sự chuẩn bị đề cương, tính lôgic và những kiến thức cơ bản cho một
bài nói, lựa chọn chủ đề phù hợp chính xác, bố cục chặt chẽ, thu thập thông
tin và sử dụng tư liệu sát thực tế. Vì vậy lựa chọn, thu thập tài liệu là một
nhiệm vụ quan trọng. Đối với hoạt động BCV cần có sự sử dụng tổng hợp
các nguồn tài liệu trong đó nguồn tài liệu quan trọng nhất là: những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, các
văn kiện, nghị quyết của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Đây
vừa là nội dung vừa là cơ sở lý luận trực tiếp cho công tác tuyên truyền
miệng, là những yếu tố quan trọng để bài tuyên truyền đạt hiệu quả cao.
Trình độ LLCT góp phần nâng cao trình độ nhận thức, quá trình tích
luỹ vốn kiến thức người BCV; nâng cao khả năng thuyết trình, lựa chọn thông
tin phù hợp để tác động đến đối tượng; nâng cao năng lực đối thoại, đảm bảo
tính định hướng, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình.
Năng lực hoạt động BCV còn thể hiện thông qua sự nhạy cảm về chính
trị, thông qua khả năng phát hiện, nắm bắt, dự báo và xử lý những vấn đề mới
phát sinh trong đời sống chính trị, hiểu biết những quan hệ chính trị, quá
trình chính trị, các quy luật của đời sống chính trị, cũng như kinh nghiệm
công tác của người BCV. Hiểu bản chất LLCT, thâm nhập vào đời sống
chính trị, bám sát thực tiễn đời sống chính trị xã hội là một trong những
con đường đạt tới bản lĩnh và sự nhạy bén chính trị ở mỗi BCV. Trước
những diễn biến trong nước và quốc tế ngày càng nhanh với nhiều sự kiện
nội dung thông tin ngày đa dạng, phức tạp, thậm chí đối lập nhau … đòi
hỏi BCV một mặt phải thông tin, giải thích cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân nhanh chóng kịp thời. Mặt khác, phải đảm bảo tính định hướng những
25
vấn đề thời sự được đông đảo xã hội quan tâm trên lập trường quan điểm
của Đảng, kiên quyết đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc, diễn
biến hòa bình trên mặt trận tư tưởng - văn hóa. Nhờ trình độ LLCT, sự
nhạy cảm về chính trị mà BCV có thể làm tăng lượng thông tin, cổ vũ
người nghe thực hiện mục tiêu đề ra và định hướng chính trị đúng đắn cho
người nghe.
Ba là, trình độ LLCT là cơ sở lý luận để đội ngũ BCV học tập nâng
cao trình độ về mọi mặt. Trình độ người BCV phụ thuộc vào nhiều các yếu tố,
trong đó có năng lực tư duy lý luận. Người BCV với năng lực tư duy lý luận
của mình sẽ tạo ra khả năng học tốt, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa,
khoa học và sự hiểu biết nói chung. Trình độ LLCT trang bị cho BCV những
kiến thức cơ bản trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, an ninh
quốc phòng, nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền Nhà nước… qua đó BCV
thấy được vị trí, vai trò, chức năng của mình. Chính những kiến thức đó sẽ
định hướng BCV tham gia soạn đề cương bài giảng, tự tin trong thuyết trình,
phân tích bình luận các hiện tượng xã hội có luận cứ khoa học, có khả năng
nắm bắt dư luận xã hội, thực hiện tốt vai trò định hướng thông tin cho cán bộ,
đảng viên, quần chúng nhân dân.
Đội ngũ BCV đa phần là những cán bộ lãnh đạo quản lý được đào tạo,
bồi dưỡng và công tác trên các lĩnh vực khác nhau. Trình độ LLCT giúp cho
người BCV dù hoạt động ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng có khả năng bám sát
thực tế, gắn lý luận với thực tiễn sinh động, tổng kết thực tiễn, và hoàn thiện,
phát triển lý luận lên trình độ cao hơn. Sự hạn chế về trình độ LLCT là
nguyên nhân gây ra căn bệnh khá phổ biến trong đội ngũ cán bộ xã hội ta hiện
nay: bệnh giáo điều, kinh nghiệm. Đại bộ phận BCV cấp huyện chưa qua đào
tạo một cách bài bản, mà chỉ tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, cho nên phần nào còn hạn chế về LLCT. Do vậy, trong quá trình
tuyên truyền miệng, BCV sẽ không tránh khỏi dựa vào những kinh nghiệm
của bản thân là chủ yếu, cũng như những cảm nhận chủ quan, áp đặt những
kinh nghiệm của ngành, địa phương, lĩnh vực mà mình công tác lên chủ
trương, đường lối lớn mà không tính đến sự phù hợp của nó. Dĩ nhiên, thực
tiễn của ngành, địa phương là quý, đáng trân trọng, nhưng chẳng qua là những