Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.43 KB, 10 trang )

Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

Tổng quan về hiệp địng
thương mại việt mỹ
Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Bối cảnh cuộc đàm phán thương mại Việt – Mỹ
Bối cảnh chung.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế
nổi bật của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Toàn cầu hoá mà trọng tâm là toàn cầu
hoá kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển thương mại trên phạm vi toàn thế
giới. Cái đích cuối cùng mà quá trình toàn cầu hoá hướng tới là một nền kinh tế toàn cầu
thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế .
Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình liên kết, hợp nhất của các nền kinh tế quốc gia vào nền
kinh tế thế giới trên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính, thông
tin, vận tải ... với trình độ phát triển cao, dẫn đến sự hình thành các hệ thống sản xuất,
phân phối, hệ thống tài chính toàn cầu, các mạng lưới thông tin liên lạc và các hệ thống
giao thông vận tải toàn cầu, trong đó các công ty xuyên quốc gia, các hệ thống tư nhân
và các trung tâm kinh tế đóng vai trò nòng cốt.
Toàn cầu hoá kinh tế là bước phát triển cao của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế bước phát triển tất yếu khách quan được quyết định bởi sự phát triển không ngừng của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhờ có công nghệ toàn cầu phát
triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất
đến phân phối trên phạm vi toàn cầu. Một nền công nghệ toàn cầu xuất hiện là cơ sở cho
các quan hệ kinh tế toàn cầu phát triển. Đầu tiên là các quan hệ thương mại, chi phí vận
chuyển liên lạc ngày càng giảm đi thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng
lên, thương mại toàn cầu càng có khả năng phát triển. Đồng thời quá trình phân công,
chuyên môn hoá sản xuất càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu lục. Các quan
hệ sản xuất, thương mại có tính toàn cầu đã kéo theo các dòng tiền tệ, dòng vốn, dịch
vụ...vận động trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho các dòng vận động
này thêm náo động và nhanh nhậy. Cơ cấu kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ do có


sự bùng nổ tự do hoá thương mại toàn cầu. Từ năm 1950 đến 1996, tổng sản phẩm thế
giới tăng 6 lần trong khi khối lượng mậu dịch tăng 16 lần. Sản lượng công nghiệp tăng
1/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

9 lần trong khi khối lượng trao đổi các sản phẩm công nghiệp tăng 31 lần. Tỷ lệ xuất
khẩu so với GDP của thế giới trong thập kỷ 90 cao hơn 60% so với tỷ lệ ở năm 1913.
Năm 1997, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thương mại thế giới đạt 6500 tỷ USD - 1/5
sản lượng toàn cầu. Thương mại điện tử xuất hiện với khả năng ngày càng phát triển và
đang trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu đầy triển vọng. Sự phát triển của công
nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang ngày càng xung đột với các thể chế
quốc gia, với các rào cản quốc gia. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ
kinh tế toàn cầu đang công phá các bức tường thành quốc gia. Bước vào thập kỷ 90 các
bức tường thành quốc gia này đã bị phá vỡ ở các quốc gia trong Liên minh Châu âu, ở
các quốc gia Bắc Mỹ với mức độ thấp hơn. Các quốc gia ASEAN đã cam kết giảm bớt
rào cản quốc gia. Các nước thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới cũng đã cam
kết một lộ trình dỡ bỏ hàng rào này, tuy nhiên hàng rào thương mại vẫn còn rất mạnh
ở nhiều nước và ở ngay cả Liên minh Châu âu hay Bắc Mỹ với những hình thức biến
tướng đa dạng đã và đang cản trở quá trình toàn cầu hoá.
Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc, đòi hỏi phải
có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Chúng ta có thể dẫn ra hàng loạt các vấn đề
toàn cầu như: thương mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường
…Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày
một cạn kiệt; dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng trở thành một thách thức toàn
cầu; các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp điều tiết đã làm nảy
sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu âu, Châu Mỹ và Châu á trong thập kỷ 90.
Vì vậy cần thiết phải có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó. “Bàn
tay hữu hình” của các Chính phủ chỉ phát huy tác dụng ở các quốc gia riêng lẻ còn trên

phạm vi toàn cầu hiện đang có quá nhiều “bàn tay hữu hình” va đập vào nhau chứ chưa
có một “bàn tay hữu hình” chung làm chức năng điêù tiết toàn cầu. Ngoài ra chiến tranh
lạnh chấm dứt vào đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một
thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển mới.
Toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu trong lịch sử phát triển xã hội loài người, là hệ
quả của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, của các phương tiện khoa học công
nghệ. Toàn cầu hoá, khu vực hoá dẫn đến một hệ quả là hình thành xu thế hội nhập quốc
tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước,
các khu vực không ngừng gia tăng, tạo điều kiện đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới,
duy trì môi trường hoà bình và ổn định, tạo những điều kiện và cơ hội thuận lợi cho sự
hợp tác trên quy mô khu vực và toàn cầu vì mục tiêu phát triển bền vững của mỗi nước
và của toàn thế giới.
Việc tự do hoá thương mại, huỷ bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, xoá bỏ
mọi phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế đã đánh dấu sự hoà nhập các nền
kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi vào một hệ thống đa phương. Như vậy là thời
đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa ở một số thị trường lớn, của một
số đặc quyền ít ỏi trong mậu dịch quốc tế dành cho các nước kém phát triển đã chấm

2/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

dứt. Buôn bán quốc tế chuyển sang một thời đại mới đó là mở rộng tự do buôn bán được
đánh dấu bằng sự ra đời của WTO và những ưu đãi thương mại trong khuôn khổ hợp tác
cùng có lợi .
Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá, thương mại hoá phát triển trên phạm vi toàn thế giới, vấn đề
hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan. Con đường thích hợp với nước ta trong điều
kiện hiện nay là hội nhập quốc tế để khai thông thị trường trong nước với khu vực và

thế giới, tạo ra môi trường kinh doanh có khả năng cạnh tranh cao. Việt Nam đang trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải tiếp tục mở rộng hợp tác
quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nội lực, tranh thủ tối
đa ngoại lực, xây dựng nền kinh tế mở kết nối với khu vực và thế giới. Với đường lối
đối ngoại rộng mở, Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước, sẵn sàng mở rộng hợp
tác, quan hệ hữu nghị với các nước trên thế giới nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu vì hoà bình, ổn
định và phát triển.
Hội nhập thực chất là quá trình tham gia vào cạnh tranh quốc tế và cạnh tranh ngay trên
thị trường nội địa của mình. Tham gia tự do hoá thương mại quốc tế, Việt Nam - một
nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, năng suất lao động thấp, chi phí nguyên liệu và năng
lượng tốn kém, mức sử dụng năng lượng trên một đơn vị sản phẩm nhiều hơn từ 1,5 đến
2,5 lần, máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới và đang trong quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường sẽ có cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới
rộng lớn để phát triển kinh tế đất nước. Sản phẩm của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới, các nguồn đầu vào của sản xuất và kinh doanh trong nước
trở nên phong phú hơn, dễ lựa chọn những loại hàng hoá có chất lượng cao hơn và giá
cả rẻ hơn được cung cấp từ các nước khác trên thế giới. Đây là một trong những nhân tố
quan trọng nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, hàng hoá
nhập khẩu nhiều giúp người tiêu dùng có điều kiện lựa chọn nhiều hơn vì giá hàng nhập
khẩu trở nên rẻ hơn do việc giảm thuế nhập khẩu. Khi thực hiện tự do hoá thương mại,
Việt Nam có điều kiện tham gia nhanh chóng vào hệ thống phân công lao động quốc tế
hiện đại.
Hội nhập khu vực và thế giới là một quá trình tất yếu để tạo cơ hội cho Việt Nam phát
triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế
giới. Quá trình hội nhập sẽ thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi kinh tế mạnh hơn sang cơ
chế thị trường với định hướng hướng mạnh vào xuất khẩu. Chiều hướng này sẽ có lợi
cho Việt Nam đưa nền kinh tế nước nhà lên một quy mô lớn hơn nhiều so với bó hẹp
trong khuôn khổ các chính sách bảo hộ, hướng nội không hiệu quả. Việt Nam đang tham
gia tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo chiều hướng và ở nhiều tầng nấc khác nhau:

song phương, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã có nhiều cố gắng
trong việc mở rộng các mối quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế với nhiều nước trong

3/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

và ngoài khu vực. Đáng chú ý, trong thời gian vừa qua, tiếp theo việc bình thường hoá
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ, hai bên đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để
ký kết các Hiệp định kinh tế song phương về các vấn đề nợ, bản quyền và thương mại,
từng bước bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại. Đồng thời, ở mức độ tiểu khu
vực, kể từ khi trở thành thành viên ASEAN, ta đã và đang nỗ lực tham gia thực hiện các
chương trình hợp tác kinh tế ASEAN, đặc biệt là chương trình Khu vực mậu dịch tự do
AFTA . Một sự kiện quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối với tiến trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam . Sau một thời gian nỗ lực vận động và chuẩn bị, Việt Nam đã được các
nhà lãnh đạo APEC tuyên bố kết nạp làm thành viên năm 1998. Đối với tiến trình hợp
tác á - âu (ASEM), chúng ta đã cùng các nước Châu á khác tích cực tham gia Hội nghị
cấp cao ASEM - 3 ở Seoul (Hàn Quốc) trong 2 ngày 20 - 21/10/2000. Chúng ta cũng
đang tích cực chuẩn bị đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một
tổ chức mang tính toàn cầu mà việc tham gia là thể hiện sự hội nhập với thế giới. Đồng
thời, ta tích cực hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF nhằm tận dụng
một cách có hiệu quả sự hợp tác của các tổ chức đó phục vụ tiến trình phát triển kinh tế
và hội nhập quốc tế của mình.
Việt Nam nằm trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, một khu vực phát triển năng
động và đạt được độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Các trung tâm kinh tế trên
thế giới, các nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế, chính trị vào khu vực này
và xem đây là nơi chứa đựng nhiều yếu tố quyết định sự phát triển của mình. Châu áThái Bình Dương chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi các mối quan tâm của các nước lớn
như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga. Trong bối cảnh đó, vị trí địa lý, kinh tế, chính
trị của Việt Nam được các nước lớn ngày càng coi trọng và dần trở thành một khâu

quan trọng trong chiến lược toàn cầu hoá. Tuy Việt Nam chưa phải là đối tượng hàng
đầu trong chính sách Châu á- Thái Bình Dương của Mỹ song một Việt Nam đổi mới,
mở cửa, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại quả là một đối tượng hợp tác
không thể thiếu trong cuộc tìm kiếm thị trường. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam không
muốn tụt hậu thì cần phải thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế với các nước khác trên thế
giới, đặc biệt là với Mỹ- một siêu cường chi phối mạnh mẽ nền kinh tế toàn cầu.
Là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi, tham gia hội nhập với xuất phát
điểm thấp hơn nhiều so với đa số các nước khác trong khu vực, vì vậy tiến trình hội
nhập quốc tế một mặt đang mở ra nhiều cơ hội cho chúng ta, mặt khác cũng đặt ra nhiều
thách thức lớn đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên của các cấp các ngành. Để hội nhập có hiệu
quả, chúng ta phải ra sức tăng cường nội lực, thực hiện những cải cách, điều chỉnh về cơ
chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước để phù hợp với
“luật chơi chung” của quốc tế. Chúng ta cần coi cải cách trong nước và hội nhập quốc tế
là “con đường hai chiều”. Cải cách bên trong sẽ quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập
quốc tế, đồng thời quá trình hội nhập sẽ hỗ trợ và thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước
có nhịp độ nhanh hơn và hiệu quả cao hơn .

4/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

Tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.
Kết quả đạt được qua các vòng đàm phán.
Đàm phán ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ là một yêu cầu quan trọng nhằm tạo môi
trường pháp lý cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển và làm tiền đề cho việc
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam được thuận lợi hơn. Vấn
đề cốt lõi của Hiệp định thương mại giữa hai nước cũng như gia nhập WTO của Việt
Nam là Mỹ dành cho Việt Nam Quy chế Quan hệ Thương mại bình thường (NTR) trong
quan hệ song phương hay đa phương. Mục tiêu cần đạt được là hai nước sẽ dành cho

nhau NTR trên cơ sở có đi có lại, không điều kiện và không phải xem xét lại hàng năm.
Hầu hết các quôc gia có quan hệ thương mại với Mỹ đều được hưởng NTR. Quy chế
này quy định các mức thuế thấp đánh vào hàng nhập khẩu đã đạt được trong các vòng
đàm phán về tự do thương mại. Khi Việt Nam còn chưa được hưởng NTR thì hàng Việt
Nam xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế suất cao, làm cho hàng hoá Việt Nam bán trên thị
trường Mỹ kém hấp dẫn, thậm chí không có khả năng cạnh tranh với hàng hoá sản xuất
tại Mỹ.
Tháng 10/1995, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Đại diện
thương mại Mỹ thoả thuận hai bên tập trung thúc đẩy quan hệ kinh tế- thương mại và
chuẩn bị đàm phán Hiệp định thương mại.
Tháng 11/1995, Đoàn Liên bộ Mỹ thăm Việt Nam để tìm hiểu hệ thống luật lệ thương
mại, đầu tư của Việt Nam.
Tháng 4/1996, Mỹ trao cho Việt Nam bản “Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh
tế- thương mại với Việt Nam”.
Tháng 7/1996, Việt Nam trao cho Mỹ bản “Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ
kinh tế- thương mại và đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ” đáp lại văn bản nói
trên.
Để ký kết được Hiệp định thương mại, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành đàm phán qua các
vòng:
- Vòng 1 : Từ 2/9/1996 đến 26/9/1996 tại Hà Nội.
- Vòng 2 : Từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội.
- Vòng 3 : Từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 Mỹ trao cho Việt Nam văn bản dự thảo Hiệp
định đề cập đến các vấn đề như :
1. Quy định về giá và điều tiết giá.

5/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ


2. Hệ thống thuế.
3. Các trợ cấp đối với mỗi lĩnh vực của nền kinh tế nhất là đối với nông nghiệp.
4. Chế độ đầu tư.
5. Cán cân thanh toán.
6. Thuế quan nhập khẩu, bao gồm tất cả thuế quan ưu đãi, phí hải quan, miễn thuế.
7. Các biện pháp tự vệ và các đền bù thương mại khác (Chống bán phá giá và thuế đối
kháng).
8. Giấy phép nhập khẩu.
9. Các công ty, doanh nghiệp nhà nước.
10. Tiêu chuẩn và chứng nhận hàng hoá nhập khẩu, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ.
11. Hoạt động đối ngoại.
12. Hệ thống thống kê và phát hành các ấn phẩm về ngoại thương.
13. Hệ thống bảo hộ quyền tác giả.
14. Các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong các
quy định và các bộ luật của quốc gia...
- Vòng 4 : Từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington, sơ bộ trao đổi về
những quy định chung và chương Thương mại hàng hoá trong Hiệp định.
- Vòng 5 : Từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington.
- Vòng 6 : Từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội.
- Vòng 7 : Từ 15/3/1999 đến 19/3/1999 tại Hà Nội.
Tại các vòng đàm phán 5, 6, 7 hai bên tập trung trao đổi tổng thể về Thương mại hàng
hoá, Sở hữu trí tuệ, Thương mại dịch vụ và Đầu tư.
- Vòng 8: Từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington.

6/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

- Vòng 9 : Từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà Nội, gặp mặt cấp Bộ trưởng- Hiệp định

đã được thoả thuận về nguyên tắc.
- Vòng 10 : Từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington, xử lý các vấn đề về kỹ thuật.
- Vòng 11: 3/7/2000 tại Washington, hoàn tất Hiệp định.
Sau 6 vòng đàm phán đầu tiên, nhìn chung các vấn đề cơ bản của một Hiệp định thương
mại đã được đưa ra đàm phán và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau:
+ Các bên cơ bản thống nhất được các lĩnh vực quan trọng là dựa trên các chuẩn mực
của WTO để đưa ra dự thảo Hiệp định như chương về Thương mại hàng hoá, Sở hữu trí
tuệ, tuy nhiên có một số vấn đề có thể mở rộng hơn WTO nhưng đang bàn ở diễn đàn
khác như Đầu tư.
+ Các bên qua thời gian giải thích về chính sách hiện hành cuả mình đã hiểu biết nhau
hơn và đã có thể đánh giá được mức độ cam kết sẽ được các bên chấp nhận ở mức độ
nào nhưng chưa thể đi đến những kết luận cụ thể vì những vấn đề còn khác nhau thường
phải do cấp cao quyết định còn ở cấp chuyên viên chưa thể quyết định được.
+ Các bên đã đưa ra dự thảo của mình với quy mô khác nhau nhưng cũng ở mức hàng
trăm trang (nếu kể cả các phụ lục thì dài hơn nhiều) và dựa trên cơ sở đó để so sánh và
tiến hành đàm phán rõ quan điểm của nhau.
Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các công ty Mỹ ở Việt Nam, quy chế Đối xử quốc
gia trong thương mại dịch vụ và đầu tư, mức độ mở cửa thị trường cho hàng hoá của
nhau là những nội dung chính của vòng đàm phán thứ 6 ở cấp chuyên viên. Tại vòng
đàm phán này nhiều nội dung đã được làm rõ và tuy vẫn còn nhiều sự khác biệt, hai bên
cũng đã thoả thuận được một số vấn đề cụ thể. Bên Việt Nam đồng ý thực hiện hầu hết
những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trừ vấn đề thuế nhập khẩu,
nhưng không thể đồng ý với yêu cầu của phía Mỹ muốn Việt Nam bãi bỏ ngay những
chính sách không phù hợp với những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
và Khu vực tự do mậu dịch ASEAN (AFTA) như chế độ hạn ngạch, hàng rào phi quan
thuế...và áp dụng ngay những quy định đó trong quan hệ thương mại với Mỹ, trước khi
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức này.
Tại vòng đàm phán thứ 7, hai đoàn tập trung trao đổi những vấn đề quan trọng nhất còn
lại chưa xử lý được trong các vòng đàm phán trước nằm ở các chương “ Phát triển Quan
hệ đầu tư”, “ Thương mại dịch vụ”, “ Thương mại hàng hoá” và “ Sở hữu trí tuệ”. Cuộc

đàm phán đã đạt được kết quả tốt đẹp. Phần lớn các vấn đề nêu ra đã tìm được tiếng
nói chung, khoảng cách giữa hai bên đã được thu hẹp. Hai đoàn hài lòng với kết quả
đàm phán. Tuy nhiên, hai đoàn cũng ghi nhận còn một số vấn đề thuộc lĩnh vực quyền
thương mại và dịch vụ mà hai bên sẽ xem xét và thảo luận tiếp để có thể sớm đi đến

7/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

ký kết Hiệp định thương mại nhằm thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tếthương mại, tăng cường trao đổi phát triển hàng hoá và hợp tác đầu tư giữa hai nước.
Nội dung của vòng đàm phán thứ 8 là giải quyết các vấn đề còn tồn tại từ vòng trước. Cả
hai bên đều tỏ thái độ thiện chí và cố gắng nhằm giải quyết những vướng mắc còn tồn
đọng. Theo các thành viên đoàn Việt Nam, những vấn đề còn lại tuy không nhiều nhưng
lại nằm rải rác ở mỗi chương, nhưng đây lại là những vấn đề khó nhất. Dư luận Mỹ, đặc
biệt là giới doanh nghiệp Mỹ rất quan tâm ủng hộ việc ký kết Hiệp định thương mại giữa
hai nước. Họ đã tổ chức viết thư lên các nghị sỹ Quốc hội Mỹ kiến nghị đẩy nhanh quá
trình bình thường hoá quan hệ kinh tế với Việt Nam, điều này góp phần cải thiện bầu
không khí quan hệ giữa hai nước. Quyết định miễn áp dụng Đạo luật bổ sung JacksonVanik đối với Việt Nam là một dấu hiệu tốt cho việc phát triển mối quan hệ Việt- Mỹ,
nhất là trước vòng đàm phán thứ 8. Tại cuộc đàm phán lần này, phía Việt Nam đã đưa
ra nhiều đề xuất mới đối với các vấn đề còn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực của dự thảo
Hiệp định này như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại hàng hoá. Các vấn đề do
phía Việt Nam đưa ra đều được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) và chuẩn mực quốc tế. Phía Việt Nam đã đưa ra một lộ trình hợp lý
để thực hiện các nguyên tắc của WTO trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát
triển và đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Ông Nguyễn Đình Lương, Trợ lý Bộ trưởng Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán Việt
Nam khẳng định rằng các đề xuất nói trên thể hiện nỗ lực cao nhất của Việt Nam để
tiến tới kết thúc quá trình đàm phán và ký Hiệp định thương mại giữa hai nước, thể hiện
đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới, tạo

điều kiện để Việt Nam phát huy cao độ nội lực, nhằm xây dựng một nền kinh tế vững
mạnh. Ông Nguyễn Đình Lương tỏ ý mong muốn phía Mỹ thể hiện sự hiểu biết thực sự
và có đánh giá đầy đủ hơn về những nỗ lực của phía Việt Nam trong các đề xuất được
đưa ra tại vòng đàm phán này, để có thể sớm kết thúc đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp
định thương mại giữa hai nước trong thời gian sớm nhất. Hai bên đã thu hẹp đáng kể
nhiều vấn đề tồn tại, tạo thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ thương mại giữa hai
nước nhưng vẫn còn một số vấn đề quan trọng chưa được giải quyết như dịch vụ ngân
hàng, bảo hiểm ... Đại sứ Mỹ Pete Peterson cho rằng những cơ sở tài chính ở Việt Nam
hiện nay vẫn còn rất non nớt và phải khá lâu nữa mới có thể sánh ngang hàng với những
hệ thống tài chính quốc tế. Chính vì thế, Mỹ đòi hỏi Việt Nam phải củng cố các cơ sở
tài chính trong nước để có thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế cũng như thoả mãn
những đòi hỏi trong nước. Như vậy, trong tương lai, Việt Nam sẽ phải cho phép những
cơ sở tài chính cũng như các hãng bảo hiểm của nước ngoài vào làm ăn tại đây.
Qua 11 vòng đàm phán, hai bên đều thể hiện sự quyết tâm thúc đẩy nhanh tiến trình đàm
phán ký kết Hiệp định thương mại. Cả Việt Nam và Mỹ đều bày tỏ sự quan tâm tới quá
trình bình thường hoá quan hệ về kinh tế vì các doanh nghiệp của cả hai phía đang mong
đợi điều này. Tuy nhiên không phải vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua những lợi ích lâu dài
nên các bên vừa quyết tâm đàm phán vừa phải bảo vệ lợi ích lâu dài của mình.

8/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

Ngày 13/7/2000 tại Washington (tức ngày 14/7/2000 giờ Việt Nam), Bộ trưởng Thương
mại Việt Nam Vũ Khoan và bà Charlene Barshefsky, Đại diện thương mại thuộc phủ
Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thay mặt Chính phủ hai nước ký Hiệp định
giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan
hệ thương mại, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai
nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì. Hiệp định được ký đúng vào

dịp kỷ niệm lần thứ 5 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, đã hoàn tất quá
trình bình thường hoá quan hệ kinh tế- thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Ý nghĩa của Hiệp định.
Sau sự kiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, giới báo chí và doanh nhân
của cả hai nước đều tỏ ý vui mừng trước những nỗ lực mà hai phía đã đạt được trong
suốt 4 năm liền đàm phán bền bỉ. Hiệp định được ký kết dựa trên các nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng
và cùng có lợi, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), có tính đến Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình
độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và đang hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới. Hiệp định có hiệu lực (sau khi được Quốc hội của hai nhà nước phê
chuẩn) sẽ đánh dấu việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ Việt- Mỹ, tạo cơ sở pháp
lý cho quan hệ kinh tế - thương mại hai nước phát triển trên cơ sở cân bằng lợi ích, phù
hợp với mong muốn của nhân dân hai nước.
Cho đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và Thoả thuận về
quy chế Tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, đối
với nước ta đây là lần đầu một Hiệp định thương mại mang tính chất đồng bộ, đề cập
một cách toàn diện tới các lĩnh vực kinh tế- thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, bản
quyền, sở hữu trí tuệ được ký kết.
Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt- Mỹ vừa là kết quả vừa tạo thêm điều kiện để
tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chắc chắn Hiệp định sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước, cho
phép tăng nhanh kim ngạch trao đổi thương mại không chỉ với Mỹ mà cả với các nước
khác, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Mỹ tham gia vào các hoạt động
kinh tế ở Việt Nam.
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết là bước đi lịch sử trong quá trình bình
thường hoá, hoà giải và hàn gắn giữa hai dân tộc, thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt
Nam với Cộng đồng Quốc tế và tăng cường mậu dịch giữa hai nước.
Hiệp định này không chỉ bảo đảm lợi ích của hai nước Việt Nam và Mỹ mà còn là một

đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định, hợp tác để phát triển ở khu vực và trên thế giới.

9/10


Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ

Mỹ cũng đánh giá Hiệp định này là một bước tiến quan trọng của việc Việt Nam tham
gia Tổ chức Thương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng hộ Việt Nam gia nhập tổ
chức này.
Với thiện chí và quyết tâm của cả hai bên, chúng ta tin rằng Hiệp định thương mại ViệtMỹ sẽ được thực hiện đầy đủ trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng lợi ích và chủ
quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, góp phần phát triển
kinh tế- thương mại của hai quốc gia nói riêng và thế giới nói chung.
Việc ký kết và thực hiện Hiệp định là phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một
nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được yêu cầu đó,
các ngành, các cấp và các doanh nghiệp cần ra sức phát huy tối đa nội lực, cải tiến quản
lý, tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật, nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và khả
năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.

10/10



×