LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và tình cảm chân thành, chúng em xin bày tỏ lòng
cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa Khoa Tổ chức và Quản lý nhân sự. Đã
tham gia giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ chúng em trong quá trình học tập và
nghiên cứu đề tài tiểu luận.Chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất
tới Th.s Lê Cẩm Hà người thầy - người hướng dẫn chúng em tận tình, trong
suốt quá trình chúng em tiếp cận, tìm hiểu và nghiên cứu đề tài. Cô đã động viên
giúp đỡ chúng em hoàn thành bài tiểu luận.
Chúng em xin được cảm ơn Thư viện trường Học viện Hành chính đã tạo
điều kiện cho chúng em mượn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu
tiểu luận, hỗ trợ chúng em rất nhiều về mặt tài liệu.Xin được cảm ơn gia đình,
bạn bè luôn sát cánh động viên, khích lệ chúng em. Cảm ơn các bạn trong nhóm
đã tích cực làm việc với tinh thần trách nhiệm cao.Trong suốt quá trình nghiên
cứu, tìm hiểu, thu thập thông tin liên quan đến đề tài nhóm chúng em đã cố
gắng nỗ lực để hoàn thành tiểu luận được tốt nhất.
Song do thời gian có hạn, việc thu thập tài liệu chuyên ngành chúng em
cũng gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, dù đã cố gắng nhưng bài tiểu luận của nhóm
chúng em không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế về nội dung cũng như cách
nhìn nhận đánh giá. Chúng em rất mong thầy cô và các bận xét, đánh giá và bổ
sung những hạn chế đó. Để chúng em có thể học hỏi, chỉnh sửa và hoàn thiện
bài tiểu luận hơn nữa.
Nhóm5 – KH10NS1
Hà Nội, tháng 3 năm 2012.
LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi nhà nước muốn tồn tại cần xây dựng được một hệ thống pháp luật
chặt chẽ, đảm bảo được thực thi trên phạm vi lãnh thổ toàn quốc gia. Nhưng để
pháp luật đi vào cuộc sống , để pháp luật được tôn trọng thì cần có đội ngũ
những người làm nghề luật, những người bảo vệ pháp luật.
Cũng như bất cứ một ngành nghề nào khác, những người làm nghề luật
cũng có những giá trị đạo đức riêng của mình.Đó chính là những quy tắc ứng xử
mà những nhà hành luật phải tuân thủ nghiêm minh trong quá trình hành unghề.
Hiện nay có rất nhiều luất sư vừa có đức vừa có tài nhưng cũng có những luật sư
đang suy thoái đạo đức nghiêm trọng.
Chính vì thực tế đó mà bài tiểu luận của nhóm em sẽ đi tìm hiểu những
điểm tiêu cực và hạn chế trong đạo đức nghề luật sư. Bài tiều của nhóm em thực
hiện dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp ….Bài tiểu luận là sự cố gắng
của cả nhóm song vẫn chưa thể hoàn chỉnh , kính mong cô và các bạn cho ý kiến
để bài của nhóm em thêm hoàn chỉnh.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ LUẬT.
1. Khái niệm
1.1.Nghề luật
Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề luật là chúng ta nói đến
thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên, công chứng viên…
Thẩm phán được hiểu là những người làm việc tại Toà án, được quyền
nhân danh Nhà nước để xét xử các vụ án. Thẩm phán - ở nghĩa lý tưởng được
hiểu là người được quyền ra quyết định cuối cùng để mang lại sự công bằng cho
mọi người, cứu người vô tội và trừng phạt kẻ ác.
Kiểm sát viên là người buộc tội tại phiên toà (ở nước ngoài thường được
gọi là công tố viên). Họ được quyền đưa một vụ phạm pháp ra xem xét để xử lý,
ra lệnh bắt giữ, tham gia điều tra vụ án, truy tố người phạm tội.
Công chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng, có quyền
xác nhận tính hợp pháp của các giao dịch, hợp đồng...
Nếu hiểu nghề luật như là nghề kiếm sống có liên quan đến luật, có thể kể ra
nhiều công việc khác cũng được gọi là nghề luật như: chấp hành viên, điều tra
viên, giám định viên, chuyên viên pháp lý, cố vấn pháp lý, giáo viên dạy luật,
cán bộ nghiên cứu pháp luật... trong các cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan
công an, cơ quan hành chính Nhà nước, các tổ chức đoàn thể,
1.2.Nghề luật sư
Ở nghĩa hẹp hơn, nói đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề
luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc
trưng của nghề luật.
Ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về
việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây
là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến
kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.
2. Tinh chất nghề luật sư
2.1.Tính chất trợ giúp
Trong suy nghĩ của chúng ta, hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm
ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.
Do sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần, bất
kỳ xã hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người rơi vào vị thế
thấp kém so với mặt bằng xã hội như người nghèo, người già đơn côi, người ở
vào vị thế thấp kém này thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật và
rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của những người khác và đặc biệt cần sự trợ giúp
hoàn toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư.
Ở thời kỳ cổ đại, những người dám đứng ra bênh vực, trợ giúp các đối
tượng bị ức hiếp được xã hội tôn vinh như là các “hiệp sỹ”. Ngày nay, xã hội
loài người đã phát triển nhưng ở nhiều nước, ở nhiều địa phương vẫn tồn tại
những người ở vào vị thế thấp kém, vẫn tồn tại sự ức hiếp, sự đối xử bất công.
Hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những đối tượng này không chỉ là bổn
phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
2.2.Tính chất hướng dẫn
Tính chất nghề nghiệp đòi hỏi luật sư không chỉ thông hiểu pháp luật hiện
hành mà còn hiểu biết cả tinh thần, nội dung những quy định của pháp luật ở
từng thời điểm của thời gian đã qua. Luật sư còn phải hiểu sâu rộng cả tục lệ và
bản sắc văn hoá của dân tộc.
Mọi người hiểu và nghĩ về luật sư như vậy, cho nên mỗi khi bản thân
hoặc gia đình có điều gì vướng mắc đều tìm đến luật sư, nhờ luật sư tư vấn. Vì
vậy, hoạt động của luật sư luôn luôn có tính chất hướng dẫn. Yêu cầu của hoạt
động này là hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp
luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.
2.3.Tính chất phản biện
Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư là những biện luận nhằm
phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù
hợp với pháp lý và đạo lý.
Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư, thông thường thể hiện ở
lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Điều 36, khoản 3 Bộ Luật tố
tụng hình sự hiện hành quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi
biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can,
bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo;
giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ”.
Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và đạo lý.
Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn
mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng
sai…từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo
vệ công lý.
Người phạm tội phải chịu sự trừng phạt của pháp luật, nhưng không thể bị
tra tấn, đánh đập, hành hạ về thể xác cũng như xúc phạm nhân phẩm. Sự có mặt
của luật sư là cần thiết bởi những người đã lâm vào vòng lao lý, phải đối mặt với
uy lực của cơ quan công quyền, không phải ai cũng có đủ can đảm tự bảo vệ
quyền hợp pháp của mình. Người xưa đã có câu: “Khôn ngoan đến cửa quan
mới bíết".
Do vai trò và tác dụng của hoạt động luật sư, nên Khoản 2 Điều 1 Pháp
lệnh Luật sư năm 2001 đã nêu rõ: “Bằng hoạt động của mình luật sư góp phần
bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa".
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị viết: “Các cơ quan Tư pháp có trách nhiệm tạo
điều kiện để luật sư tham gia vào quá tŕnh tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, bị
cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh luận dân chủ tại phiên toà…”.
Xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư ngoài
các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ,còn phải là người có khối óc thông
minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm
cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội.
3.Nghề luật sư trong quá khứ
Nghề luật sư luôn gắn với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp
luật. Có thể nói luật gia đầu tiên xuất hiên trong xã hội chính là nhà lập pháp,
người định ra các quy phạm pháp luật. Sau đó là sự xuất hiện của các thẩm
phán, người có nhiệm vụ bảo đảm cho các quy phạm pháp luật được tôn trọng
và cũng là người quyết dịnh hình phạt đối với người vi phạm các quy phạm pháp
luật.
Lúc đầu, chứng cứ của hành vi vi phạm pháp luật chỉ dựa vào sự suy đoán
hay những lời thề thốt, thú nhận của các bên có liên quan. Việc bào chữa, biện
hộ cho các bên chưa được bảo đảm. Nghề luật sư xuất hiện, luật sư tham gia vào
quá
trình
xét
xử,
đảm
bảo
công
việc
bào
chữa
trong
tòa.
.
Nghề luật sư đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Vào
thế kỷ V trước Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án hình
thành và việc xét xử có sự tham gia của mọi người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo
có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài
hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ trước Toà. Việc bào chữa xuất phát tự nhiên
nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị nhà cầm quyền bắt giam vô cớ và
trừng phạt một cách độc đoán dần phát triển.
Ở La Mã cổ đại, cũng với sự xuất hiện của pháp luật đã xuất hiện những
mầm mống của nghề luật sư. Pháp luật La Mã cổ đại mang tính huyền bí, thần
thánh và việc áp dụng pháp luật gắn liền với lễ nghi tôn giáo. Trong phiên toà,
có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am hiểu pháp luật để nhắc lại
những quy tắc, quy định tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục
tố tụng.
Trong xã hội dần dần hình thành một nhóm người chuyên sâu, am hiểu về
pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt động nghề
nghiệp. Hoạt động của các luật sư được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội
ngày càng được nâng cao. Nghề luật sư được xem như một nghề vinh quang
trong xã hội.
Sau khi Đế quốc La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với
các triều đại phong kiến phân quyền cát cứ. Tổ chức Toà án và chế độ luật sư ở
các nước được xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục
vụ tôn giáo và chế độ phong kiến.
Dưới chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều
kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một số ít người xuất thân từ giai
cấp bóc lột. Từ xuất phát điểm của những người tự nguyện thực hiện việc bào
chữa vì sự thật và công lý, nghề luật sư dưới chế độ tư bản dần dần trở thành
nghề tự do, nghề làm vì tiền.
Ở Việt Nam, từ năm 1930 trở về trước, người Pháp chiếm độc quyền trong
hành nghề luật sư. Với Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của Toàn quyền Đông Dương,
thực dân Pháp tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn cho những người
đã tốt nghiệp luật khoa và đã tập sự 5 năm trong một Văn phòng biện hộ của luật
sư thực thụ.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc
lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 tổ chức đoàn thể luật sư. Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo được ghi nhận ngay trong Sắc lệnh về Toà án ngày 13/9/1945 của
Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà. Do hoàn cảnh kháng
chiến, một số luật sư tham gia cách mạng, một số luật sư chuyển sang hoạt động
ở lĩnh vực khác, nghề luật sư thời kỳ này hầu như không được chú trọng.
Sau hoà bình lập lại, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo đã được Hiến
pháp 1959 quy định, năm 1963, Văn phòng luật sư thí điểm được thành lập lấy
tên là Văn phòng Luật sư Hà Nội.
4.Nghề luật sư hiện tại: Vấn đề xây dựng một đội ngũ luật sư đạo đức và
tài năng.
Luật sư ở nước ta hiện nay còn đang thiếu và mới chỉ đáp ứng một phần
nhỏ nhu cầu của xã hội. Thống kê cho thấy chỉ khoảng dưới 10% vụ án có luật
sư. Số luật sư lại chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn (riêng ở Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 50 % tổng số luật sư toàn quốc). Luật sư còn rất
thiếu ở vùng sâu, vùng xa .
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào
dòng chảy toàn cầu hoá, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về luật sư
nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý cho
việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật
sư. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu cấp bách là đất
nước cần có một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng. Nghĩ về nghề luật sư hôm
nay, chúng ta thấy nổi lên hai vấn đề chính đó là vấn đề đạo đức nghề nghiệp và
vấn đề nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của luật Sư.
Đạo đức nghề nghiệp của luật sư: Khi bàn về đạo đức nghề nghiệp luật
sư, có nhiều ý kiến và quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng, trong xã hội
nghề nào cũng đòi hỏi người làm nghề phải có lương tâm, trách nhiệm đối với
nghề của mình trước xã hội. Bởi vậy không cần phải đặt đạo đức nghề nghiệp
luật sư thành vấn đề riêng. Ý kiến khác lại cho rằng, trong thời buổi kinh tế thị
trường, mọi nghề trong xã hội đều mang tính cạnh tranh và nhằm thu lợi nhuận
cao nhất. Nghề luật sư là một nghề giống như các nghề khác, cũng phải chịu sự
chi phối của quy luật thị trường do đó đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư thành
một vấn đề riêng biệt là hoàn toàn vô lý.
Người ta bất cứ làm nghề gì cũng đều phải có lương tâm, trách nhiệm đối
với công việc của mình. Nhưng mỗi ngành nghề khác nhau đều có tính chất khác
nhau, đòi hỏi lương tâm, trách nhiệm, đạo đức của người làm nghề có sự khác
nhau. Nhưng nghề luật sư lại có đặc thù riêng, đó là phải gắn liền với các lĩnh
vực pháp luật của Nhà nước trong khi đó các ngành nghề khác chỉ quan hệ đến
một vài lĩnh vực pháp luật có liên quan mà thôi.
Luật sư là nghề nghiệp đặc thù, đòi hỏi sự "trong sáng về đạo đức". Người
làm công việc này phải tuân theo những quy tắc đạo đức hành nghề bắt buộc, có
như vậy mới nâng cao được uy tín và vị thế trong xã hội. Với thiên chức của
nghề, người luật sư đòi hỏi cần phải nhận thức và ứng xử một cách có đạo đức
trong quan hệ xã hội về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể
tuân thủ những giá trị chuẩn mực của cuộc sống đã đem lại. Khi đề cập đến đạo
đức của nghề luật sư là chúng ta đề cập sứ mệnh mà người luật sư phải thực hiện
, là nói đến phẩm chất, thanh danh của họ, là kỹ năng hành nghề và cuối cùng là
những chuẩn mực ứng xử của luật sư trong hành nghề.
CHƯƠNG II : GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT SƯ
1.Khái quát về quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư.
1.1.Khái niệm chung về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
1.1.1.Khái niêm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ xh, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và dư luận xã hội. (Giáo trình Đạo đức học
2000).
1.1.2.Quy tắc đạo đức và ững xử nghề nghiệp luật sư
Cho đến nay, về mặt khoa học pháp lý, chưa có một định nghĩa chính thức
mang tính chất kinh điển về khái niệm quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Trong nhiều bài viết, tham luận về vấn đề đạo đức nghề nghiệp luật sư, mỗi tác
giả cũng đưa ra quan niệm của mình về vấn đề này bằng cách tiếp cận dưới các
góc độ khác nhau.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư đã được Hội đồng luật sư
toàn quốc thông qua như sau :
“Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư là những quy tắc xử sự được
thể hiện dưới hình thức văn bản chứa đựng những quy phạm đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp do Hội đồng luật sư toàn quốc ban hành để điều chỉnh hành vi của
các thành viên Liên đoàn luật sư Việt Nam trong quan hệ với các chủ thể có liên
quan khi hoạt động nghề nghiệp và trong giao tiếp xã hội
Trong đời sống thường nhật, luật sư tham gia vào các quan hệ xã hội, các
quan hệ nghề nghiệp, trong đó có các quan hệ tố tụng trong các vụ án hình sự,
dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động, hành chính. Trong các quan hệ
tố tụng nêu trên lại diễn ra nhiều loại quan hệ giữa các chủ thể khác như : quan
hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng qua
các giai đoạn tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; quan hệ với khách hàng,
với những người tham gia tố tụng khác, quan hệ với đồng nghiệp, v.v.. Với tư
cách một chủ thể tham gia trong các quan hệ tố tụng, luật sư có những quyền và
nghĩa vụ tố tụng nhất định theo quy định của pháp luật. Đó là những quyền và
nghĩa vụ pháp lý luật sư phải tuân thủ và nếu vi phạm sẽ phải chịu các hình thức
xử lý theo các chế tài đã được luật hóa.
Tuy nhiên, trong các quan hệ nêu trên, vẫn còn có những trường hợp, tình
huống nảy sinh trong thực tiễn giao tiếp không nằm trong phạm vi điều chỉnh
của pháp luật mà thuộc phạm trù đạo đức và ứng xử nghề nghiệp phải được điều
chỉnh bằng các quy định đạo đức tương ứng. Đó là các quy định về căn cứ,
chuẩn mực đã được xác định trong bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư. Các quy định này cũng hàm chứa các nghĩa vụ đạo đức mang tính chất
cấm đoán hay bắt buộc luật sư phải tuân thủ hoặc các quy phạm mang tính chất
khuyến khích luật sư áp dụng trong quá trình hành nghề cũng như trong lối
sống, giao tiếp khi tham gia các quan hệ xã hội khác.
1.2. Vị trí, vai trò của quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư
Nghề luật sư là một nghề có truyền thống cao quý, gắn liền với số phận
pháp lý của con người. Thông qua hoạt động của mình, luật sư thực hiện chức
năng xã hội cao cả : Bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công
dân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh”.
Cũng như sông có nguồn, cây có gốc, nhà có nền, đạo đức nghề nghiệp có
ý nghĩa là nguồn, là gốc, là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Không có đạo đức
nghề nghiệp, nghề luật sư không thể tồn tại, phát triển. Luật sư hành nghề với tư
cách cá nhân và tự chịu trách nhiệm cá nhân về uy tín nghề nghiệp của mình, với
mục tiêu phụng sự công lý, tôn trọng và dựa trên pháp luật thì trước hết phải
xuất phát từ một nền tảng đạo đức. Nếu không xuất phát từ nền tảng này thì luật
sư khó có thể có ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật khi hành nghề.
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư có giá trị là các chuẩn mực đạo đức
của giới luật sư, tạo cơ sở để luật sư tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong
sinh hoạt và hành nghề; là thước đo giúp luật sư giữ gìn phẩm chất, uy tín của
mỗi cá nhân; từ đó khiêm tốn học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng hành
nghề, góp phần nâng cao uy tín nghề nghiệp của giới luật sư trong xã hội. Đây
cũng chính là một văn bản mang tính quy phạm nội bộ thể hiện rõ nét nhất cơ
chế quản lý theo phương thức “tự quản kết hợp với quản lý nhà nước” của Liên
đoàn luật sư Việt Nam.
1.3. Quan điểm tư tưởng và yêu cầu của việc xây dựng bộ quy tắc
Việc xây dựng bộ quy tắc phải thể hiện quan điểm tư tưởng và các yêu cầu
sau đây:
- Trong thời đại hòa nhập với khu vực và thế giới, bộ Quy tắc phải phù hợp với
thông lệ quốc tế về nghề luật sư;
- Phạm trù đạo đức nghề nghiệp luật sư rất rộng, để tạo cơ sở cho việc quản lý
và tự giác thực hiện của từng luật sư, bộ quy tắc phải cụ thể hóa các chuẩn mực
đạo đức và hành vi ứng xử nghề nghiệp luật sư;
- Nội dung bộ Quy tắc phải phù hợp với trình độ phát triển của nghề luật sư
Việt Nam, trên nền tảng thể chế chính trị - xã hội, hệ thống pháp luật, đạo đức
và văn hóa của đất nước Việt nam;
- Phát huy truyền thống tốt đẹp về đạo đức con người của dân tộc Việt Nam.
Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện bộ Quy tắc là một công việc
thường xuyên, lâu dài trong quá trình phát triển của nghề luật sư Việt Nam.
1.4. Xác định phạm vi và các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp
Khái niệm đạo đức bao giờ cũng được thể hiện trong mối quan hệ giữa
người với người. Đạo đức nghề nghiệp luật sư chính là tổng hợp các mối quan
hệ giữa luật sư với các chủ thể có liên quan trong hoạt động nghề nghiệp và các
mối quan hệ xã hội khác khi luật sư tham gia trong sinh hoạt xã hội. Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư bao gồm các quy phạm mang tính chất tùy
nghi để luật sư có thể lựa chọn trong ứng xử hoặc mang tính chất cấm đoán, bắt
buộc luật sư .
Quy tắc có những quy tắc chung mang tính chất là những nghĩa vụ đạo
đức cơ bản của luật sư và các quy tắc cụ thể điều chỉnh hành vi của luật sư khi
tham gia các nhóm quan hệ xã hội trong hành nghề gồm : quan hệ với khách
hàng; quan hệ với đồng nghiệp; quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các
cơ quan nhà nước khác. Việc điều chỉnh về mặt đạo đức các nhóm quan hệ này
chính là những yếu tố cấu thành nội dung cơ bản của Quy tắc đạo đức nghề
nghiệp luật sư Việt Nam.
Dựa trên cơ sở đặc thù nghề nghiệp luật sư, bộ quy tắc xác định các tiêu
chuẩn sau đây :
●
Tiêu chuẩn chung về mặt đạo đức nghề luất sư.
●
Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với khách hàng.
●
Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với đồng nghiệp luật sư.
●
Các tiêu chuẩn đạo đức trong quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng
và các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.
●
Các tiêu chuẩn về kỷ luật luật sư.
1.5.Yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Gồm có 4 nguyên tắc cơ bản
1.5.1. Luật sư phải giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp
1.5.2. Luật sư cần độc lập, trung thực và khách quan
1.5.3. Luật sư cần có văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống
1.5.4. Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư
2. Nội dung giá trị đạo đức của luật sư.
2.1. Đạo đức của luật sư trước hết phải thể hiện tính trung thực và hợp
tác.
Đạo đức luật sư là phải trung thực, trung thực trong lối sống, trung thực
với khách hàng, trung thực và hợp tác với đồng nghiệp. Một trong những biểu
hiện của việc trung thực với khách hàng, đó là: khi nhận việc, luật sư phải thông
báo cho khách hàng biết rõ về quyền và nghĩa vụ của mình trong việc dịch vụ
pháp lý cho khách hàng và phải có trách nhiệm thực hiện tốt nhất nhằm bảo vệ
lợi ích hợp pháp của khách hàng. Thiết nghĩ, niềm tin của khách hàng chỉ có thể
được xây dựng và củng cố trên cơ sở sự trung thực của người luật sư và ngược
lại. Chỉ khi người luật sư trung thực khi giao kết hợp đồng cung cấp dịch vụ
pháp lý đối với khách hàng thì khách hàng mới tin tưởng và trao đổi tất cả mọi
vấn đề với luật sư, dựa trên cơ sở đó, người luật sư mới có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý.
Trong một chừng mực nào đó, đạo đức nghề nghiệp của người luật sư và
khách hàng được thể hiện thông qua sự hợp tác một cách thiện chí. Trong quá
trình cung cấp dịch vụ pháp lý, người luật sư khi phát hiện có những vấn đề mới
phát sinh cần phải thông báo cho khách hàng, chỉ có như vậy thì khách hàng mới
tin tưởng và thông báo những tình tiết mới cho luật sư. Đạo đức luật sư không
cho phép người luật sư được đơn phương từ chối công việc mà mình đã nhận
với khách hàng, nếu không được khách hàng đồng ý hoặc không có lý do xác
đáng.
Đây là yêu cầu rất quan trọng bởi vì mối quan hệ với khách hàng chính là
lửa thử vàng đối với cá nhân luật sư, uy tín lương tâm và trách nhiệm của nghề
luật sư. Sự tiêu cực hay tích cực của luật sư đều xuất phát từ quan hệ này và chi
phối các hành vi ứng xử khác trong tổng hoà các mối quan hệ của luật sư. Gía trị
đạo đức này liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư đối với
khách hàng. Đó là tận tâm thực hiện hết khả năng và trách nhiệm đối với khách
hàng trong khuôn khổ pháp luật cho phép và phạm trù đạo đức nghề nghiệp .
2.2.Độc lập trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng và phù
hợp với chuyên môn khả năng là đạo đức của luật sư .
Không ai hiểu mình bằng chính mình vì vậy trong quá trình quan hệ với
khách hàng để giao kết việc cung cấp dịch vụ pháp lý đòi hỏi người luật sư chỉ
nhận những công việc phù hợp với chuyên môn, khả năng của mình.Tuyệt đối
không chạy theo lợi ích vật chất mà vượt quá khả năng của mình. Một khi luật
sư nhận việc mà biết chắc rằng công việc đó vượt quá khả năng của mình thì
đương nhiên không mang lại kết quả tốt cho khách hàng thậm chí bế tắc trong
công việc .Kết quả là không chỉ ảnh hưởng tới uy tín của người luật sư đó mà
quan trọng hơn là gián tiếp làm giảm niềm tin của khách hàng với luật sư nói
chung.
Một luật sư muốn hết lòng với công việc, thì người luật sư đó phải giữ
được tính độc lập trong công việc của mình. Trong trường hợp này luật sư
không bị chi phối hoặc lệ thuộc vào ý kiến khác làm ảnh hưởng tới xây dựng
quan điểm, phương án bào chữa và quyền lợi khác của khách hàng .Luật sư phải
tôn trọng HĐXX và đại diện VKS, có thái độ ứng xử đúng mực khi thực hiện
quyền xét hỏi người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác có quyền
lợi đối lập với khách hàng. Tính độc lập của luật sư trong việc cung cấp dịch vụ
cho khách hàng được thể hiện ba phương diện sau đây:
2.2.1.Độc lập khỏi quyền lực
Nếu luật sư không giữ được độc lập, chịu ảnh hưởng hoặc phục tùng
quyền lực thì không thể bảo vệ đầy đủ quyền lợi cho khách hàng. (VD: Chủ tịch
UBND …ký một quyết định hành chính, làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, trong khi đó, người luật sư lại e ngại hoặc phục tùng quyền
lực của ông chủ tịch kia, thì đương nhiên không thể bảo vệ đầy đủ quyền lợi cho
người dân được). Trong trường hợp khác, người luật sư có ý thức , thái độ
“trọng quan, coi thường dân” thì quyết không thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người dân tốt được. Một luật sư mà bị ảnh hưởng bởi quyền lực hoặc
phục tùng quyền lợi, thh ì không thể có tiếng nói khách quan để bảo vệ công lý,
không bảo vệ được công lý có nghĩa là không bảo vệ được quyền lợi tốt nhất
cho khách hàng.
2.2.2.Độc lập khỏi thân chủ (khách hàng)
Khách hàng nói chung luôn có khuynh hướng đòi hỏi luật sư chúng ta phải
bảo vệ quyền lợi của họ bằng mọi cách, thậm chí là phải tạo dựng chứng cứ, vi
phạm pháp luật. Thế nhưng, người luật sư ngoài trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho khách hàng, luật sư chúng ta còn có nghĩa vụ phụng sự công
lý, công bằng xã hội, vì thế, luật sư chỉ có thể đáp ứng những yêu cầu của khách
hàng – khi những yêu cầu đó là hợp pháp, chính đáng, phù hợp với đạo đức xã
hội. Điều này cho thấy, không phải bất kỳ yêu cầu gì của khách hàng đều có thể
được luật sư đáp ứng.
Khi khách hàng yêu cầu cung cấp chứng cứ giả mạo hoặc yêu cầu thẩm
vấn các nhân chứng mà biết rõ những lời khai của nhân chứng đó không đúng sự
thật, thì luật sư chúng ta phải thuyết phục khách hàng từ bỏ những yêu cầu
không đúng nêu trên. Trong trường hợp luật sư đã tư vấn, thuyết phục hoặc can
gián mà khách hàng vẫn không nghe thì luật sư được quyền đơn phương chấm
dứt dịch vụ pháp lý, luật sư thông báo cho khách hàng trong một thời hạn hợp lý
để khách hàng có thể tìm kiếm luật sư khác đồng thời giải quyết nhanh chóng
các vấn đề liên quan đến việc chấm dứt dịch vụ pháp lý đã đảm nhận.
2.2.3.Độc lập khỏi quyền lợi của chính mình .
Luật sư phải có trách nhiệm tân tâm để bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp
cho khách hàng và không thể đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của khách
hàng, hay bòn rút của khách hàng.
Luật sư độc lập trong hoạt động hành nghề cũng không có nghĩa là tự
mình tách ra và coi mình là tuyệt đối. Luật sư dành sự quan tâm, tôn trọng các
cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng thì cũng sẽ nhận được sự tôn trọng
lại. Luật sư phải thể hiện cho các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng
thấy được ngoài việc bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, luật sư còn có mục đích
khác là bảo vệ trật tự xã hội và công bằng của pháp luật. Có như vậy luật sư sẽ
đảm bảo tính độc lập trong hành nghề mà vẫn giữ được sự tôn trọng từ các cơ
quan tố tụng và cán bộ tố tụng.
2.3.Giữ bí mật.
Khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, luật sư phải có nghĩa vụ
giữ bí mật nói chung, trong đó có bí mật của khách hàng. Giữ bí mật của khách
hàng là một trong những giá trị cốt lõi của đạo đức nghề nghiệp luật sư. Luật sư
phải giữ bí mật về nội dung tranh luận,về những thư từ liên lạc với khách hàng
của mình cũng như các thông tin mà luật sư có khi trao đổi với luật sư đối
phương. Bí mật này bao gồm những thông tin được thể hiện dưới nhiều hình
thức (thư từ, bản sao, thông tin điện tử).
Những bí mật của khách hàng mà luật sư có được trong quá trình cung cấp
dịch vụ pháp lý cho khách hàng cần phải được tôn trọng. Luật sư không được
công khai bí mật của khách hàng cũng như sử dụng bí mật của khách hàng vào
bất kỳ một mục đích nào khác mà không có sự đồng ý của khách hàng.
Nếu luật sư không giữ được bí mật của khách hàng sẽ dẫn đến việc làm
mất đi sự tin cậy của khách hàng đối với luật sư, làm cho khách hàng không còn
tin tưởng luật sư, rồi từ đó không trao đổi, trình bày để thổ lộ với luật sư về mọi
tình tiết liên quan đến vụ việc bao gồm cả những tình tiết bất lợi. Vì thế, không
thể bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho khách hàng. Tuy nhiên, luật pháp cũng quy
định trong một số trường hợp thì nghĩa vụ giữ bí mật của luật sư sẽ được gỡ bỏ
bởi yêu cầu vì lợi ích chung cao hơn hoặc ngăn chặn một thảm họa chẳng hạn.
Trong cung cấp dịch vụ pháp lý, luật sư không được đòi hỏi khách hàng
bất kỳ khoản lợi ích gì ngoài thù lao đã thỏa thuận và cũng không được móc
ngoặc với đồng nghiệp đang làm luật sư cho khách hàng khác có quyền lợi đối
lập với khách hàng của mình để cùng nhau mưu cầu lợi ích cá nhân trên lợi ích
của khách hàng.
2.4.Nghĩa vụ thực hiện trợ lý giúp đỡ của luật sư.
Nghĩa vụ cao cả của luật sư là tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý miễn
phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đồng thời, khi thực hiện yêu cầu
trợ giúp pháp lý này luật sư cần tận tâm, tích cực như đối với các vụ việc có thù
lao.
Chúng ta đều nhận thấy rằng xã hội luôn tồn tại sự phát triển không đồng
đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Chẳng hạn như những người nghèo,
người già đơn côi, người chưa thành niên, người tàn tật, những nhóm người mà
quyền lợi của họ dễ bị xâm phạm và một điều trớ trêu là những người ở vào vị
thế thấp kém này lại là đối tượng thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công, bị hành
xử một cách trái pháp luật. Do vậy, họ rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của người
khác – đó cũng là trách nhiệm của xã hội. Điều ấy phải đến từ sự trợ giúp của
luật sư.
Ngay từ thời kỳ cổ đại, xã hội tôn vinh những người dám đứng ra bênh
vực, trợ giúp các đối tượng bị ức hiếp được xem là các “hiệp sỹ”. Sự trợ giúp
của luật sư trong những trường hợp này là hết sức cần thiết, đồng thời đó phải là
sự sự giúp hoàn toàn vô tư, không vụ lợi. Ngày nay, xã hội loài người đã được
hưởng thành quả của nhiều nền văn minh, giá trị đạo đức nhân loại đó không thể
bị xoá nhoà mà thậm chí còn phải được vun đắp và phát triển ngày càng phổ
biến và hiệu quả hơn. Vì thế, hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những đối
tượng này không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức
của nghề nghiệp luật sư.
Tóm lại, đặc thù của nghề luật sư đòi hỏi luật sư ngoài các phẩm chất
chung là Chân-Thiện-Mỹ, còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng
trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật, lợi ích của con người và đạo đức xã hội
làm cơ sở cho hoạt động của mình, điều ấy mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn
vinh của xã hội. Đạo đức nghề luật sư bao gồm những nguyên tắc ứng xử mà
luật sư phải tuân thủ khi hành nghề, người luật sư cần biết giữ gìn phẩm giá và
uy tín nghề nghiệp, độc lập, trung thực và khách quan trong quá trình hành nghề,
giữ được văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống đồng thời thực hiện nghĩa
vụ trợ giúp pháp lý một cách tận
2.5.Luật sư phải giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp.
Luật sư luôn giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp; không ngừng trau
dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn để hoàn thành tốt chức năng nghề
nghiệp của luật sư, tôn vinh nghề nghiệp luật sư.
Luật sư cần hành nghề với cái đức và cái tâm của mình. Phẩm giá người
luật sư chẳng khác ngoài sự tôn trọng và tự trọng đối với nghề nghiệp của mình,
phải hiểu được cái thiên chức cao quý của nghề - người bảo vệ công lý, bảo vệ
pháp chế. Phẩm giá đó thiết nghĩ đến từ chính sự cương trực, như biểu tượng
của sự công lý trong xã hội, dù khó khăn, áp lực vẫn không chùn bước.Phải
dũng cảm và có bản lĩnh để vượt qua trở ngại, thách thức gặp phải trong qua
trình hành nghề.Đó là một yêu cầu tự thân vận động nhằm chuẩn bị tâm thế cho
mình khi đối đầu với những tình huống “ xung đột “ xảy ra trong quá trình tìm
ra lẽ phải.Luật sư như những hiệp sỹ trên trận tuyến bảo vệ chân lư mà ở đó đối
phương có nhiều thủ đoạn và tìm mọi cách bẻ cong cán cân công lý, nếu không
có lòng dũng cảm và bản lĩnh hiệp sỹ ấy của người luật sư không hoàn thành sứ
mạng cao cả của mình là những chiến sỹ tiên phong trên mặt trận bảo vệ công
lý. Đó là điều mà mỗi luật sư của chúng ta phải có.
Phẩm giá và uy tín của luật sư còn thể hiện ở trình độ hiểu biết và khả
năng vận dụng pháp luật trong quá trình hành nghề của mình. Yêu cầu của hoạt
động này là hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp
luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.
Hoạt động của luật sư là sự chỉ dẫn cái đúng, cái sai,việc gì được làm, việc gì
không được làm, việc gì nên làm. Luật sư là người hoạt động khoa học pháp lý ở
vị trí người hướng dẫn pháp luật và đạo lý cho người khác, luôn luôn lấy việc
bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải và công bằng xã hội làm mục tiêu cao quý. Đó
chính là nền tảng đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Cuối cùng phẩm giá của luật sư thể hiện lòng nhân ái và nhân đạo cao
cả.Nhân ái và nhân đạo là truyền thống ngàn xưa của dân tộc ta, nó thể hiện sự
thiện cảm, bao dung và vị tha của con người Việt Nam.Do đặc thù nghề nghiệp,
luật sư thường xuyên tiếp cận với những nỗi đau, cái ác và điều xấu trong xã hội
, ở đó đức tính nhân ái và ḷng nhân đạo của con người được bộc lộ, người luật sư
phải cảm nhận nỗi đau đó như nỗi đau của mình phải biết dung thứ nỗi lầm cho
người khác khi họ nhận ra điều đó , đó là những đức tính cao quý cần phải có
của người luật sư.
2.6. Luật sư cần có văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống
Luật sư ứng xử đúng mực, có văn hoá trong hành nghề và trong lối sống
để luôn tạo được sự tin cậy và tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật
sư.
Văn hoá có thể được hiểu là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong lịch sử; là những hoạt động của con người nhằm
thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần; là tri thức, là biểu hiện của văn minh nhân
loại. Do vậy, văn hóa ứng xử của luật sư sẽ thể hiện trong cách hành xử của luật
sư đối với khách hàng, đối với những người tiến hành tố tụng, trong cách hành
xử đối với những người tham gia tố tụng và ngay cả đối với những luật sư đồng
nghiệp của mình.
Cách hành xử ấy đòi hỏi luật sư phải có thái độ lịch sự, tôn trọng, phải thể
hiện thiện chí hợp tác cùng nhau giải quyết vụ án một cách hợp lý và hợp tình.
Tuy nhiên, điều đó không phải lúc nào và luật sư nào trong số chúng ta đều có
thể làm được. Văn hoá đó thể hiện ở chính những lời nói, những hành xử của
luật sư – cách hành xử có văn hóa, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của
cuộc sống sẽ tạo nên sự tôn trọng của chính những người tham gia tố tụng và
của chính cả xã hội đối với họ.
Không dừng ở đấy, đạo đức nghề luật sư chúng ta không cho phép xúc
phạm hay hạ thấp uy tín của đồng nghiệp, không được dùng thủ đoạn đối với
đồng nghiệp để giành lợi thế cho mình trong hành nghề, cũng như thông đồng
với nhau để mưu cầu lợi ích cá nhân bất chính. Luật sư phải đối xử với nhau một
cách có văn hóa.
2.7. Luật sư phải phụng sự công lý, có trách nhiệm và tận tuỵ với nghề.
Nghề luật sư là nghề đem lại sự công bằng cho mọi người niềm tin vào
pháp luật của nhà nước , bảo vệ công lý góp phần xây dựng nhà nước dấn chủ và
công minh.Nhóm này bao gồm việc trung thành với Tổ Quốc,với lợi ích xã hội,
lợi ích Quốc Gia dân tộc đó là nguyên tắc tối thượng của luật sư khi hành nghề
cũng như mọi hoạt động khác chỉ khi nào người Luật sư biến lợi ích Quốc Gia,
dân tộc trở thành tình cảm cá nhân mình và thực hiện nó trong thực tiễn hành
động thì khi đó mới có thể nói là luật sư chân chính
Tuyệt đối tuân thủ pháp luật, là một nguyên tắc bắt buộc với Luật sư khi
hành nghề.Ngoài chức năng điều chỉnh xã hội, pháp luật còn là những chuẩn
mực cao nhất của đạo đức do đó tuân thủ Pháp luật là một yêu cầu tất yếu trong
quá trình hành nghề.Mặt khác luật sư là người am hiểu Pháp luật hơn ai hết, là
người có tư duy pháp lý sâu sắc do đó tuân thủ pháp luật là một yêu cầu tự giác
của quá trình rèn luyện đạo đức nghề luật.
Lương tâm, trách nhiệm là những đức tính luôn bổ sung cho nhau trong
quá trình hành nghề luật sư, những đức tính đó cần được đề cao bởi lẽ trong quá
trình hành nghề nếu không xây dựng được lòng trung thực, lương tâm trách
nhiệm thành ý thức tự giác thì người luật sư do động cơ vụ lợi họ dễ dàng lừa
dối khách hàng, lừa dối cơ quan công quyền để mưu cầu lợi ích chính đáng của
bản thân .
2.8. Luật sư phải tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng
Khi khách hàng đã lựa chọn luật sư nào thì chứng tỏ người luật sư đã nhận
được sự tín nhiệm và tin cậy của khách hàng , thân chủ của họ đặt niềm tin và hy
vọng của mình vào đó.Vì thế Luật sư không được tự ý giao việc của mình đã
đảm nhận cho người khác làm thay mà không có sự đồng ý của khách hàng.Nói
cách khác chỉ có khách hàng mới có quyền thay đổi chuyển dịch người cung
cấp dịch vụ pháp lý cho họ mà thôi.Như thế sẽ làm giảm uy tín của luật sư và
làm mất đi niềm tin mà thân chủ đã đặt vào họ.
Khi luật sư không làm tốt
nhiệm vụ của mình và không mang lại kết quả thì khách hàng có quyền lựa chọn
luật sư khác khi đó người luật sư phải tôn trọng sự lựa chọn của khách hàng.
Sau khi Pháp lệnh luật sư và đặc biệt là Luật Luật sư 2006 được ban hành,
đội ngũ luật sư đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự phát triển,
thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới của Luật Luật
sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề luật sư, quy trình
trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn Luật sư... Theo thống kê
của Liên đoàn Luật sư cho thấy, hiện cả nước có gần 5.800 luật sư và hơn 2.000
luật sư tập sự. Từ sau khi pháp lệnh hành nghề luật sư có hiệu lực (năm 2001)
đến nay, số lượng luật sư đã tăng 250%.Tuy nhiên, số lượng luật sư hiện có so
với dân số còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư nước ta hiện nay trung bình là 1 luật
sư/17.000 người dân, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1526, Singapore là
1/1.000, Mỹ là 1/250.Mặt khác, số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa
khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Luật sư
chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Nhưng vấn đề quan trọng chính là giá trị đạo đức của luật sư, một số Luật
sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp cần phải được khắc phục để đội ngũ luật sư
thực sự trở thành người thầy thuốc chữa bệnh cho những người cần được giúp
đỡ.Bài tiểu luận của nhóm chúng em xin đề cập tới một vài giá trị đạo đức trong
hoạt động hành nghề của Luật sư.
CHƯƠNG III. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ
LUẬT SƯ
1. Sự cần thiết phải ban hành những quy định chung về đạo đức nghề
luật
1.1.Luật sư là một nghề đang được xã hội quan tâm:
Đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay. Luật sư được hiểu như một nghề dựa trên dựa trên sự am hiểu
pháp luật và áp dụng pháp luật], họ gánh vác sứ mệnh bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của khách hàng nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm tôn trọng tính
tối cao của pháp luật, bảo đảm pháp chế. Nghề luật sư được điều chỉnh và kiểm
soát rất chặt chẽ bằng các quy định pháp luật. Nhưng vẫn chưa đủ, ngoài các
quy định pháp luật, nghề luật sư còn đặt trong những khuôn mẫu chuẩn mực đạo
đức nhất định mà xã hội trao cho họ.
Với thiên chức của nghề, người luật sư đòi hỏi cần phải nhận thức và ứng
xử một cách có đạo đức trong xã hội, về quan hệ giữa người với người, giữa cá
nhân với tập thể, tuân thủ những giá trị chuẩn mực của cuộc sống đã đem lại.
Khi đề cập đến đạo đức của nghề luật sư là chúng ta đề cập đến sự mệnh mà
người luật sư phải thực hiện; là nói đến phẩm chất, thanh danh của họ; là kỹ
năng hành nghề và cuối cùng là những chuẩn mực ứng xử của luật sư trong khi
hành nghề. Nói ngắn gọn, đạo đức nghề luật sư bao gồm những nguyên tắc ứng
xử mà luật sư phải tuân thủ khi hành nghề.
1.2.Giúp cho các luật sư hiểu được một cách tổng quát, vị trí, vai trò của Quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư (gọi tắt là Quy tắc); Nâng cao ý thức
tự giác của luật sư trong việc chấp hành các nghĩa vụ đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp trong hành nghề và trong giao tiếp xã hội; Giữ gìn và phát huy những giá
trị đạo đức truyền thống của nghề luật sư, góp phần xây dựng và củng cố sự tin
cậy trong xã hội đối với nghề luật sư ở Việt Nam
1.3. Luật sư Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng nghề luật sư là một nghề có
truyền thống cao quý gắn liền với số phận con người, đạo đức nghề nghiệp có ý
nghĩa là nền tảng cơ bản của nghề luật sư. Không có đạo đức nghề nghiệp, nghề
luật sư không thể tồn tại, phát triển. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư có giá trị là các chuẩn mực đạo đức của giới luật sư, tạo cơ sở để luật sư tự
giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong sinh hoạt hành nghề, là thước đo giúp
luật sư giữ gìn phẩm chất, uy tín của mỗi cá nhân và uy tín của cả đội ngũ luật
sư và nghề luật sư. Vì những lẽ đó, luật sư khi hành nghề và trong cuộc sống
sinh hoạt phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, giữ gìn phẩm chất tư cách đạo đức,
tôn thờ công lý vì nhân dân và tổ quốc để phụng sự.
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư phải đi kèm với những chế tài cụ thể
về các vi phạm.
Nghề luật sư từ khi được nhà nước thừa nhận chính thức bằng Pháp lệnh
Luật sư 1987 thì đạo đức nghề nghiệp đã được đặt ra, bàn luận không ngớt. Năm
2002, Bộ Tư pháp đã ban hành quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư. Và
giờ đây, với trách nhiệm tự quản của Liên đoàn Luật sư, việc xây dựng quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp càng trở nên quan trọng, bức thiết.
2.NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT
Nhận thấy được tầm quan trọng đó, ngày 05/8/2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đã ban hành Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP về việc ban hành Quy tắc về
mẫu đạo đức nghề nghiệp luật sư, cụ thể:
2.1.Yêu cầu chung về đạo đức nghề nghiệp luật sư.
2.1.1.Giữ gìn phẩm giá và uy tín nghề nghiệp.
Đối với luật sư việc giữ gìn phẩm giá và uy tín là bổn phận bắt buộc trong việc
hoàn thành chức năng nghề nghiệp luật sư.
2.1.2. Độc lập, trung thực, khách quan.
Khi hoạt động nghề nghiệp của mình, luật sư phải bảo đảm tính độc lập, trung
thực và tận tụy, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc vì áp lực khác mà làm
sai lệch sự thật, trái pháp luật và trái đạo đức xã hội.
2.1.3. Văn hoá ứng xử trong hành nghề và lối sống.
Luật sư là người trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học pháp lý, do vậy khi
hành nghề cũng như trong lối sống phải ứng xử có văn hoá tạo được sự tôn trọng
của xã hội.
2.1.4. Thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý.
Thực hiện trợ giúp miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách là
nghĩa vụ cao cả của luật sư. Khi làm trợ giúp phải tận tâm đối với công việc và
không được đòi hỏi bất kỳ lợi ích nào từ người mình có trách nhiệm trợ giúp.
2.2.Quan hệ với khách hàng.
2.2.1. Nhận và thực hiện vụ việc.
2.2.2.Phải tôn trọng sự lựa chọn luật sư của khách hàng, nếu không được khách
hàng đồng ý, không được tự giao việc mình đã nhận cho người khác làm thay.
2.2.3.Luật sư chỉ nhận việc theo khả năng của mình, không chạy theo lợi ích vật
chất, làm qua loa tắc trách đối với công việc của khách hàng.
2.2.4.Khi nhận việc, luật sư phải thông báo cho khách hàng biết rõ về quyền và
nghĩa vụ của mình trong việc dịch vụ pháp lý cho khách hàng và phải có trách
nhiệm thực hiện tốt nhất nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của khách hàng.
2.2.5.Quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình, nếu có phát hiện hoặc phát sinh
những vấn đề mới cần thông báo cho khách hàng biết.
2.2.6. Những việc luật sư đã nhận với khách hàng không được đơn phương từ
chối, nếu không được khách hành đồng ý hoặc không có lý do xác đáng.
2.3.Ứng xử khi có mâu thuẫn về quyền lợi giữa các khách hàng.
Trong cùng một việc, luật sư không cung cấp dịch vụ pháp lý cho những người
mà quyền lợi của họ đối lập nhau.
2.4.Từ chối cung cấp dịch vụ pháp lý.
Trường hợp yêu cầu của khách hàng không có căn cứ hoặc biết rõ yêu cầu đó là
vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì luật sư có quyền từ chối việc cung
cấp dịch vụ pháp lý cho họ.
2.5. Ứng xử khi chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng.
Trường hợp chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý khi hợp đồng chưa hoàn tất,
luật sư phải thông báo cho khách hàng biết rõ lý do và thanh toán sòng phẳng.
2.6. Bí mật thông tin.
Trong khi thực hiện nghề nghiệp, luật sư không được tiết lộ những điều liên
quan đến vụ việc mà không được khách hàng đồng ý.
2.7. Những việc luật sư không được làm.
- Trong khi hành nghề, luật sư không cộng tác kinh doanh cùng khách hàng,
không vay, mượn tiền, tài sản của khách hàng để sinh lợi cho mình.
- Không soạn thảo hợp đồng để khách hàng tặng, cho mình hoặc người thân
thích của mình tài sản của họ.
- Không nhận tiền hoặc lợi ích khác từ người khác để gây thiệt hại cho khách
hàng của mình.
- Không thuê người khác môi giới dẫn khách hàng cho mình.
- Không tự mình hoặc cho người đến gia đình bị can, bị cáo để vận động họ
thuê mình làm bào chữa.
- Không hứa hẹn trước kết quả việc tham gia tố tụng nhằm mục đích lôi kéo
khách hàng hoặc tăng thù lao.
- Không đòi hỏi khách hàng bất kỳ khoản lợi ích gì ngoài thù lao đã thoả thuận.
2.3.Quan hệ của luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan nhà
nước khác.
2.3.1. Ứng xử trong tiếp xúc và quan hệ.
Trong khi quan hệ, tiếp xúc với các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ
quan Nhà nước khác, luật sư có thái độ lịch sự, tôn trọng các cơ quan này.
Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với các cơ quan tiến
hành tố tụng và cơ quan Nhà nước khác.
- Không được móc nối, lôi kéo những người ở các cơ quan này làm việc trái
quy định của pháp luật.
- Không được cung cấp những thông tin, tài liệu, chứng cứ mà biết rõ không
xác thực cho các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan Nhà nước khác.
- Không sử dụng những thủ đoạn nhằm kéo dài, gây khó khăn việc giải quyết
vụ việc.
2.4.Quan hệ với đồng nghiệp
2.4.1.Tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp.
Trong quan hệ, cộng tác với đồng nghiệp, luật sư cần tôn trọng, giúp đỡ lẫn
nhau trên tinh thần xây dựng cùng nhau bảo vệ thanh danh uy tín của nghề luật
sư.
2.4.2.Đối với đồng nghiệp, luật sư không được:
- Không xúc phạm hoặc dùng thủ đoạn hạ thấp uy tín của đồng nghiệp để đề
cao mình, tranh khách hàng về mình.
- Trong hoạt động nghề nghiệp, không dùng thủ đoạn cạnh tranh thiếu lành
mạnh để lôi kéo khách hàng.
- Không móc ngoặc với đồng nghiệp đang làm luật sư cho khách hàng khác có
quyền lợi đối lập với khách hàng của mình để cùng nhau mưu cầu lợi ích cá
nhân trên lợi ích của khách hàng.
Nghề luật là nghề mang lại sự công bằng cho những bất công, vi phạm
trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…trong cuộc sống.
Chính vì phạm vi rộng lớn và tầm quan trọng của nó mà nghề luật đòi hỏi cần
phải có những quy định,quy tắc điều chỉnh quá trình thực hiện nó. Nhà nước ta
đã đưa ra nhiều quy tắc, quy định nhằm điều chỉnh hoạt động hành nghề của
những chủ thể tham gia nghề luật, tạo định hướng đúng đắn cho người tham gia
luật thực hiện đúng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đảm bảo cho Hiến pháp,
luật của Nhà nước thi hành hiệu quả nhất.