Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.29 KB, 4 trang )

Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội

Quá trình hình thành và phát
triển của bảo hiểm xã hội
Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Trên thế giới
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỉ XIII ở Nam
Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu
BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp . Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIII
một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp
họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau. ở Anh năm 1973 đã thành
lập hội “bằng hữu” để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp.
Năm 1883, nước Phổ ( Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm
ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Bảo hiểm xã hội đã trở
thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn
nhân quyền của Liên Hợp Quốc ( 10/12/1948) đã nghi: “ Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 4/6/1952, tổ chức lao động quốc
tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ (102) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” đã
khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho người lao động và gia đình họ.
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)
phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình

1/4




Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội

- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và
không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng, nguồn hình thành quỹ giống nhau.
Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau, tuỳ theo điều
kiện cụ thể của từng nước và và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi
nước có hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế độ, 37 nước chưa thực hiện được chế độ
thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và thứ 6 ( trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp gia đình).

Tại Việt Nam
Bảo hiểm xã hội có mầm mống dưới thời phong kiến Pháp thuộc. Sau cách mạng tháng
8/1945 Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà -nay là nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam, đã ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm
ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí. Các chế độ này được thực hiện đối với những người
làm việc trong các cơ quan từ cơ sở đến Trung ương.
Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận lao động xã
hội được hưởng quyền lợi BHXH.
Sau khi hoà bình lập lại, ngày 27/12/ 1961 Nhà nước ban hành Nghị định 128/CP của
Chính phủ về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên
chức” và được thực hiện từ ngày 1/1/1962. Sau hơn 20 năm thực hiện BHXH đối với
công nhân viên chức, các chế độ bảo hiểm xã hội đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó ngày
18/9/1985 Chính phủ (lúc đó là Hội Đồng Bộ Trưởng) đã ban hành Nghị định 236/
HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động.

Nội dung chủ yếu của Nghị định này là điều chỉnh mức đóng và hưởng BHXH.
Tuy nhiên chính sách BHXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế không phù hợp với cơ
chế mới. Vì vậy, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm
thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế , đánh dấu một bước đổi
mới của BHXH Việt Nam.
Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao động được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 15/6/1994, điều lệ tạm thời về BHXH theo Nghị định 12/CP của
Chính phủ ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ban hành ngày 15/7/1995 cho

2/4


Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội

các đối tượng hưởng BHXH là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, bảo hiểm xã
hội Việt Nam thực sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cũng như tổ chức quản
lý.
Các văn bản trên đã quy định cụ thể các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng qua các
giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.
Về hệ thống tổ chức quản lí:
- Trước năm 1995 do hai nghành quản lí. Ngành Lao động Thương binh Xã hội quản lí
việc thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất, còn liên đoàn lao động Việt Nam quản lí chi trả
chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ ngơi. Từ năm 1995 đến nay Chính phủ đã
cho phép sát nhập bộ phận làm công tác BHXH ở hai ngành lại thành tổ chức mới đó là
BHXH Việt Nam, là cơ quan trực thuộc Chính phủ có hệ thống dọc ở cấp tỉnh và huyện
ở các địa phương. Về nguồn tài chính hình thành quỹ BHXH chia làm hai giai đoạn:
- Thời kì 1962- 1993: trong giai đoạn này, quỹ BHXH được hính thành từ nguồn thu
tiền đóng BHXH với quy định chỉ có người sử dụng lao động đóng và tỉ lệ đóng là 4,7%
quỹ lương, trong đó :1% do ngành lao động Thương binh xã hội và Bộ tài chính quản lí
để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất; 3,7% do Tổng Liên Đoàn Lao động quản lí để chi

trả các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Đén năm 1987 được nâng lên
15%, trong đó 8% do nghành lao động TBXH quản lí, 2% để lại đơn vị để trợ cấp khó
khăn đột xuất, 5% do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lí.
Đặc điểm nổi bật là trước năm 1987 tỷ lệ đóng góp thấp, số người hưởng chế độ BHXH
ít song tỷ trọng ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho mục tiêu này lớn. Sau năm 1987 tỷ lệ
này được nâng lên song số người hưởng tăng lên, đặc biệt từ năm 1990 với việc thực
hiện các Quyết định 176/ HĐBT và 111/CP của Chính phủ về giảm biên chế khu vực
nhà nước nên số người hưởng BHXH tăng đòi hỏi ngân sách Nhà nước phải chi bù rất
lớn.
Thời kì 1993 đến nay được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định 43/CP ngày 1/4/
1993 của Chính phủ. Theo Nghị định này mức thu quỹ BHXH được nâng lên 20% trong
đó một sự thay đổi căn bản đó là: người lao động phải đóng 5%, 15% còn lại do người
sử dụng lao động đóng. Quỹ BHXH trở thành nguồn tài chính tập trung tương đối độc
lập với ngân sách Nhà nước. Ngoài ra quỹ BHXH còn được bổ sung từ việc sử dụng tiền
nhàn rỗi đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời. Khoản đầu tư này đang thấp
và sẽ được tăng dần trong các năm tiếp theo.
Tổng các nguồn thu BHXH tăng nhanh do cả hai nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ và
tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Đó là kết quả hoạt
động của việc thực hiện điều lệ BHXH ban hành theo Nghị định 12/CP theo tổ chức
mới. Việc hình thành một hệ thống BHXH tập trung đảm bảo thu phí BHXH kịp thời và

3/4


Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội

đầy đủ hơn làm tăng khá nhanh quỹ BHXH. Nguồn từ ngân sách Nhà nước để chi trả
cho những người hưởng BHXH trước tháng 1 năm 1995.
Nhìn chung sự hình thành quỹ BHXH đã dần dần đi vào ổn định, mang tính quy luật
chung. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân ngân sách nhà nước phải hỗ trợ kéo dài nhiều

năm, nhưng xu hướng giảm dần, còn chi BHXH từ quỹ (chi cho những người về nghỉ
hưu sau 1/1/1995) sẽ tăng lên do vậy cần phải có các giải pháp để tăng nhanh nguồn thu
BHXH.
Hiện nay các hoạt động đầu tư được Chính phủ cho phép:
- Mua trái phiếu tín phiếu của kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại Nhà
nước.
- Cho vay( Ngân sách Nhà nước vay), quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia vay, các ngân hàng
thương mại Nhà nước vay.
- Đầu tư vào một số dự án và Doanh nghiệp lớn của Nhà nước được Chính phủ cho
phép.
Tiền sinh lời được sử dụng như sau:
- Trích 50% trong 5 năm để bổ sung vốn đầu tư từ xây dựng cơ sở vật chất toàn hệ thống.
- Trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 3 tháng lương thực tế toàn ngành.
-Phần còn lại bổ sung vào quỹ BHXH.

4/4



×