Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng CNTT để sưu tầm và sử dụng hiệu quả các đoạn phim tư liệu trong dạy học âm nhạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 38 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

MỤC LỤC
Nội dung
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ __________________________________________
2
B. NỘI DUNG ____________________________________________
5
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG __________________
5
1.1. Cơ sở lí luận ____________________________________
5
1.2. Cơ sở thực tiễn __________________________________
9
CHƯƠNG 2 - ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ
SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ
LIỆU

TRONG

DẠY

HỌC

ÂM

NHẠC

______________________


2.1. Ứng dụng CNTT để sưu tầm các đoạn phim tư liệu
trong dạy học Âm nhạc ______________________________
2.2. Ứng dụng CNTT để tích hợp chức năng nghe – nhìn, sử

17

17

dụng hiệu quả các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm
nhạc ______________________________________________
2.2.1. Cách sử dụng hiệu quả các đoạn phim tư liệu trong

18

dạy học Âm nhạc ____________________________________
2.2.2. Vận dụng vào một bài dạy cụ thể _________________
2.3. Kết quả ________________________________________
C. KẾT LUẬN ____________________________________________
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ________________________________

18
20
25
26
27

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Trong những năm gần đây, giáo dục nghệ thuật trong nhà trường phổ
thông đã trở thành một môn học không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục con
người mới Việt Nam phát triển toàn diện. Cùng với các môn học khác, môn học

------------------------------------------------------------ 1
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

Âm nhạc trong chương trình THCS nhằm mục đích giáo dục thẩm mỹ, nâng cao
đời sống tinh thần cho lớp trẻ nên đã thu hút được sự chú ý của nhà trường, của
học sinh. Chương trình Âm nhạc ở THCS đã được triển khai đồng bộ từ lớp 6
đến hết học kỳ I lớp 9 đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của nhà trường phổ
thông và của xã hội. Mặc dù cũng còn có một vài ý kiến trái ngược nhau, nhưng
nhìn chung, nội dung của chương trình SGK Âm nhạc THCS đã thể hiện được
những tiêu chí giáo dục thẩm mỹ hết sức cụ thể, có tính khoa học và liên ngành
cao. Có lẽ, chưa có thời điểm nào mà các trường phổ thông lại hăng hái đăng ký
tham gia giờ dạy tốt, giáo viên dạy giỏi môn Âm nhạc như giai đoạn hiện nay.
Điều đó chứng tỏ sự định hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước, sự quan tâm
của Bộ giáo dục đào tạo cũng như các sở, ngành địa phương đối với môn học
này. Do vậy đã khơi dậy được niềm tự tin, lòng yêu nghề, sự nhiệt tình phấn đấu
của những giáo viên giảng dạy âm nhạc.
Giáo dục nghệ thuật là tạo môi trường thẩm mỹ cho xã hội.
Mác nói “Muốn thưởng thức về Nghệ thuật thì trước tiên phải được
giáo dục về Nghệ thuật”. Trong chiến lược phát triển con người một cách toàn
diện, con người phải được giáo dục về mặt Nghệ thuật thì mới đủ năng lực cảm
thụ và sáng tạo Nghệ thuật, có đủ năng lực tinh tế trong cảm thụ, mới có thể
phát hiện và khẳng định cái mới; cái đẹp trong cuộc sống. Giúp con người có đủ
năng lực tham gia vào hoạt động Chính trị, Xã hội và các ngành Khoa học khác.
Ngoài yêu cầu học nghệ thuật để giải trí về mặt thẩm mỹ, để nâng cao hiểu biết

về Nghệ thuật, các môn học nghệ thuật nói chung và Âm nhạc nói riêng còn gắn
liền với hoạt động thực tiễn trong học tập, sinh hoạt và sáng tạo. Học nghệ thuật
để mắt nhìn cảnh vật và tai lắng nghe, biết thưởng thức cái đẹp trong thiên nhiên
và trong cuộc sống, trí quan sát ngày càng mở mang, tai và mắt thêm tinh tường.
Đi đôi với việc đó năng khiếu thẩm mỹ không ngừng được nâng cao.
Mục tiêu giáo dục phổ thông của chúng ta là “Giúp học sinh phổ thông
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân”.
Với chiến lược phát triển con người một cách toàn diện này đã làm thay
đổi về nhận thức, sự quan tâm của toàn xã hội nói chung và của ngành Giáo dục
nói riêng trong việc giáo dục Nghệ thuật ở trường phổ thông. Giáo dục nghệ
thuật nói chung và giáo dục Âm nhạc nói riêng ở trường phổ thông được xem
như một vấn đề hết sức cần thiết trong việc đào tạo học sinh trở thành con người
phát triển toàn diện, là một hoạt động giáo dục cốt lõi trong việc hình thành con
người với tính cách chủ thể tích cực sáng tạo Xã hội Công nghiệp hiện đại, cùng
với việc giáo dục tư tưởng chính trị, ý thức công dân, đạo đức xã hội, lao động
và khoa học kỹ thuật. Vị thế các môn học nghệ thuật trong trường phổ thông
cũng được xác định theo hướng tích cực. Trong các môn học nghệ thuật, Âm
------------------------------------------------------------ 2
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh.

Mục tiêu dạy học các môn nghệ thuật là: Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh,
cung cấp cho các em một số kiến thức phổ thông, rèn luyện cách quan sát, khả
năng tìm tòi sáng tạo, giúp các em nhận thức cái đẹp đúng đắn theo tinh thần
dân tộc, biết tạo ra cái đẹp, thưởng thức cái đẹp, giúp các em phát triển hài hòa
cân đối, hỗ trợ cho các em học tốt các môn học khác.
Để dạy tốt các môn học nói chung, môn Âm nhạc nói riêng đòi hỏi phải có sự
đổi mới toàn diện trong quan niệm về môn học, đổi mới nội dung, phương pháp,
phương tiện dạy học, việc kiểm tra đánh giá… theo hướng phát huy tính tích cực học
tập của học sinh.
Đổi mới về phương pháp dạy học Âm nhạc (PPDHÂN) càng trở nên
cấp thiết hơn để phù hợp với việc đổi mới trong giáo dục nói chung. Nghị
quyết Đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, khoá VIII đã chỉ rõ:
“Phương pháp giáo dục đào tạo cần được đổi mới, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của người học”. Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) cũng nhấn mạnh : “Chất
lượng giáo dục còn nhiều yếu kém; khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh,
sinh viên ít được bồi dưỡng, năng lực, thực hành của học sinh, sinh vên còn yếu.
Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề, chưa thật phù
hợp”. (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
hai, NXB CTQG, HN, 2006, tr. 170)
Với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục Âm nhạc, dạy học Âm nhạc
ở nhà trường, đổi mới PPDHÂN đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
2. Một trong những hướng đổi mới PPDHÂN là ứng dụng hiệu quả các
loại phương tiện dạy học hiện đại và công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học
lịch sử. Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, khoá VIII đã
chỉ rõ : “Đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm
bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh…”
Các loại phương tiện dạy học hiện dại và CNTT là những công cụ hỗ
trợ đắc lực trong việc đổi mới PPDH nói chung và PPDHÂN nói riêng.

Trong dạy học Âm nhạc, CNTT có thể được sử dụng để truy nhập và khai
thác các nguồn thông tin (Internet, CD Rom Âm nhạc); lưu giữ các tư liệu Âm
nhạc; cắt, ghép nhạc; xây dựng bài giảng điện tử… Trong phạm vi của đề tài,
chúng tôi chủ yếu hướng đến việc ứng dụng CNTT để sưu tầm và sử dụng
hiệu quả các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc.
3. Trong dạy học Âm nhạc, có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau,
cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng nâng cao chất
lượng dạy học Âm nhạc. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Âm
nhạc hiện nay không chỉ giới hạn ở việc sử dụng nhạc cụ mà còn có các loại
------------------------------------------------------------ 3
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

phương tiện kĩ thuật hiện đại. “Bởi vì do việc thông tin ngày càng tăng, trình độ
khoa học phong phú nên cần cải tiến phương pháp dạy học truyền thống với các
phương tiện kĩ thuật hiện đại hơn… Việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện
đại không hạ thấp vai trò của thầy giáo mà vẫn tăng hiệu quả bài học ở các
mặt: thu nhận thông tin, tư duy, ghi nhớ và vận dụng kiến thức”. (Giáo sư Phan
Ngọc Liên)
Việc ứng dụng các loại phương tiện kĩ thuật hiện đại và CNTT vào quá
trình dạy học nói chung và dạy học Âm nhạc nói riêng ngày càng phổ biến.
Nhiều tiết học ứng dụng các phương tiện hiện đại và CNTT đã đạt được hiệu
quả to lớn. Tuy nhiên trong quá trình ứng dụng, nhiều giáo viên mới chỉ
dừng lại ở việc khai thác các tư liệu thành văn và tư liệu hình ảnh (chủ yếu
là tranh, ảnh) mà chưa quan tâm đến việc khai thác các đoạn phim tư liệu

để đưa vào bài dạy trong khi đây là một loại tư liệu hết sức quan trọng, nếu
sử dụng hợp lí sẽ đem lại hiệu quả không nhỏ.
Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài : “ỨNG DỤNG CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN
PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC” với hi vọng đề tài này sẽ
đóng góp phần nào vào việc đổi mới PPDHÂN, nâng cao chất lượng giáo dục
Âm nhạc, dạy học Âm nhạc trong nhà trường.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
------------------------------------------------------------ 4
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1 Quan niệm về hiệu quả bài học Âm nhạc
Chúng ta đều biết rằng bài học âm nhạc ở trường phổ thông (hay còn gọi
là giờ học, tiết học, giờ lên lớp) là một khâu trong quá trình dạy học. Nhiệm vụ
của nó là thực hiện một phần chương trình, sách giáo khoa, góp phần từng bước
hoàn thành mục tiêu môn học, cấp học và khóa trình. Đó là hình thức cơ bản của
việc tổ chức quá trình thống nhất giữa giảng dạy và học tập: giáo viên tiến hành
các công việc truyền đạt kiến thức, giáo dục, phát triển học sinh; tổ chức, hướng
dẫn học sinh tích cực hoạt động nhận thức để lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư
tưởng đạo đức, rèn luyện kĩ năng… Vì thế, tiến hành bài học là điều tất yếu và

bắt buộc trong việc dạy học ở trường phổ thông.
Là một khâu của quá trình dạy học nên bài học - chủ yếu là loại bài cung
cấp kiến thức mới, giải quyết tất cả các yếu tố của quá trình dạy học. Mọi yếu tố
của quá trình dạy học được thể hiện, phản ánh thông qua bài học, từ mục tiêu,
nội dung, phương tiện, phương pháp, hình thức hoạt động… Nói cách khác, mỗi
bài học đều giải quyết, đề cập đến tất cả các yếu tố của quá trình dạy học. Như
thế, một bài học hiệu quả là bài học đề cập và giải quyết được tất cả các yếu tố
của quá trình dạy học như trên đã trình bày.
Để xác định hiệu quả của một bài học âm nhạc ở trường phổ thông là một
điều không hề đơn giản. Vấn đề này được những nhà nghiên cứu và giáo viên
thảo luận sôi nổi, có một số điều nhất trí, nhưng không phải là không có những ý
kiến khác biệt. Hiện nay vẫn tồn tại quan niệm phiến diện, xem xét hiệu quả bài
học chỉ thể hiện ở mức độ hình thành các kiến thức khoa học của học sinh trong
giờ học, học sinh là người đánh giá hiệu quả của giờ học. Người khác thì cho
rằng, hiệu quả của một bài học phụ thuộc vào đánh giá của các chuyên gia giáo
dục. Có quan điểm lại đánh giá ở trình độ của người thầy cả về chuyên môn,
nghiệp vụ, tổ chức trong quá trình dạy học.
Hiệu quả nói chung, hiệu quả bài học âm nhạc nói riêng là một khái niệm
rất phức tạp, không dễ gì có thể thống nhất trong tất cả mọi người. Có thể hiệu
quả với người dạy này, lớp học này mà không hiệu quả với lớp học khác, người
dạy học khác. Nói như thế không có nghĩa là không có tiêu chí chung đánh giá
hiệu quả một giờ học.
Một giờ học nói chung, giờ học âm nhạc nói riêng bỏ ra ít công sức nhất,
ít tốn thời gian nhất, nhưng lại đem lại hiệu quả cao nhất. Đó chính là hiệu quả
của bài học. Như thế, hiệu quả của một bài học âm nhạc cũng gắn với đối tượng
lớp học, trường học cụ thể, gắn với công sức, thời gian của thầy và học sinh. Sự
tiến bộ của mỗi học sinh sau một giờ học là thước đo căn bản đánh giá hiệu quả
của một bài học âm nhạc.
------------------------------------------------------------ 5
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN


GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

Đánh giá hiệu quả của bài học âm nhạc ở trường phổ thông, trong nhiều
năm qua, người ta thường gắn với mục tiêu của giờ học, chương trình dạy học
âm nhạc. Điều đó đúng, nhưng có phần lạc hậu so với thời đại ngày nay – thời
đại của công nghệ thông tin, thời đại chạy đua quyết liệt về khoa học và công
nghệ, về giáo dục giữa các quốc gia. Điều này yêu cầu giáo dục phải đào tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trên quan điểm dạy chữ để dạy người, chúng ta nhất trí rằng, hiệu quả
của bài học được xác định không chỉ bằng việc hình thành các kiến thức, mà còn
là kết quả của việc giáo dục và phát triển tư duy, kỹ năng, kỹ xảo, tính tích cực
học tập của học sinh trong học tập và cuộc sống. Nói một cách cụ thể, hiệu quả
bài học thể hiện ở các mặt sau đây:
Trước hết, bài học phải giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản
của bài. Kiến thức cơ bản ấy giúp các em trả lời câu hỏi như thế nào? và vận
dụng kiến thức đã học vào cuộc sống ra sao?
Thứ hai, bài học hiệu quả phải đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
• Kiến thức
- Dạy học Âm nhạc nhằm phát triển nhận thức và các năng lực âm nhạc của học
sinh, tạo cho các em có một trình độ văn hóa âm nhạc nhất định, góp phần giáo
dục toàn diện cho học sinh.
- Môn Âm nhạc cung cấp cho học sinh những kiến thức âm nhạc phù hợp với
lứa tuổi về: Học hát, Phát triển khả năng âm nhạc, Tập đọc nhạc, Nhạc lí và Âm
nhạc thường thức.
• Kĩ năng

- Luyện tập kĩ năng hát đúng giai điệu, lời ca và bước đầu tập hát diễn cảm.
- Luyện tập kĩ năng đọc nhạc và ghi chép nhạc đơn giản.
- Luyện tập kĩ năng nghe và cảm nhận âm nhạc.
- Luyện tập một số kĩ năng âm nhạc khác như gõ đệm, đánh nhịp, vận động theo
nhạc…
• Thái độ và giá trị
- Bồi dưỡng tình cảm trong sáng, lòng yêu âm nhạc nhằm phát triển hài hoà
nhân cách.
- Thông qua các hoạt động âm nhạc làm cho đời sống tinh thần phong phú, lành
mạnh, đem đến cho học sinh niềm vui, tinh thần lạc quan, sự mạnh dạn, tự tin,
lòng tự trọng và các giá trị khác.
- Khuyến khích học sinh nhiệt tình tham gia các hoạt động âm nhạc trong và
ngoài trường học.
Trong mỗi phân môn, mỗi bài học lại có mục tiêu cụ thể và chi tiết hơn.
Thông qua những mục tiêu cụ thể đó, nhằm đạt được mục tiêu của môn học.
Thứ ba, hiệu quả bài học còn thể hiện ở việc phát triển toàn diện học sinh
như: năng lực nhận thức (tri giác, tưởng tượng, trí nhớ, tư duy…), các thành
phần nhân cách (cảm xúc, hứng thú học tập, ý chí,…), năng lực thực hành và các
------------------------------------------------------------ 6
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

kỹ năng, kỹ xảo,… Ngoài ra, giáo viên cũng không quên hình thành cho học
sinh lòng mong muốn và khả năng tham gia tích cực, có hiệu quả các hoạt động
xã hội và lao động sản xuất.

Ba mặt cung cấp kiến thức, giáo dục tư tưởng, đạo đức và phát triển năng
lực tư duy và hành động trong bài học âm nhạc có mối quan hệ chặt chẽ, có tác
động biện chứng với nhau. Nhiệm vụ giáo dục và phát triển của bài học chỉ có
thể thực hiện trên cơ sở hình thành kiến thức. Mặt khác, việc hoàn thành nhiệm
vụ giáo dục và phát triển trong giờ học sẽ làm cho việc nắm kiến thức của học
sinh vững chắc, sâu sắc hơn.
1.1.2. Quan niệm về “Công nghệ thông tin”
1.1.2.1. Khái niệm “Công nghệ thông tin”
Công nghệ thông tin ( IT – Information Technology) là ngành ứng dụng
công nghệ quản lý và xử lý thông tin, là ngành sử dụng máy tính và các phần
mềm của nó để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu nhập thông tin.
Theo Nghị quyết 49/CP của Chính phủ ngày 4 tháng 8 năm 1993 thì “công nghệ
thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ
thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông- nhằm tổ chức khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và
tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”. Như vậy,
công nghệ thông tin là tập hợp các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại như
máy tính, máy chiếu Projector, mạng Internet… để cung cấp nguồn tài nguyên
vô cùng phong phú, đa dạng cho mọi lĩnh vực trong đời sống con người và xã
hội. Đặc biệt, ngày nay Internet với các kết nối băng tầng rộng đã đi tới tất cả
các trường học đã giúp cho việc ứng dụng các kiến thức, kĩ năng và hiểu biết về
công nghệ thông tin vào dạy học đã dần trở thành hiện thực.
1.1.2.2. Vai trò của công nghệ thông tin với dạy học
Ngày nay, việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông
đang rất được nhà nước và xã hội quan tâm. Định hướng đổi mới phương pháp
dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 Khóa VII (1.1993),
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12.1996), được thể chế hóa trong Luật giáo
dục (2005). Đặc biệt, theo Luật Giáo dục điều 82.2 đã ghi : “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp

tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, theo quy định
của Luật giáo dục, giáo viên phải chuyển dần từ phương pháp dạy học truyền
thống (giáo viên giử vai trò trung tâm) sang phương pháp dạy học tích cực – lấy
học sinh làm trung tâm của hoạt động dạy và học để có thể phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo cho học sinh hứng thú trong học
tập. Ngoài ra, giáo viên còn phải bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng nhận biết bản
chất vấn đề, có năng lực tư duy độc lập và vận dụng sáng tạo kiến thức đã học
------------------------------------------------------------ 7
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

vào thực tiễn. Để đạt mục tiêu trên, giáo viên phải tăng cường việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học vì những lí do sau:
Thứ nhất, nó phù hợp với yêu cầu của thời đại vì “thời đại tin học thật sự
đến rồi và thời đại công nghiệp coi như kết thúc. Nền giáo dục của thời đại
công nghiệp nay không còn thích hợp với xã hội nữa”. Trong hệ thống giáo dục
của phương Tây, công nghệ thông tin chính thức được đưa vào chương trình học
phổ thông. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về công nghệ thông tin
đã có ích cho tất cả các môn học khác nhau. Do đó, việc ứng dụng nó vào dạy
học ở trường phổ thông Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển của thời
đại.
Thứ hai, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chiến lược phát triển giáo dục
đào tạo đến năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ: “từng bước phát

triển giáo dục dựa trên công nghệ thông tin…công nghệ thông tin và đa phương
tiện sẽ tạo ra thay đổi lớn trong hệ thống quản lí giáo dục, trong chuyển tải nội
dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp
dạy và học”. Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xác định con đường phát
triển cho giáo dục Việt Nam là “dựa trên công nghệ thông tin” và nó là phương
tiện để thúc đẩy cuộc “cách mạng về phương pháp dạy và học” – nghĩa là thay
đổi phương pháp dạy học trong nhà trường. Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành quyết định “cấm sử dụng phương pháp đọc chép” trong
trường phổ thông càng làm cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
được đẩy mạnh hơn. Tuy nhiên, giáo viên không nên quá lạm dụng máy chiếu
để thay cho tấm bảng đen, không nên biến đọc chép thành “chiếu - chép”. Thời
gian qua, nhiều giáo viên vẫn còn quan niệm đồng nhất giữa “ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học” với giáo án điện tử. Do đó, khi soạn một bài giảng
bằng Power Point, giáo viên đưa tất cả những công việc của mình (ổn định lớp,
kiểm tra bài cũ, câu hỏi kiểm tra bài cũ, dặn dò…) và toàn bộ nội dung bài giảng
lên các Slides để “chiếu cho học sinh chép”. Theo chúng tôi, đây là một quan
niệm chưa thật sự chuẩn xác vì công nghệ thông tin không phải là một giáo án,
nó chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho quá trình giảng dạy và giúp giáo viên cung cấp
cho học sinh nhiều nguồn tư liệu khác nhau về một sự vật, hiện tượng như: kênh
chữ, kênh hình, phim tư liệu…để cho học sinh tự tìm ra tri thức cho mình. Từ
đó, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học
tập.
Thứ ba, công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện
dạy học, các phần mềm dạy học như Activestudio, Power Point…sẽ giúp giáo
viên tạo bài giảng phù hợp nhu cầu của học sinh, giúp học sinh có nhiều phương
pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp cho giáo viên tạo ra một lớp học
mang tính tương tác hai chiều: giáo viên – học sinh và ngược lại. Điều này phù
hợp với quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo vì “học là quá trình thu nhận
------------------------------------------------------------ 8
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN


GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

thông tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thông tin; dạy là quá trình
phát thông tin và giúp người học thực hiện quá trình trên một cách có hiệu quả”.
Do đó, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp học sinh tiếp nhận thông tin bài
học hiệu quả hơn và sẽ biến những thông tin đó thành kiến thức của mình. Đồng
thời, nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, khai
thác nhiều giác quan của người học để lĩnh hội tri thức.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên
rút ngắn thời gian giảng dạy, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo tình
huống có vấn đề để kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Học sinh có thể dễ
dàng hình dung và có khái niệm chính xác về các hình ảnh, sự vật, hiện tượng
khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan (hình tư liệu, bản đồ,
những đoạn phim tư liệu …) Như vậy, ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy học là một nhu cầu cấp thiết đối với hệ thống giáo dục Việt Nam vì
nó giúp giáo viên có nhiều thời gian hơn để dẫn dắt học sinh nắm bắt vấn đề, tạo
tình huống có vấn đề để kích thích sự tư duy sáng tạo của học sinh. Mặt khác, nó
cũng sẽ giúp học sinh chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức khi được
tiếp xúc với nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó, hình thành cho người học kĩ
năng tự tiếp thu tri thức, độc lập trong tư duy và hứng thú, hăng say trong học
tập. Do đó, công nghệ thông tin ngày chiếm giữ vị trí quan trọng trong dạy học
và nó càng có vai trò quan trọng hơn đối với việc dạy và học môn Âm nhạc.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vai trò của bộ môn Âm nhạc
“Âm nhạc là môn văn hoá bắt buộc, tất cả học sinh đều được học để có

một trình độ văn hoá âm nhạc phổ thông trong nền học vấn chung ở Tiểu học và
THCS”.
Chúng ta đã biết âm nhạc là không thể thiếu được trong cuộc sống và nó
có vai trò hết sức quan trọng đối với tất cả mọi người. "Nó vừa là phương tiện
vừa là nghệ thuật tạo cho sự phát triển tốt hơn trong cuộc sống" (Theo
"Vietnam article")
Và hơn thế nữa, âm nhạc là biểu hiện sự vui vẻ của con người, khi người
ta vui, người ta ca hát. Vì âm nhạc là phương tiện biểu lộ cảm xúc của con người
mà con người thì không phải lúc nào cũng vui, vì thế người ta lại chế ra loại
nhạc để hát trong lúc buồn. Vậy là âm không những xuất hiện khi người ta vui
mà còn có mặt khi người ta buồn. Âm nhạc lại trở thành một phương tiện nữa để
con người bộc lộ sự đau khổ, tuyệt vọng, cô đơn, hờn giận, than phận, trách
thân…
Trong thời bình, âm nhạc ca ngợi đời sống hòa bình, ca ngợi đất nước,
một mảng khác thì ca ngợi tình yêu trong sáng, ca ngợi quê hương tươi đẹp. Một
mảng khác lại phản ảnh tâm tư nguyện vọng của con người, thở than cho tình
yêu đau khổ, thân thân trách phận, biểu hiện sự rụt rè, tuyệt vọng. Âm nhạc là
suối nguồn của văn hóa xã hội cũng như quan hệ huyết thống. Ai lớn lên mà
------------------------------------------------------------ 9
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

chẳng đã từng nghe những lời ru ngọt ngào của mẹ. Những lời ru đó là âm nhạc
tri thức, là phương triện truyền dẫn mối giao cảm giữa tình mẫu tử thiêng liêng,
cô đọng. Ngoài ra, âm nhạc đặc trưng còn được sử dụng trong các buổi lễ long

trọng, trong lễ cưới, lễ tang. Muôn vẻ âm nhạc tồn tại và phát triển trong cuộc
sống đời thường.
Một nghiên cứu về “vị trí âm nhạc” được đăng trên catruong, có đoạn ghi
như sau: “Âm nhạc tồn tại ở mọi thời đại và trong đời sống của hết thảy các dân
tộc. Nó ra đời từ thời cổ đại xa xưa, là một nhu cầu không thể thiếu được của
mọi người trong sinh hoạt, và giao tiếp. Từ những thời kỳ tiền sử, âm nhạc đã
gắn liền mật thiết với hoạt động thực tiễn và nhu cầu vật chất của con người,
cũng như những nhu cầu khác. Săn bắn hiệu quả nhờ bắt chước tài tình tiếng
chim hót, dùng tù và để gọi nai, dần dần con người đã biết dùng nhạc cụ và
tiếng người để phản ánh những âm thanh sinh động của thiên nhiên."
Vũ Ngọc Phan cho rằng âm nhạc xuất hiện cùng thời với thần thoại và
truyền thuyết. Ông đã trưng ra nhận định của Lỗ Tấn, khi đẩy một vật gì nặng,
một người hò lên mấy tiếng "Dô ta" nhịp nhàng, thì đó cũng là sáng tác, và nếu
tất cả mọi người khác cùng hò: "Dô ta" thì đó là một cách "xuất bản". Như vậy
ca hát (loại hình âm nhạc) có rất sớm, nó xuất hiện từ thời cổ sơ và hình thức thô
sơ của nó đã được sửa đổi qua các thế hệ của loài người.
Âm nhạc đã gắn liền mọi khoảnh khắc, mọi giai đoạn của đời người, từ
lúc chào đời đến khi giã từ cuộc sống. Đó là những khúc hát ru thuở ban đầu;
những bài đồng dao khi khôn lớn, những bài hát vui, dí dỏm trong các trò chơi
trẻ thơ; những bài hát giao duyên, tỏ tình khi trưởng thành; những bài ca sinh
hoạt; những bài nhạc hiệu xuất trận; những bài hát trong lao động học tập và
những khúc hát tiễn đưa con người trở về với cát bụi…
Âm nhạc là hiện tượng không thể thiếu trong đời sống cộng thể, từ xóm
thôn đến làng xã. Từ xa xưa, khi biết lao động con người thường hợp sức nhau
lại để cùng nhau xây dựng nhà cửa, bảo vệ bộ tộc và phát triển đời sống. Để
giúp nhau đạt hiệu quả trong đời sống lao động vui chơi giải trí, những câu hò
điệu hát phát sinh với ý nghĩa giáo dục tinh thần tập thể tương trợ, gắn bó với
nhau, khích lệ nhau vượt qua những khó khăn. Để gây tình đoàn kết, tiếng đàn
tiếng hát còn vang dội trong những ngày hội gia đình, những ngày lễ tết chung
của dân tộc.

Âm nhạc là một trong những hình thái của con người và xã hội. Cũng như
những loại hình nghệ thuật khác: hội họa sử dụng đường nét, hình khối, màu
sắc; văn thơ bằng sức mạnh của ngôn từ; âm nhạc thông qua những âm thanh
đặc trưng nói lên tất cả những gì mà trong cuộc sống con người đã trải qua. Đó
là niềm vui sướng và nỗi khổ đau, những khát vọng, những ước mơ về hạnh
phúc, những nỗi trăn trở, những tâm tư thầm kín… Âm nhạc có khả năng biểu
hiện những khía cạnh khác nhau của cuộc sống, có thể tạo cho con người những
------------------------------------------------------------ 10
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

cảm xúc mãnh liệt, những sắc thái tình cảm tinh tế nhiều màu sắc, xốn xang u
hoài, … đưa con người từ một tâm trạng này sang một tâm trạng khác.
Âm nhạc đối với người xưa đã vậy, còn trong thời đại chúng ta đang sống,
tâm hồn chúng ta phong phú gấp bội thì nhu cầu âm nhạc lại lớn lao biết bao
nhiêu. "Âm nhạc mọi nơi mọi lúc": từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ khu phố đến
thành thị, đâu đâu cũng có thể nghe được những giai điệu vang lên. Âm nhạc là
hơi thở của cuộc sống, cần thiết cho cuộc sống như không khí cần cho sự sống
của mỗi người. Chính vì nhu cầu lớn lao này mà chỗ nào, lúc nào âm nhạc cũng
có mặt.
Âm nhạc có mặt trên hầu hết các phương tiện truyền thông đại chúng:
Truyền hình, truyền thanh đã dành cho các chương trình âm nhạc một thời lượng
phát sóng dồi dào; chưa kể đến nhạc hiệu, nhạc chuyển tiếp giữa các chuyên
mục, hoặc nhạc giới thiệu cho một chuyên mục (nhiều người theo dõi thường
xuyên có thể nhận biết chuyên mục gì nhờ âm nhạc được phát lúc đầu).

Báo chí phát hành mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng v.v… đều có những chuyên
mục về âm nhạc Những cuộc thi âm nhạc nở rộ: Tiếng hát truyền hình, tiếng hát
truyền thanh, Hội thi giọng hát hay, văn nghệ quần chúng v.v… Nhưng sôi nổi
hơn cả là thị trường âm nhạc. Âm nhạc là món hàng, là quà tặng, là phương thế
quảng cáo tiếp thị. Âm nhạc được phổ biến qua băng đĩa (cassette, tape compact
disque, CD, VCD, DVD, HD…) qua các tuyển tập; được trình bày trong các tụ
điểm và sân khấu ca nhạc, trong quảng cáo… Âm nhạc mang tính kinh tế, giải
trí và thưởng thức, và mang tính thể thao nữa. Nói chung trong bất cứ lĩnh vực
nào âm nhạc luôn giữ một vị trí cần thiết và ảnh hưởng của nó trong cuộc sống
thật là lớn lao.
Tính giáo dục của âm nhạc có ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của con
người, nhất là mặt tâm tư tình cảm. Khi dỗ con ngủ, tiếng hát ru của mẹ (của
chị) như ngọt ngào trò chuyện, tâm tình, dạy bảo, gieo vào lòng trẻ thơ những
hình ảnh thần tiên kỳ diệu, những ước mơ trong sáng và cao đẹp, vun đắp tình
người, tình mẹ con và tình gia đình.
Âm nhạc giúp con người, nhất là thời thơ ấu đang phát triển, lớn lên về
mọi mặt: văn, thể, mỹ, đức, trí… Các nghiên cứu khoa học cho hay âm nhạc có
tác dụng giúp trẻ em thông minh hơn. Đây là kết luận rút ra từ cuộc nghiên cứu
do Bộ Giáo dục Mỹ thực hiện trong 10 năm, với khoảng 25.000 trẻ em. Cuộc
nghiên cứu cho thấy các môn nghệ thuật, nhất là âm nhạc, đã giúp các em có
những tiến bộ rõ rệt trong các môn toán, lịch sử, địa lý… Âm nhạc làm phát sinh
những tình cảm rất đặc biệt. Nó có thể làm cho ta uốn éo thân hình theo điệu
nhạc hay lắc lư cái đầu theo mỗi dòng cảm xúc. Nghiên cứu mới nhất của Anne
Blood và các đồng nghiệp ở Viện thần kinh trường Đại học Mc Gill (Montréal –
Canada) khám phá ra rằng, những vùng trong não chịu sự tác động của âm nhạc
rất khác so với quá trình cảm xúc và nhận thức đã biết. Họ xác nhận sở thích âm
nhạc cũng có chỗ đứng trong não, bằng kỹ thuật chụp ảnh, người ta ghi nhận
------------------------------------------------------------ 11
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN


GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

những vùng chịu sự tác động của âm nhạc nằm phần lớn ở bán cầu não phải,
phần giầu cảm xúc nhất và chiếm một vị trí riêng biệt trong vùng dành cho sự
thể hiện các cảm xúc.
Trước công nguyên hơn 500 năm, Khổng Tử đã nắm được tính chất và
công dụng của âm nhạc. Theo ông "Âm chi sở do sanh dã kỳ bổn tại nhân tâm"
(Âm nhạc từ lòng người mà ra. Khi lòng buồn, vui, giận, kính, thương, thì tiếng
nhạc tùy nơi lòng mà thành tâm) "Tình động ư trung, cố hình ư thanh". Theo
Khổng Tử, âm nhạc cốt đem đến cái Hòa "nhạc dĩ hòa ký thanh" cũng có tính
chất Trung Dung nên ngài mới nói tiếng nhạc tốt phải "Ai nhi bất thương, lạc di
bất dâm" (Buồn mà không làm cho quá bi lụy. Vui mà không đến sỗ sàng thất
lễ). Bàn về nhạc, Khổng Tử thường nhắc đến chữ Hòa, "Nhạc giả thiên địa chi
hòa dã" (Âm nhạc là sự hòa hợp giữa trời đất); "Lễ tiết nhân tâm, nhạc hòa dân
tâm" (Lễ làm cho lòng dân có trật tự. Nhạc làm cho lòng dân có hòa khí. Theo
ngài, âm nhạc có thể thay đổi phong tục, có ẩn nghĩa là từ cái xấu chuyển thành
cái tốt: "Nhạc khả dĩ di phong dịch tục; Nhạc giả dã: Thánh nhân chi lạc dã,
khả dĩ thiện dân" (Nhạc là niềm vui của thánh nhân và có thể khiến cho dân hiền
lành hơn). Nhạc phải là tinh hoa của đạo đức "Đức giả tánh chi đoan dã. Nhạc
giả đức chi hoa dã". Một công dụng nữa của âm nhạc: âm nhạc phản ảnh xã hội
và là một yếu tố quan trọng trong việc trị dân. Xã hội có trật tự, tiếng nhạc vui
vẻ, ôn hòa. Xã hội vô trật tự tiếng nhạc phẫn nộ và oán hờn. Khổng Tử kết luận,
ai biết được bí quyết của âm nhạc tức là biết cái bí quyết làm dao động lòng
người tức là biết bí quyết dẫn dắt con người. Ai biết được bí quyết dẫn dắt con
người là biết được bí quyết cai trị con người. Nhạc là bí quyết tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Thấu đạt tính chất và công dụng của âm nhạc, nên Khổng

Tử rất quan tâm đến việc giáo dục âm nhạc. Từ cấp tiểu học cho đến trường lớn,
Lễ, Nhạc là hai môn rất quan trọng.
Như vậy ngoài công dụng giáo dục, âm nhạc cũng còn là một lợi khí
chính trị. Âm nhạc có khả năng rèn luyện tư tưởng và thức tỉnh nhanh chóng
quần chúng hăng say chiến đấu cho một lý tưởng. Một chủ trương một chế độ,
quyết sả thân để giành lấy toàn thắng. Âm nhạc tượng trưng cho chí khí, cho
tinh thần một dân tộc. Bài quốc ca, quốc thiều của mỗi nước, biểu thị "hồn
nước" hay ít ra nhắc nhở một giai đoạn, một biến cố lịch sử quan trọng của quốc
gia. Như bài "Marseillaise" của Pháp ra đời cuối thể kỷ 18; bài "Tiến quân ca"
của Việt Nam, ra đời năm 1944; bài "Quốc tế ca" mà tác giả của nó là Ơ-gien
Pôchiê "một trong những người tuyên truyền bài hát vĩ đại nhất".
Những bài ca, điệu nhạc của một giai đoạn lịch sử, được nhiều người biết
đến thường gắn liền với một giai đoạn với cảm xúc, xu hướng đặc thù. Như ở
Việt Nam các bài ca trong hai cuộc kháng chiến cứu nước và bây giờ, xây dựng
đất nước.
Lịch sử cho hay rằng trong quá trình phát triển âm nhạc, tôn giáo cũng
góp phần đáng kể, nhưng trước âm nhạc đã được sử dụng trong tôn giáo, qua các
------------------------------------------------------------ 12
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

ghi lễ của tôn giáo. Chính Đức Pi-ô XII quả quyết: "Không ai ngạc nhiên khi
thấy nghệ thuật âm nhạc nổi bật trong những tài liệu cổ xưa và hiện đại, luôn
được sử dụng khắp nơi, để tăng thêm vẻ huy hoàng mỹ lệ cho các nghi lễ, kể cả
lễ nghi tôn giáo. Ngay cả các dân tộc ngoài Công giáo… từ đầu người ta đã sử

dụng nghệ thuật đó". Vì vậy, không có tôn giáo nào không sử dụng âm nhạc
trong các lễ nghi tế tự.
Theo giáo sư Trần Văn Khê, ngay tại Việt Nam âm nhạc cũng là yếu tố
không thể thiếu trong nghi lễ Phật Giáo và Cao Đài giáo. Ngoài nghi lễ Phật
giáo còn có những ca khúc vang lên dưới các mái chùa, với dòng nhạc từ bi,
nhằm dần dần hình thành nền tảng âm nhạc Phật giáo đầy tính nhân bản, có ý
nghĩa giáo dục và đạo đức nhân sinh. Martin Luther đã đưa vào Phụng vụ Tin
Lành những bài Choral và coi là một thành phần cốt yếu.
Những chuyên mục phát trên truyền hình mà tác giả bài nghiên cứu trên
trích dẫn hiện nay có thể đã không còn phát nữa, nhưng thay vào đó là các
chuyên mục khác như “Trò chơi âm nhạc”, “Đêm Sài gòn”, “Sao Online”, “Đêm
của sao”, “Dành cho người hâm mộ”, “Bài hát Việt”, “Sao mai điểm hẹn”, “Nốt
nhạc xanh”, “Nốt nhạc vui”… tất cả đều có mục đích mang lại sự hiểu biết về
âm nhạc cũng như sự thưởng thức âm nhạc đến với khán thính giả.
Tất cả những dẫn luận trên nhằm để khẳng định vai trò quan trọng không
thể thiếu của âm nhạc trong đời sống. Trong thời kỳ hội nhập, tầm quan trọng
của âm nhạc lại càng được khẳng định rõ ràng hơn. Dưới đây là trích dẫn một số
vai trò của âm nhạc trong đời thường của chúng ta:
- Âm nhạc là nhựa sống cho các buổi lễ giao lưu văn hóa cũng như lễ kỷ niệm
mang tầm quốc gia…
- Học ngoại ngữ bằng cách nghe nhạc là phương pháp học nhanh và hiệu quả.
- Âm nhạc là gia vị làm cho nghệ thuật điện ảnh thêm phần mặn mà và sống
động. Đến nay, nhạc phim là yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ bộ phim nào
- Âm nhạc bác học, đặc biệt là những bản giao hưởng ngắn mang âm hưởng nhẹ
nhàng thuần túy có thể làm phát triển trí não trẻ em. Hai nhạc sĩ thiên tài viết
nhạc này phải kể đến là Mozart và Vivaldi.
- Các bà mẹ mang thai có thể đeo phone vào hai bên bụng để thai nhi có thể
nghe nhạc. Anh hưởng của âm nhạc đối với thai nhi là điều cần thiết trong quá
trình hình thành ngôn ngữ lưu trữ trong não bộ.
Theo LifeBeforeBirth, tiến sĩ y khoa Michel Odent nói về vai trò của âm

thanh đối với thai nhi như sau: Trong quá khứ, tất cả phụ nữ trên thế giới đều
hát ru cho con mình. Điều này thực sự quan trọng khi mà chúng ta đều biết
rằng thai nhi bắt đầu hình thành thứ ngôn ngữ đầu tiên của mình khi còn trong
bụng mẹ. Những biến tố trong tiếng mẹ đẻ được truyền tải thông qua lời nói và
và đặc biệt là các bài hát. Giọng hát bao giờ cũng dải tần số rộng hơn giọng
nói. Trên thực tế, những nghiên cứu ở các bộ môn khác như ngôn ngữ học và âm
nhạc đã chỉ ra rằng có những lúc nói lại trở thành hát và như vậy, trong nói và
------------------------------------------------------------ 13
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

hát thì hát có trước. Những đứa trẻ có mẹ bị điếc sẽ không bao giờ có được
những bài học quan trọng này trong quá trình phát triển ngôn ngữ của mình.
Tiến sĩ Alfred Tomatis là người Pháp đầu tiên đi tiên phong trong việc nói rằng
ông rất thích thú khi biết đối với loài chim biết hót, nếu trong quá trình ấp trứng,
chim mẹ không hót thì chim con sau này sẽ không biết hót. Những gì đứa trẻ
học được khi còn trong bụng mẹ là các mẫu âm điệu và tần số của ngôn ngữ
mình. Tần số là cao độ âm thanh tính theo Hertz (Hz), từ 16- 20, 000 Hz. Đối
với một đứa trẻ khi còn trong bụng mẹ thì giọng nói của mẹ mình bao giờ cũng
chính xác và dễ nghe hơn so với giọng nói của những người khác, đặc biệt là
những giọng nói có tần số, cao hơn. Theo ông Rubel (1984), thai nhi sẽ có phản
ứng với âm thanh có tần số thấp trước, sau đó mới đến âm thanh có tần số cao
hơn. Verny cùng rất nhiều người khác nhận thấy rằng trẻ em thường yêu thích
những câu chuyện, giai điệu hay bài thơ mà chúng được nghe khi còn trong
bụng mẹ. Khi người mẹ đọc to lên, đứa trẻ sẽ tiếp nhận âm thanh thông qua tính

dẫn thanh của xương. Tiến sĩ Henry Truby, Giáo sư danh dự về Trẻ em và Ngôn
ngữ của Đại học Miami, chỉ ra rằng sau tháng thứ 6, thai nhi bắt đầu cử động
theo nhịp điệu khi nói của người mẹ và quang phổ ghi nhận tiếng khóc đầu tiên
của đứa trẻ đẻ non khi mới 28 tuần tuổi cũng phù hợp với giọng nói của người
mẹ. Những yếu tố của âm nhạc như cao độ, âm sắc, cường độ và nhịp điệu cũng
chính là những yếu tố được dùng khi nói. Chính vì thế, âm nhạc sẽ giúp chuẩn bị
cho tai, cơ thể và bộ não khả năng nghe, tổng hợp và phát âm. Có thể coi âm
nhạc như một thứ tiền ngôn ngữ nuôi dưỡng và kích thích đến toàn bộ con
người, có ảnh hưởng đến cơ thể, cảm xúc, trí tuệ và phát triển khả năng thưởng
thức vẻ đẹp từ bên trong, xác nhận và đánh thức những phẩm chất không thể
diễn tả bằng lời được của chúng ta.
- Âm nhạc hiện đại được sử dụng làm phương tiện quảng bá hình ảnh của tổ
chức, tập đoàn, công ty… nhất là việc sử dụng âm nhạc trong quảng cáo.
- Âm nhạc được sử dụng làm phương tiện giáo dục truyền thông (ví dụ ở nước ta
có những bài hát mang tính giáo dục như “Hãy phân loại rác”, “Thế là người
Việt Nam”, “Tôi yêu Việt Nam”…
- Nhạc viết về cha mẹ, quê hương, tổ quốc, tất cả đều mang tính giáo dục con
người biết yêu quí quê hương, biết giữ gìn tổ quốc, phải sống hiếu thuận với cha
mẹ…
- Âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách, đặc biệt là
việc nâng cao nhận thức về các mối quan hệ xã hội, quan hệ huyết thống và luân
lý đạo đức đời thường. Âm nhạc là nguồn cảm hứng nội tâm, có khả năng tạo ra
sự sung mãn về tâm hồn, nâng cao ý chí nghị lực trong cuộc sống. Điều đáng nói
là âm nhạc tạo nên những cung bậc tình cảm rất tinh tế, thuần hóa tâm thức, đưa
con người về với nhân cách vốn có của mình. Nói về vai trò này của âm nhạc,
một bài viết được đăng trên như sau: “Nghệ thuật
âm nhạc ngoài khả năng đem lại niềm vui, sự sảng khoái và nguồn nghị lực cho
------------------------------------------------------------ 14
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN


GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

con người trong cuộc sống còn có tác dụng thức tỉnh tình cảm của họ qua
những cung bậc hết sức tinh tế. Sức mạnh cảm hoá của âm nhạc tiến bộ, lành
mạnh sẽ giúp con người vươn tới một nhân cách toàn vẹn”.
Như chúng ta đều biết, nhân cách là một thực thể phức tạp, đồng thời
cũng là một thực thể thống nhất biện chứng về sinh lý, tâm lý và xã hội của con
người. Ở những nhân cách phát triển toàn diện, ý thức tình cảm và hành vi của
họ thống nhất biện chứng và tác động tương hỗ lẫn nhau. Phát triển nhân cách
con người là quá trình tác động toàn diện lên các mặt trên bằng các phương tiện
khác nhau, trong đó âm nhạc là một trong những phương tiện hết sức quan
trọng. Ngay thời cổ đại, ở Trung Quốc, Khổng Tử đã cho rằng âm nhạc có tác
dụng làm thay đổi đạo đức và tập quán xã hội. Tuân Tử, trong cuốn Luận về âm
nhạc, có viết: “Âm nhạc nhập vào lòng người rất sâu, cảm hoá người rất nhanh.
Nhạc mà bình thì dân hoà không bị dục vọng lôi cuốn. Nhạc nghiêm trang thì
dân tề nhất mà không loạn. Trái lại, nhạc mà bất nghiêm và hiểm hóc thì dân sa
đà, bi tiện”. Như vậy, bản chất của âm nhạc và nghệ thuật nói chung là cái đẹp
và cái thiện. Trong thời đại của chúng ta hiện nay và lịch sử tương lai của nhân
loại cũng đều như vậy.
1.2.2. Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu kỹ thuật máy tính của Mỹ
vào năm 1993 : “Con người lưu lại trong bộ nhớ được 20% những gì họ thấy và
30% những gì họ nghe. Nhưng họ nhớ 50% những gì họ thấy và nghe; và con số
này lên đến 80% nếu họ thấy và nghe sự vật, hiện tượng một cách đồng thời.”.
Còn theo số liệu khoa học mà UNESCO công bố thì khi nghe, học sinh chỉ nhớ
15% thông tin (nhiều kiến thức lại không phải là kiến thức cơ bản, chủ yếu); khi
nhìn, các em nhớ 25% thông tin và việc nghe nhìn đem lại kết quả cao hơn :

65% thông tin. Dù là theo số liệu nào, trong quá trình giảng dạy thực tế ở trường
phổ thông chúng ta có thể thấy việc dạy học lịch sử chỉ với những phương tiện
truyền thống như bảng đen, lời nói của thầy cô giáo và một ít phương tiện dạy
học mang tính tĩnh (bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ) chắc chắn hiệu quả sẽ không cao,
mức độ ghi nhớ của học sinh sẽ thấp và chóng quên. Trong khi đó nếu học sinh
được xem các đoạn phim tư liệu, hình ảnh động, sơ đồ động (được thiết kế
theo logic sự kiện), tranh ảnh với màu sắc sinh động kết hợp với lời nói của
giáo viên thì khả năng ghi nhớ của các em sẽ tăng lên. Không những thế, nếu
làm được điều này chúng ta sẽ tạo ra được một bầu không khí học tập sinh động,
khơi gợi hứng thú học tập cho các em đồng thời khắc sâu những kiến thức mà
các em tiếp thu được. Rõ ràng, việc kết hợp cùng một lúc hai hay nhiều phương
tiện truyền thông sẽ giúp cho nguời học tiếp thu thông tin nhanh, chính xác và
nhớ lâu hơn.
1.2.3. Qua việc tìm hiểu thông tin từ nhiều hình thức khác nhau như: tham
khảo sách báo, các đề tài nghiên cứu, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp và qua
thực tế giảng dạy, tôi có một số nhận định về việc ứng dụng CNTT để sưu tầm
------------------------------------------------------------ 15
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

và sử dụng hiệu quả các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc ở trường
THCS như sau:
- Nhiều GV vẫn chưa biết cách sưu tầm các đoạn phim tư liệu.
- Các đoạn phim tư liệu còn thiếu và chưa đa dạng.
- Việc sử dụng các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc chưa thực sự

hiệu quả.
Trên cơ sở những quan sát cá nhân, tôi đã mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm
của mình trong việc ứng dụng CNTT để sưu tầm và sử dụng hiệu quả các đoạn
phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc vào quá trình dạy học trong đề tài này.

------------------------------------------------------------ 16
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

CHƯƠNG 2
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM
VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU
TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC
2.1. Ứng dụng CNTT để sưu tầm các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc
Hiện nay, nguồn tư liệu trên Internet ngày càng phong phú. Đối với việc
dạy – học bộ môn Âm nhạc, Internet là nguồn tài liệu vô tận cho bài học Âm
nhạc. Tư liệu Internet cung cấp tồn tại ở nhiều dạng khác nhau (văn bản, hình
ảnh, âm thanh, phim tư liệu…) là công cụ rất hữu hiệu và một kho thông tin vô
tận có thể sử dụng trong dạy học Âm nhạc. Khi ứng dụng CNTT để khai thác
thông tin lịch sử từ Internet chúng ta cần lưu ý các điểm sau :
- Lựa chọn tài liệu nói chung, phim tư liệu âm nhạc nói riêng phải đảm
bảo tính khoa học, tính tư tưởng, tính nghệ thuật; tính tư tưởng và tính khoa học
và tính nghệ thuật phải thống nhất với nhau. Tài liệu trên mạng rất đa dạng và
phong phú. Cần có sự chọn lọc kỹ lưỡng.
- Do khối lượng thông tin trên mạng Internet rất lớn, nên việc khai thác,

sưu tầm tư liệu nói chung, phim tư liệu âm nhạc nói riêng phải hướng tới nội
dung cơ bản nhất, điển hình nhất, bản chất nhất, theo mục đích toàn diện của
chương trình.
- Cách sưu tầm :
+ Căn cứ vào mục tiêu bài học, nội dung bài học, giáo viên xác
định những thiết bị, tài liệu cần cho bài giảng.
+ Tiến hành tìm kiếm, sưu tầm các tài liệu cần thiết cho bài học
(trong đó có các đoạn phim tư liệu lịch sử) : Để thực hiện được
bước này giáo viên có thể sử dụng các công cụ tìm kiếm được sử
dụng phổ biến trên Internet như : GOOGLE, BING, WOLFRAM
ALPHA, YAHOO, BAIDU …
Ngoài ra, giáo viên có thể tìm kiếm các đoạn phim tư liệu
lịch sử trong các trang web chia sẻ phim như : Youtube, Myspace
TV, Break ...
+ Sau khi đã tìm được đoạn phim tư liệu phù hợp, chúng ta tiến
hành tải về máy (download). Để công việc download được nhanh
------------------------------------------------------------ 17
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

chóng, có thể sử dụng các phần mềm hay trang wed hỗ trợ
download video miễn phí như : Keepvid, FlashGet, Free
Download Manager, Download Accelerator, Plus, Orbit
Downloader, Gigaget, Wackget...
+ Xử lí các đoạn phim tư liệu : Trong quá trình sưu tầm, có nhiều

đoạn phim sẽ chưa thật sự ưng ý. Để khắc phục, giáo viên có thể
tiến hành các thao tác như đổi đuôi (conveter) (Để có thể khả dụng
trong phần mềm Power Point); cắt phim, ghép phim, lồng tiếng cho
phim... với sự hỗ trợ của các phần mềm chuyên dụng.
Ví dụ : Khi dạy Tiết 24 Âm nhạc 6, phần Âm nhạc thường thức : Giới
thiệu nhạc sĩ Mô-da giáo viên có thể sưu tầm để đưa đoạn phim tư liệu về cuộc
đời và sự nghiệp Mô-da vào bài học.
Bước 1 : GV vào trang www.youtube.com
Bước 2 : Tại ô SEARCH (tìm kiếm), GV nhập từ khóa : W.A. Mozart
Sau đó nhấn phím OK (Enter)
Bước 3 : Trong rất nhiều các kết quả tìm kiếm, dựa vào nội dung các
đoạn phim, chúng tôi đã lựa chọn đoạn phim tư liệu với tựa đề W.A.
Mozart (1756 - 1791).
Bước 4 : Download phim : sử dụng phần mềm Free Download Manager
để tải hai đoạn phim về máy tính.
Bước 5 : Xử lí phim : đổi đuôi để khả dụng trong Power Point, đổi tên
phim...
Bước 6 : Lưu giữ các đoạn phim vào file PHIM TƯ LIỆU
Bước 7 : Biên dịch : Đoạn phim có xuất xứ nước ngoài, để có thể kiểm
chứng tính khoa học, tính tư tưởng của hai đoạn phim, dựa vào phần phụ
đề tiếng Anh sẵn có trong đoạn, chúng tôi biên dịch sang tiếng Việt, xác
định nội dung của đoạn phim...
- Có thể lưu giữ các đoạn phim tư liệu lịch sử trong các file như Phim tư
liệu Âm nhạc trong ổ cứng máy tính hay ghi ra đĩa CD để tiện cho việc lấy
thông tin khi cần thiết.
- Điều kiện cần thiết để truy cập Internet là ngoại ngữ. Hiện nay, thông tin
viết bằng tiếng Việt đang phát triển với tốc độ nhanh chóng nhưng nguồn thông
tin lớn nhất trên mạng Internet là tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Trung
Quốc… Nếu không có ngoại ngữ, chúng ta sẽ hạn chế rất nhiều. Đây là một yêu
cầu cần thiết nhưng cũng là hạn chế rất lớn của phần lớn giáo viên hiện nay.

- Ngoài Internet, có thể sưu tầm các đoạn phim tư liệu âm nhạc trong các
CD ROM Âm nhạc.
2.2. Ứng dụng CNTT để tích hợp chức năng nghe – nhìn, sử dụng hiệu quả
các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc
2.2.1. Cách sử dụng hiệu quả các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc
------------------------------------------------------------ 18
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

Ngày nay nhờ vào CNTT, giáo viên có thể dễ dàng giúp người học đi từ
“trực quan sinh động” đến “tư duy trừu tượng”, hiểu đúng bản chất của sự kiện,
hiện tượng lịch sử, từ đó có tư tưởng, tình cảm đúng đắn và phát triển toàn diện.
CNTT có tác dụng tích cực góp phần đáng yêu vào đổi mới PPDHÂN hiện nay.
Sự phát triển của CNTT hiện nay không những cho phép ta truy cập, lấy
tư liệu mà còn giúp chúng ta tích hợp được các chức năng nghe – nhìn, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học lịch sử. Có thể sử dụng phần mềm Power
Point để thiết kế các slide minh họa bài học trong đó có chứa các tranh ảnh,
phim tư liệu… hấp dẫn, cung cấp được kiến thức một cách cụ thể, rõ ràng mà
giáo viên không cần phải thuyết trình.
Có thể đưa các đoạn phim tư liệu vào Power Point như sau :
Ngày nay, khi màn hình máy tính có độ phân giải từ 1.280x1.024 hoặc
cao hơn nữa, nếu giữ nguyên kích thước hiển thị video như cũ chẳng khác gì
một con tem nhỏ dán trên một phong bì lớn. Nếu chúng ta muốn đưa video vào
Powerpoint và trình bày trên máy tính, cần để độ phân giải của video là
720x480.

Trước đây, công nghệ nén MPEG-2 vẫn được dùng cho video màn hình
lớn. Các công nghệ mới sau này như Windows Media Video (WMV) và
RealVideo cũng cho ra sản phẩm có chất lượng rất tốt. Chúng ta có thể lựa chọn
một trong hai chuẩn này. Chuẩn WMV có khả năng phát lại hình ảnh ít bị giật
hơn, nhất là ở máy tính có cấu hình thấp. Khi sử dụng chuẩn này sẽ có nhiều lựa
chọn hơn khi "nhúng" video vào bài giảng.
Sau khi chọn xong định dạng video, chúng ta cần phải sửa đổi video để
hình ảnh hiển thị được đẹp. Để có định dạng WMV, chúng ta dùng Windows
Media Encoder để thực hiện. Nhằm tránh không bị méo hình, cần chọn chế độ
xuất video ở độ phân giải 640x480. Sau đó, chuyển đổi video cho phù hợp với
công nghệ hiển thị. Nếu không chuyển sang định dạng progressive, trên màn
hình sẽ xuất hiện những vết sọc ngang.
Sau khi mã hóa video xong, chúng ta có thể đặt các đoạn đánh dấu vào
video để trong quá trình dạy học, giáo viên có thể chuyển đổi nhanh chóng giữa
các đoạn. Điều này được thực hiện nhờ phần mềm Windows Media Encoder
File Editor.
Trong Power Point có ba cách để chèn một đoạn video vào. Cách đầu tiên
là dùng lệnh Insert Movies and Sound. Cách thứ hai là dùng lệnh Insert Object
và chọn Windows Media Player. Bạn chọn OK, rồi bấm phím phải chuột vào
Media Player, rồi chọn tiếp Properties. Ở đó, chúng ta chọn Custom để chọn tập
tin cần chèn. Cách này cho phép thay đổi nhiều tính năng hơn như kiểm soát âm
lượng, thanh trượt...
Cả hai cách trên đều không dùng được với RealVideo hay Quick Time.
Do vậy, cần phải chèn một nút lệnh trong trình đơn Slide Show. Điều này cho
------------------------------------------------------------ 19
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

phép chạy bất kỳ ứng dụng nào trong Power Point. Chỉ việc kích vào nút lệnh
này, máy sẽ tự động chạy các ứng dụng video.
Sau khi đã đưa các đoạn phim tư liệu vào bài giảng điện tử. Giáo viên sẽ
hướng dẫn học sinh quan sát để rút ra nội dung, ý nghĩa…
Để sử dụng thật hiệu quả các đoạn phim tư liệu trong dạy học Âm nhạc,
giáo viên cần lưu ý một số điểm sau đây :
- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu của bài học để lựa chọn những đoạn
phim tư liệu thích hợp.
- Định rõ phương pháp thích hợp đối với mỗi đoạn phim tư liệu
- Phát huy tính tích cực của HS khi sử dụng các đoạn phim tư liệu, không
chỉ cụ thể hóa kiến thức mà cần đi sâu phân tích để tiếp thị kiến thức, hiểu sâu
sắc, làm bài kiểm tra.
- Đảm bảo kết hợp với việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng thời rèn
khả năng thực hành của học sinh khi sưu tầm các đoạn phim tư liệu…
- Kết hợp chặt chẽ các tài liệu viết, lời nói khi sử dụng các đoạn phim tư
liệu.
- Tránh việc lạm dụng việc sử dụng CNTT vào dạy học, biến giờ dạy học
thành giờ chiếu phim.
2.2.2. Vận dụng vào một bài dạy cụ thể : Tiết 24 (Âm nhạc 6)

TIẾT 24
- Ôn tập bài hát: “Ngày đầu tiên đi học”
- Ôn tập Tập đọc nhạc: TĐN số7
- Âm nhạc thường thức: Giới thiệu nhạc sĩ Mô-da
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Học sinh tiếp tục được ôn thêm về bài “Ngày đầu tiên đi học”, hát thể hiện rõ
tình cảm, sắc thái của bài hát kết hợp với phần biểu diễn.

- Học sinh hát kết hợp gõ nhịp chính xác bài TĐN số 7.
- Học sinh có những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp về nhạc sĩ thiên tài
Mô-da, học sinh được nghe và cảm nhận những bản nhạc nổi tiếng của Môda.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN
- Đàn và hát thuần thục bài hát “Ngày đầu tiên đi học”
- Đánh đàn, đọc nhạc và hát lời thuần thục bài "Chơi đu"
------------------------------------------------------------ 20
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

- Tranh ảnh và tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Mô-da.
- Đĩa nhạc những đoạn trích các tác phẩm âm nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ
Mô-da.
III. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY :
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số: (2 phút)
2. Nội dung bài mới:

------------------------------------------------------------ 21
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”


NỘI DUNG

HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN

HOẠT ĐỘNG CỦA HS

I. Ôn tập Tập - Hướng dẫn học sinh đọc gam Đô - HS ghi bài
đọc nhạc:TĐN số trưởng liền bậc và gam rải.
7
1.

Giáo

viên

hướng dẫn

&=R=S=T=

- HS luyện cao độ

U=V=W=X
=Y=

2. GV điều khiển

&=b==d==f=
=i==i==f==d
==b==!


- HS đọc
- HS thực hiện
- HS đọc

- Cả lớp đọc nhạc và hát lời.
- Hướng dẫn học sinh đọc nhạc kết hợp
3. Thử tai nghe gõ nhịp và gõ tiết tấu.
âm nhạc

- HS tham gia nghe

- GV gọi học sinh lên đọc bài tập đọc và điền nốt.
nhạc (2-3 học sinh).
- Học sinh đọc tốt giáo viên đánh giá
và cho điểm.

II. Ôn tập bài -Giáo viên thử tai nghe âm nhạc của
hát:

Ngày

tiên đi học.

đầu học sinh. Giáo viên đàn giai điệu 4 câu - HS ghi bài
trong bài TĐN và trong mỗi câu giáo

------------------------------------------------------------ 22
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN


GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

1. Luyện tập cao viên đàn giai điệu sai về cao độ hoặc - HS luyện tập cao độ
độ

trường độ của 1 tới 2 nốt nhạc. Sau đó
yêu cầu các em sửa các nốt nhạc sao - HS hát

2. Học sinh hát

cho đúng.
- Giáo viên ghi bảng

&=2=F==E==D==
C=!==R==T==!
3. Các nhóm biểu

==V==T==!
==b=!

diễn

- HS hát kết hợp biểu
- Giáo

diễn.


viên bắt nhịp cho học hát toàn bài.
- Giáo viên nhận xét và sửa những chỗ
- HS nghe

học sinh hát sai.
- Sau khi nhận xét giáo viên bắt nhịp

- HS trả lời

hát lại lần 2.
- Mời các nhóm thể hiện bài hát kết
III.

Âm

nhạc hợp với các động tác biểu diễn.
thường
thức: - Giáo viên và học sinh nhận xét các - HS ghi bài
Giới thiệu nhạc sĩ nhóm.
Mô-da
1.

- Giáo viên đàn bài TĐN 4 và đặt câu

Giáo

viên hỏi.
hướng dẫn học ? Ai là tác giả của bài TĐN này ?


- HS thảo luận nhóm

sinh thảo luận - Bài TĐN số 4 của Nhạc sĩ Mô-da
nhóm.
- Giáo viên ghi bảng
- HS nghe và cảm
2. Giáo viên cho
------------------------------------------------------------ 23
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

nhận

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

nghe

1

chuyện .

câu
- Cô đã phân công cho các nhóm tìm
hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của nhạc
sĩ Mô-da. Sau đây xin mời các nhóm
lên trình bày phần tìm hiểu của nhóm
mình.


- HS trả lời

- Để có thể những hiểu rõ hơn về
3.

Giáo

thuyết trình.

viên cuộc đời và tài năng của thiên tài Âm - HS nghe và cảm
nhạc Mô-da mời các em cùng xem nhận
những hình ảnh dựng lại theo cuộc
đời ông. Các em hãy chú ý lắng nghe
để trả lời các câu hỏi của cô.
? Theo em tài năng âm nhạc tuyệt
vời của Mô-da có được là do đâu?
- Tài năng âm nhạc xuất chúng của
Mô-da là sự tổng hợp của nhiều yếu tố
nhưng không thể thiếu 3 yếu tố.
* Năng khiếu bẩm sinh của Mô-da,
*Truyền thống âm nhạc của gia đình
* Lòng say mê và kiên trì luyện tập.
- Nhờ lòng say mê và kiên trì luyện tập
mà nhạc sĩ Mô-da đã có một tài năng

4. Giáo viên cho âm nhạc kiệt xuất. Ngoài việc nghiên - HS nghe và cảm
nghe đoạn trích cứu âm nhạc, Mô-da còn học lịch sử, nhận
các tác phẩm âm địa lí, số học và ngoại ngữ rất giỏi. Đây
nhạc.


chính là điều cần thiết đối với mỗi học - HS nghe.
sinh. Cô mong muốn các em hãy luôn

------------------------------------------------------------ 24
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM : “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ SƯU TẦM VÀ SỬ DỤNG
HIỆU QUẢ CÁC ĐOẠN PHIM TƯ LIỆU TRONG DẠY HỌC ÂM NHẠC”

kiên trì, say mê đạt được thành tích cao
trong học tập.
- Giáo viên cho học sinh xem đoạn - HS nghe và cảm
phim nhạc sĩ Mô-da chơi 2 nhạc cụ Pi- nhận
5. Giáo viên hát

a-nô và Vi-ô-lông.
- Mô-da sáng tác rất nhiều tác phẩm âm
nhạc ở các thể loại khó và phức tạp
nhất như: các bản Xô-nát, giao hưởng,
các vở nhạc kịch ...
- Giáo viên cho học sinh nghe trích
đoạn bản xô-nát giọng Cdur.

- HS nghe và cảm

- Giáo viên cho học sinh xem trích nhận

đoạn vở nhạc kịch "Đám cưới Figaro."
- Giáo viên cho học sinh nghe trích 1
bản giao hưởng số 40.
- Giáo viên cho nghe bản nhạc viết cho
đàn Piano "Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ"
- Giáo viên hát ca khúc "Khát vọng
mùa xuân"
- Cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng những
gì Mô-da để lại thì sống mãi theo thời
gian trong lòng người yêu nhạc.

3. Củng cố, dặn dò
- Em hãy đọc và tìm hiểu về nhạc sĩ Mô-da.
- Học thuộc bài hát Ngày đầu tiên đi học
- Tập đọc chính xác bài TĐN số 7.
------------------------------------------------------------ 25
-----------------------------------------------------------TRƯỜNG THCS QUẢNG AN

GIÁO VIÊN : VŨ THỊ THÚY HẰNG


×