Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Thanh niên lậpnghiệp, tuổi trẻ giữ nước Thanh niên tình nguyện, tuổi trẻ sáng tạo 5 xungkích, 4 đồng hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.93 KB, 48 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, chủ nhân tương lai của đất nước, lực
lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh cả dân tộc, quyết định sự thành bại
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đề cao vị trí, vai trò
của thanh niên, xác định công tác thanh niên, công tác giáo dục đạo đức, lối
sống văn hóa cho thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc.
Những năm qua, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan trọng
có tính quyết định, làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình thanh niên, công tác
Đoàn và phong trào như: Nghị quyết lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VII); Nghị quyết lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa X)… Nhà nước đã ban hành luật Thanh niên, chiến lược phát triển Thanh
niên và nhiều chính sách về công tác thanh niên, tạo điều kiện, cơ hội cho thanh
niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên được triển khai
và thực hiện đồng bộ dưới nhiều hình thức và thông qua các đoàn thể mà nòng
cốt là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội liên iệp thanh niên Việt Nam, Hội sinh
viên Việt Nam … thông qua các nhóm không chính thức như (câu lạc bộ sở
thích, câu lạc bộ văn hóa, thể thao…). Thông qua việc nêu gương đạo đức, cách
điển hình tiên tiến, các hệ thống phương tiện thông tin đại chúng, các chương
trình hành động, các phong trào cách mạng của tuổi trẻ như: “Thanh niên lập
nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện, tuổi trẻ sáng tạo”, “5 xung
kích, 4 đồng hành”…
Qua đó, công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên từng
bước phát triển. Một trong những thành tựu ở công cuộc đổi mới đất nước là đã
xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, nhân cách, tri thức,
1



sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo, có ý chí vươn lên tronghocj
tập, lao động và lập thân lập nghiệp, làm giàu chính đáng, quyết tâm đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu…
Tuy nhiên, công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên ở
một số địa phương, tỉnh thành chưa được các cấp ủy Đảng quan tâm đúng mức,
ở Xín Mần thành phố Hà Giang công tác này có khi chưa được tiến hành thường
xuyên, liên tục, vẫn còn những hạn chế cần giải quyết như: Công tác giáo dục
đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên chưa được đổi mới về nội dung và
hình thức. Khả năng chi phối và ảnh hưởng của Đoàn, Hội thanh niên chưa sâu
rộng. Tính tiên phong, gương mẫu về đạo đức của đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội
chưa cao. Cho nên vẫn còn nhiều thanh niên không tham gia vào tổ chức Đoàn,
thiếu bản lĩnh chính trị, có lối sống thực dụng, dễ bị kích động, lôi kéo vào các
hoạt động trái pháp luật, các tệ nạn xã hội, ngại khó khăn gian khổ, thiếu ý thức
trách nhiệm với gia đình và xã hội, chưa thấy hết được vai trò của mình đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do tổ chức Đoàn cơ sở chưa đổi mới nội
dung và phương thức trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho
thanh niên. Đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở trực tiếp thực hiện công tác này còn
thiếu về số lượng, yếu về trình độ. Mặt khác, các thế lực thù địch đang thực hiện
âm mưu “Diễn biến hóa bình”, chúng sử dụng các loại văn hóa phẩm đồi trụy,
phản động để đầu độc thế hệ thanh niên nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của
dân tộc ta.
Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống
văn hóa cho thanh niên tại địa phương, cơ sở với mong muốn tìm ra những giải
pháp nhằm khắc phục hạn chế, tồn tại của Đoàn thanh niên thành phố Hà Giang.
Tôi quyết định chọn đề tài: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Xín Mần, thành
phố Hà Giang với công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh
niên” làm tiểu luận tốt nghiệp chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính và nghệp vụ Đoàn - Hội - Đội tại Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam.

2


2. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
• Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng công tác giáo dục đạo đức,
lối sống văn hóa cho thanh niên ở địa bàn Xí Mần - thành phố Hà
Giang.
• Đề xuất những giải pháp, kiến nghị giúp Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Xín Mần - Thành phố Hà Giang làm tốt công tác giáo dục đạo đức,
lối sống văn hóa cho thanh niên trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
• Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác giáo dục đạo đức,
lối sống văn hóa cho thanh niên
• Nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa
cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Xín Mần - TP. Hà
Giang.
• Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm giúp đoàn TNCS Hồ Chí
Minh Xín Mần – TP. Hà Giang nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên
3. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh Xín Mần – TP. Hà Giang.
4. Khách thể nghiên cứu
• Các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Xín Mần – thành
phố Hà Giang.
• Cấp ủy Đảng, chính quyền, Đoàn thanh niên, cán bộ Đoàn, các tổ
chức chính trị - xã hội trên địa bàn Xín Mần – TP. Hà Giang.
5. Phạm vi nghiên cứu


3


• Không gian: Tiểu luận tập trung nghiên cứu công tác giáo dục đạo
đức, lối sống văn hóa cho thanh niên tại Xín Mần – Thành phố Hà
Giang.
• Thời gian: từ năm 2009 đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
• Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu tài liệu, sách,
báo cáo, nghị quyết của Đảng, Đoàn.
• Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, phỏng vấn, tọa
đàm, thâm nhập thực tiễn, cùng tham gia vào các hoạt động của đơn
vị, địa phương.
7. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận được
cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO THANH NIÊN.

Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VĂN HÓA
CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TẠI XÍN MẦN – TP. HÀ
GIANG.

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO THANH NIÊN
CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH XÍN MẦN - TP. HÀ GIANG.

4



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO THANH NIÊN

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người, đưa đến sự hình thành và
phát triển tâm lý, ý thức nhân cách.
Theo nghĩa rộng: Giáo dục là toàn bộ tác động gia đình, nhà trường, xã hội
bao gồm cả dạy học và các hoạt động giáo dục khác đến con người.
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục có thể xem như quá trình tác động đến tư tưởng,
đạo đức, hành vi của con người (giáo dục đạo đức, lao động, lối sống…)
1.1.2. Khái niệm đạo đức
Theo giáo trình đạo đức học:
“Đạo đức là một phương thức cơ bản điều tiết chuẩn mực hoạt động của
con người. Là một hình thái ý thức xã hội, là một dạng quan hệ xã hội, là một
dạng của quan hệ xã hội (quan hệ đạo đức), là đối tượng nghiên cứu của đạo
đức học”.
“Đạo đức là một hình thái xã hội, là toàn bộ những quan điểm, nguyên tắc,
chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau, đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng”.
1.1.3. Khái niệm lối sống
Lối sống là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động sống của
các dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong một điều kiện của một
hình thức kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống:
trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh
hoạt tinh thần và văn hóa tư tưởng (lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội và
phong tục tập quán với phát triển văn hóa, xã hội con người).


5


1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Đảng cộng sản Việt Nam
và Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức và lối sống văn hóa.
1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục đạo đức, lối
sống văn hóa
Theo Mác, giai cấp vô sản chỉ được hình thành với tư cách là một giai cấp
khi ý thức được địa vị và tương lai của mình. Những công nhân tiên tiến nhất
hoàn toàn hiểu rõ tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương lai của nhân
loại hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên. Cuối
thế kỷ XIX, trong bối cảnh của xã hội tư bảng, Mác cho rằng: cần phải thoát cho
thanh niên khỏi sự tác động có tính chất phá hoại của hệ thống hiện đại. Chính
Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn của sự sống, của dân tộc và giai cấp công
nhân là bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc. Khi nói về vai trò giáo dục thanh niên,
Mác đã nhấn mạnh: “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả
năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn”. Tư
tưởng của Mác là phải tổ chức giáo dục các tầng lớp thanh niên để họ nắm vững
những kỹ năng, kỹ sảo và quy trình sản xuất sẽ hỗ trợ cho việc phát triển toàn
diện những năng lực của tất cả thành viên toàn xã hội được xây dựng trên
nguyên lý cộng sản chủ nghĩa. Việc giáo dục đó phải làm thường xuyên và liên
tục, giáo dục ở trường lớp và giáo dục trong thực tế lao động. Ăng ghen đã nêu
rõ: “Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính hiện thực cuộc sống đã,
đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị”. Vào năm 1845, Ăng ghen
đã viết rằng: Chính thanh niên Đức đòi hỏi phải thực hiện cuộc cách mạng trong
tương lai của nước này. Nguyên tắc giáo dục thế hệ trẻ và gắn liền lý thuyết với
thực tiễn, kết hợp học với hành. Việc hình thành thế giới quan khoa học cho
thanh niên thông qua sự tham gia của họ vào cuộc đấu tranh xã hội, vào lao
động sản xuất, vào những công việc thực tế cụ thể hàng ngày. Chính Ăng ghen
là cơ sở quan trọng của giáo dục khoa học, là công cụ mạnh nhất để cải tạo xã

hội và Ăng ghen dự báo rằng: “Một xã hội tổ chức theo nguyên tắc cộng sản chủ
nghĩa sẽ làm cho những thành viên trong toàn xã hội đó có khả năng sử dụng
6


một cách toàn diện năng lực phát triển của mình”. Ăng ghen là người đầu tiên
đưa ra quan niệm như: “Đội quân xung kích quyết định của đạo quân vô sản
quốc tế”, “Đội hậu bị của Đảng” để gắn với thanh niên. Luận thuyết của Mác –
Ăng ghen cũng khẳng định rằng: Lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo cần
được tập hợp, tổ chức và giáo dục đạo đức và lối sống văn hóa bắt kịp với thời
đại, đi đúng quỹ đạo của dòng thác lịch sử đang cuộn cháy.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác – Ăng ghen trong điều kiện
lịch sử mới, Lênin coi thanh niên là: “Nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng”
Ông đã luận giải những nguyên nhân làm xuất hiện phong trào thanh niên, phát
hiện ra những đặc điểm của nó và xác định mối quan hệ, sự tác động qua lại
giữa thanh niên với Đảng cộng sản Việt Nam. Lê nin cũng sớm nhìn thấy vai trò
cách mạng to lớn không chỉ đối với thanh niên công nhân mà còn cả với thanh
niên học sinh, sinh viên thành một trào lưu chung theo tinh thần của chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác cách mạng. Lê nin cho rằng, thành công của phong trào thanh
niên chính là ở chỗ biết gắn liền nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác, tri thức
khoa học với sự tham gia trực tiếp của họ vào cuộc đấu tranh chính trị của giai
cấp vô sản. Đồng thời người cũng đã phê phán gay gắt những Đảng viên bảo
thủ, không đánh giá đúng vai trò của lực lượng trẻ trong cách mạng, coi thường
thanh niên và chế diễu sự ngây thơ, thiếu kinh nghiệm của họ. Lê nin nhấn
mạnh: Cần có thái độ khoan dung độ lượng với lớp trẻ và cần thiết phải phòng
ngừa khuynh hướng “dè dặt” của các cán bộ đảng viên cho rằng, lớp trẻ tuy đầy
nhiệt tình và sáng kiến nhưng lại chưa qua trường học cuộc đấu tranh giai cấp.
Người cho rằng đó chỉ là cái cớ khước từ việc sử dụng thanh niên. Lê nin luôn
nhắc nhở những người cộng sản: Cần phải đòi hỏi ở thanh niên nhiều hơn nữa,
cần phải phê phán có nguyên tắc những khuyết điểm của họ, cần phải giáo dục

cho họ tinh thần trách nhiệm cao và nghĩa vụ của họ đối với nghĩa vụ cách mạng
ngayt ừ thuở thiếu thời. Cuộc đấu tranh để giành giật thanh niên không chỉ diễn
ra giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, giữa các Đảng cộng sản và các thế

7


lực phản động mà còn diễn ra giữa những người cộng sản chân chính và bọn cơ
hộ chủ nghĩa trong phong trào công nhân.
Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản diễn ra xung quanh vấn đề thanh
niên trên hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau: giáo dục ai và giáo dục như thế
nào? Những phần tử cơ hội quy nhiệm vụ trên vào việc đào tạo những người có
văn hóa, xong đứng ngoài chính trị vì thế theo họ không nên thu hút “quá sớm”
thanh niên vào hoạt động chính trị. Lê nin đã vạch trần lập trường cải lương đó
của bọn cơ hội và cho rằng đó chỉ là thói đạo đức giả và chính sách ngu dân
không hơn, không kém. Người khẳng định rõ lập trường của những người cộng
sản chân chính là cần phải giáo dục cộng sản cho thế hệ trẻ nói chung và giáo
dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên nói riêng. Kết hợp việc giáo dục
ấy với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Chính vì vậy, trong bài
diễn văn tại Đại hội III của Đoàn TNCS Nga Lê nin đã chỉ rõ: Thanh niên phải
học chủ nghĩa cộng sản trong một trường học riêng của mình, trong một tổ chức
độc lập – đó là Đoàn TNCS. Lê nin viết: Chỉ khi Đoàn thanh niên cộng sản gắn
liền từng bước học tập, huấn luyện và giáo dục của mình với cuộc đấu tranh
chung của tất cả những người lao động chống lại sự bóc lột, thì lúc đó mới xứng
đáng với danh hiệu là đoàn thể của thế hệ trẻ Cộng sản chủ nghĩa. Nói chuyện
với Đoàn TNCS Lê nin yêu cầu: “Cần giáo dục thanh niên thông qua hoạt động
thực tế trong lao động sản xuất, trong học tập, công tác, chiến đấu và trong cuộc
sống sinh hoạt quần chúng”.
Những tư tưởng của Mác, Ăng ghen và Lê nin về thanh niên và công tác
giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên có thể khái quát thành năm

nội dung cơ bản:
Một là, khẳng định rõ vị trí, vai trò lớn của tầng lớp thanh niên trong xã hội
mới và chỉ ra những nhược điểm của thanh niên cũng như những vấn đề cơ hội
chủ nghĩa trong phong trào thanh niên cần được chú ý.
Hai là, đặt ra cho Đảng cộng sản cần quan tâm, chăm lo, giáo dục và đào
tạo thanh niên thông qua sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, thông qua
8


hoạt động thực tế trong lao động sản xuất, trong học tập, công tác chiến đấu và
trong cuộc sống sinh hoạt của quần chúng.
Ba là, Đoàn thanh niên cộng sản là trường học cộng sản chủ nghĩa trong
quá trình giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa và đoàn kết tập hợp thanh niên,
thực hiện lý tưởng cách mạng của Đảng cộng sản.
Bốn là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của thanh niên.
Năm là, những luận thuyết của Mác, Ăngghen và Lênin đã chỉ ra những
điều kiện và khả năng tập hợp rộng rãi quần chúng thanh niên và đội hình lớn
của chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
1.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức, lối sống văn hóa
Phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh, trong nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII)
đã khẳng định: Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào
thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng
Việt Nam có bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy
thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng thế hệ thanh niên; công tác
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng.
Tại Đại hộ lần VIII quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng XHCN, báo cáo chính trị nhấn mạnh: “Coi trọng hơn nữa
việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh ch thế hệ trẻ” và khẳng định: Chăm lo giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức hệ thống chính trị, của gia đình,
nhà trường và của toàn xã hội.
Từ trước tới nay, chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn:
- Coi việc bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ là một trọng tâm của cách mạng, là
trung tâm của việc xây dựng chiến lược con người, liên quan tới tương lai của
dân tộc, tiền đồ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của đất nước ta.

9


- Nhấn mạnh phải bồi dưỡng toàn diện cả đạo đức và tài năng cho lớp trẻ,
đặc biệt quan tâm “giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa”, “bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng”, “nuôi dưỡng hoài bão lớn” cho thanh niên, để hình thành một lớp
thanh niên ưu tú, có lập trường chính trị vững vàng, kiên định trên con đường
CNXH, tự lập, tự cường, năng động sáng tạo, làm chủ khoa học và công nghệ
mới, sống có đạo đức, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vươn lên ngang tầm thời
đại, sánh vai cùng thanh niên các nước trên thế giới (NQ TW4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận giải: “Thanh niên là người chủ tương lai
của đất nước, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh
niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai xứng đáng thì ngay hiện tại
phải rèn luyện đạo đức, lối sống văn hóa, phải ra sức rèn luyện để chuẩn bị cho
tương lai”.
Người nhận rõ vai trò của thanh niên, nhận rõ khả năng cách mạng của
thanh niên và hết lòng tin yêu họ. Người luôn đặt thanh niên trong tư cách là chủ
thể đang phát triển, đang được tiếp tục hoàn thiện. Điều đó có nghĩa rằng thanh
niên nói chung và trong mỗi cá nhân nói riêng đều có hai mặt mạnh và yếu, đều
đang tiềm ẩn những khả năng to lớn cũng như hạn chế. Ví dụ như mặt mạnh của
thanh niên là “Năng động, nhạy bén, sáng tạo…”, mặt yếu là “thích cái mới, dễ
bị xa ngã…”. Hơn thế Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải

“chăm lo dìu dắt thanh niên chưa từng trải và thiếu kinh nghiệm”.
Những đánh giá của chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho thanh niên tự tin
hơn, đồng thời yêu cầu thanh niên phải rèn luyện. Người đã nêu tư tưởng về
chiến lược “trồng người”, về đào tạo bồi dưỡng thanh niên thành lớp người có
đức, có tài để kế tục sự nghiệp cách mạng một cách trung thành và xuất sắc.
Trong bản di chúc của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đoàn viên và thanh
niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó
khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cho họ, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” và “chuyên”. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
10


Đây cũng chính là sự tổng kết lý luận mà Hồ Chí Minh rút ra từ lịch sử nhân
loại, dân tộc; từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên của Người qua
các thời kỳ cách mạng nhằm tiếp tục định hướng giáo dục rèn luyện và phát huy
mọi tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, tương lai của đất nước, của dân tộc nằm trong tay của thế hệ
thanh niên. Bởi vậy, sinh thời Người luôn coi trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng và Chính phủ đối với công tác thanh niên. Ngay sau cách mạng tháng
tám Người đã chỉ thị thành lập Bộ thanh niên rồi đến Nhà thanh niên trong
Chính phủ để chăm lo công tác thanh niên. Bác luôn nhắc nhở các bộ, ban,
ngành phải ban hành những chính sách nhằm giải quyết những lợi ích nguyện
vọng chính đáng của thanh niên, đặc biệt là tổ chức Đoàn TNCS phải phối hợp
với các tổ chức khác nhằm giáo dục thanh niên.
Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng, Nhà nước ta luôn
chăm lo, tăng cường công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống
văn hóa, ý thức công dân cho lớp thanh niên nhằm hình thành một thế hệ thanh
niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành
công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, là một trong những giải pháp quan trọng.

Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo cơ hội cho mọi thanh niên được học
tập, không ngừng nâng cao trình độ, có tri thức và kỹ năng, vươn lên ngang tầm
thanh niên các nước tiên tiến trên thế giới. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gwng đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả mục
tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản của Đảng đề ra trong nghị quyết
số 25-NQ TW5 của Ban chấp hành TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác thanh niên là cơ sở để hoàn thành các chương trình hoạt động của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ làm công tác thanh niên rằng: Cần giúp thanh
niên xây dựng cho mình lẽ sống cao đẹp. Người dạy thanh niên phải có lối sống
đạo đức, văn hóa. Trong nhiệm vụ giáo dục đạo tạo, bồi dưỡng thanh niên,
Người nhấn mạnh phải đào tạo họ thành những người “có khả năng hoạt động
11


thực tiễn, không nên đào tạo ra con người chỉ thuộc sách làm giàu”. Công cuộc
đổi mới đang diễn ra trên đất nước ta hiện nay đòi hỏi thanh niên về nhiều mặt.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cho thanh niên, phát huy vai trò của
thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội và đặc biệt là của Đoàn thanh niên. Đây là một nội dung
quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên.
1.3. Nội dung của giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên
- Tổ chức cho đoàn viên, thanh niên học tập các chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh thông qua các bài học lý luận chính trị và triển khai cuộc vận động
“Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”. Tổ chức các hoạt động giáo
dục nhằm trang bị cho thanh niên về truyền thống của Đảng, dân tộc, về lý
tưởng đạo đức, văn hóa của người thanh niên trong thời kỳ mới.
- Quán triệt đường lối và những tinh thần trong các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã triển khai chỉ đạo công tác tư tưởng văn hóa

trong hệ thống của Đoàn từ Trung ương đến địa phương và tới các đoàn viên
thanh niên. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII chỉ rõ
“Tăng cường công tác Chính trị - Tư tưởng trong toàn đoàn một cách thường
xuyên với những biện pháp có hiệu quả… Xây dựng niềm tin cách mạng, ý chí
tự lực, tự cường, tinh thần tự hào dân tộc để phấn đấu vươn lên làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, đấu tranh chống lại những biểu hiện suy đồi về đạo đức…”
- Tổ chức triển khai học tập các bài lý luận chính trị cơ bản. Gắn công tác
giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên thông qua việc tổ chức cho
thanh niên tham gia các phong trào hành động cách mạng, các hoạt động tình
nguyện tại cộng đồng nhằm phát huy tính xung kích, sáng tạo, ý thức trách
nhiệm công dân của tuổi trẻ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

12


- Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và quốc tế theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong thời đại mới.
- Giáo dục ý thức, trách nhiệm học tập, tự rèn luyện, tự đào tạo thành
người, thành tài để phục vụ Tổ quốc.
1.4. Vai trò và ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho
thanh niên trong giai đoạn hiện nay
- Giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa giúp thanh niên định hướng, xác định
được mục tiêu sống và phấn đấu hết mình cho lý tưởng cao đẹp, sống có mục
đích, có ý nghĩa, sống có đạo đức, có văn hóa, có nhân cách và phẩm giá tốt đẹp,
từ đó giúp họ trở thành những người có ích cho Tổ quốc.
- Giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa giúp thanh niên tập trung và phát huy
các nguồn lực, khả năng cho hoạt động sống có ích, tránh được phân tán, lãng
phí các khả năng, nguồn lực.

- Đạo đức là trung tâm của nhân cách, nhìn vào đạo đức người ta biết được
nhân cách phát triển theo chiều hướng nào. Vì thế giáo dục đạo đức, lối sống
văn hóa đúng đắn sẽ có sự phát triển nhân cách tốt đẹp, đúng hướng.
1.5. Thực tiễn công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh
niên trên cả nước
Giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên được triển khai thực
hiện đồng bộ dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú như: thông qua công
tác tuyên truyền, giáo dục, triển khai học tập các bài học lý luận chính trị cơ bản,
học tập và nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán
triệt chủ trương, Nghị quyết của Đảng, tổ chức sinh hoạt truyền thống, giáo dục
đạo đức, lối sống; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên …
thông qua các phong trào thi đua yêu nước trong các cộng đồng dân cư và các
phong trào cách mạng hành động của tuổi trẻ như: “Thanh niên lập nghiệp”,
“Tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”, “Thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”,… triển khai các sinh hoạt chính trị như: “Tuổi trẻ Việt Nam tiến bước
dưới cờ Đảng”, “Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Sống,
13


chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, các hoạt động “Tiếp
lửa truyền thống, mãi mãi tuổi 20”… thu hút hàng triệu đoàn viên thanh niên
tham gia.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên còn thông qua
các công tác tổ chức, bồi dưỡng thanh niên phấn đấu trở thành đoàn viên, qua
các buổi sinh hoạt chi đoàn đã góp phần củng cố đạo đức, lối sống văn hóa cho
thanh niên. Bên cạnh đó, Đoàn thanh niên còn bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên
ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị.
Cùng với các thành tựu quan trọng và to lớn đạt được trong thời gian qua
của đất nước, công tác giáo dục thanh niên đã góp phần tạo dựng nên một lớp

thanh niên mới, trong đó có bộ phận thanh niên tiên tiến đi đầu trên nhiệm vụ
lĩnh vực, có thái độ, nhận thức tốt và có ý thức vượt qua khó khăn, vươn lên lập
thân, lập nghiệp, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích cách mạng, xung
phong tình nguyện vì cộng đồng, sống có đạo đức tốt đẹp, có lối sống văn hóa
cao đẹp của những thế hệ thanh niên lớp trước, đó cũng là những phẩm chất nổi
trội của thanh niên ngày nay.
Từ đó, vai trò và vị trí của thanh niên trong xã hội không ngừng được
khẳng định nâng cao thông qua việc thanh niên tham gia ngày càng nhiều và
hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững Quốc phòng an nnh của đất
nước. Mỗi năm có hàng triệu lượt đoàn viên thanh niên trên cả nước hăng hái
tham gia trong các phong trào thi đua, hàng triệu thanh niên được kết nạp vào
hàng ngũ của Đoàn, hàng nghìn đoàn viên ưu tú được Đảng xem xét kết nạp.
Điều đó góp phần tăng cường sinh lực trẻ của Đảng; khẳng định xu hướng tích
cực chính trị - xã hội trong thanh niên; đồng thời cũng chính là thành quả to lớn
trong chiến lược phát triển nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta, là hạnh
phúc của mọi gia đình.
Mặt khác, thanh niên ngày nay cũng đang phải đối mặt với những thách
thức mới. Do tâm lý lứa tuổi, thanh niên còn thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm trong
14


cuộc sống lại gặp phải tác động từ sự thay đổi quá nhanh và đa dạng trong quan
niệm về các chuẩn mực giá trị xã hội và văn hóa; sự gia tăng phân hóa giàu
nghèo, sự tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; những thông
tin xấu, độc hại lan truyền trên Internet, những âm mưu và hành động chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch…
Trong khi đó, năng lực cụt hể hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước
trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên ở một số đơn
vị còn yếu. Giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên trong giai đoạn
hiện nay là việc làm khó, có lúc, có nơi, có bộ phận chưa thực sự chú trọng;

chưa phát huy được sức mạnh đồng bộ của các lực lượng xã hội trong giáo dục
thanh niên. Việc nắm bắt, xử lý diễn biến tư tưởng thanh niên và thực hiện nội
dung giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên của tổ chức Đoàn hiệu
quả còn thấp, hình thức còn xơ cứng, thiếu hấp dẫn, nhiều vấn đề chính đáng
của thanh niên chậm được giải quyết.
Trong bối cảnh trên, việc tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa
cho thanh niên nhằm hình thành “Một lớp thanh niên ưu tú vững vàng về chính
trị, kiên định con đường XHCN, có lý tưởng cao đẹp, sống có văn hóa và tình
nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính, biết nuôi dưỡng hoài
bão lớn, tự cường dân tộc” là cần thiết hơn lúc nào hết.

15


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO THANH NIÊN CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
TẠI HUYỆN XÍN MẦN - TP. HÀ GIANG.

2.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
huyện Xín Mần - TP. Hà Giang.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Huyện Xín Mần là một huyện nằm ở phía Tây của thành phố Hà Giang.
Phía Tây giáp huyện Xu Phì, phía Đông giáp huyện Quang Bình, phía Nam giáp
huyện Bắc Quang, phía Bắc giáp huyện Bắc Mê. Xín Mần cách trung tâm thành
phố Hà Giang là 400km.
Xín Mầm là một huyện thuộc miền núi và có nhiều điểm du lịch rừng núi
xanh và một số điểm du lịch khác đã thu hút nhiều khách du lịch thăm quan như
bãi đá cổ có hình vẽ khắc hình vẽ của con người, và thác tiên cách đây khoảng
hơn 1000 năm và có một suối nước nóng tự nhiên.
Vị trí địa lý Xín Mầm cách huyện Xù Phì nữa là giáp cộng hòa nhân dân

Trung hoa Trung Quốc.
Xín Mần là một huyện thuộc miền núi nên đường xã đi lại còn gặp rất
nhiều khó khăn như đến mùa mưa đường đều đi qua núi khe nên mưa lại xạt lở
đất, các suối khe nước lại dâng lên nên việc đi lại còn gặp nhiều khó khăn.
+ Diện tích: 7.884,3 km2
+ Các thị xã/huyện: 10 huyện, 1 thị xã và 1 thành phố.
+ Trung tâm tỉnh: thành phố Hà Giang
+ Số dân (2009) 724.537 người.
+ Mật độ: 486 người/km2
+ Dân tộc: Việt, Tày, Nùng, Dao
2.1.2. Đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
2.1.2.1. Về kinh tế
* Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có bước khởi sắc.

16


Tuy gặp khó khăn đầu vụ, do hạn hán và xâm thực mặn, sâu bệnh ảnh
hưởng nhất là bên vàng lùn xoắn lá, bệnh lùn xọc đen xuất hiện trên diện rộng,
song với sự chỉ đạo tích cực và sự cố gắng của bà con nông dân nên diện tích lúa
gieo cấy cả năm đạt 91,1 ngàn ha, tăng 99 ha so với kế hoạch, trong đó có trên
31,7 ngàn ha lúa cao sản, 29,7 ngàn ha lúa chất lượng cao. Tổng sản lượng
lương thực có hạt đạt 91,8 vạn tấn, tăng 1,4 vạn tấn so năm 2009. Tỉnh đã có
chính sách hỗ trợ phát triển giống lúa chất lượng cao, khuyến khích nông dân
tích cực sản xuất đại trà, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện
tích đất nông nghiệp (đạt 96,4 triệu đồng/ha).
Vụ đông năm 2010 – 2011 được triển khai tích cực với kết quả khả quan,
diện tích gieo trồng đạt 61,8 ngàn ha, trong đó 24,9 ngàn ha trên đất 2 lúa. Thời
tiết khá thuận lợi nên cây trồng sinh trưởng phát triển tốt.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, không có dịch bệnh lớn xảy ra: đã có nhiều

trang trại chăn nuôi quy mô lớn và mô hình chăn nuôi mới với những con nuôi
đặc sản, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nuôi trồng thủy sản phát triển, diện tích
nuôi trồng đạt 19.144 ha, trong đó diện tích thủy sản nước mặn đạt trên 3.000
ha, với giá trị đạt trên 109 triệu đồng/ha. Tổng sản lượng thủy sản đạt 35 ngàn
tấn, tăng 6,6%, vượt 5% kế hoạch năm. Sản xuất con giống thủy sản đã được
chú trọng, từng bước đáp ứng nhu cầu tại chỗ cả về số lượng và chất lượng con
giống.
Quản lý, chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng được các cấp, các
ngành chức năng coi trọng, ý thức của người dân về công tác bảo vệ rừng được
nâng lên. Diện tích rừng hiện có đạt trên 37.42 ha, rừng tập trung trồng mới và
trồng bổ sung trong năm đạt 330ha, rừng được chăm sóc là 99 ha, rừng được
giao khoán bảo vệ là 5.400ha, rừng khoanh nuôi tái sinh 22.400 ha. Hoàn thành
dự án đầu tư bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ ngập mặn Kim Sơn, tạo điều
kiện phát triển kinh tế lâm nghiệp vùng ven biển.
- Công tác thủy lợi, tu bổ đê điều, phòng chống lụt, bão được chủ động
triển khai, tập trung chỉ đạo và theo dõi chặt chẽ.
17


* Thu ngân sách có nhiều cố gắng, hoạt động các ngành dịch vụ có tiến
bộ. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được tập trung quyết liệt với nhiều giải
pháp tích cực, năm 2010 ước đạt 2.100 tỷ đồng, hoàn thành dự toán, tăng 14%
so với năm 2009. Thu từ thuế, phí, lệ phí và thu khác ngân sách đạt 1.300 tỷ
đồng, đạt 100,4% so với dự toán, tăng 20%; thu tiền sử dụng đất đạt 930 tỷ
đồng, vượt 117,5% bằng 93,2% so với năm 2009; thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu d thực hiện các chính sách giảm nhập siêu, một số mặt hàng không kê khai
nộp thuế tại hải quan trên địa bàn nên chỉ đạt 650 tỷ đồng, bằng 65% dự toán.
Tổng chi ngân sách ước đạt 4.299,2 tỷ đồng, vượt 28,2% so với dự toán,
quy mô và tỷ lệ chi đầu tư phát triển trong tổng chi được nâng lên, chi thường
xuyên cơ bản đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ chi đảm bảo tiết kiệm, chống

lãng phí, thất thoát.
Tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại, Quỹ tín dụng
nhân dân trên địa bàn đạt 21,670 tỷ đồng, tăng 24,6% so với đầu năm. Tổng dư
nợ cho vay đạt 21,651 tỷ đồng, tăng 32,7% so với đầu năm. Ngân hàng chính
sách xã hội tỉnh cho 113,902 hộ nghèo và các đối tượng chính sách vay phát
triển sản xuất, thực hiện mục tiêu giảm nghèo với tổng dư nợ đạt 1.360 tỷ đồng,
tăng 32,3% so với đầu năm, trong đó có 44.000 hộ nghèo được vay vốn với lãi
suất ưu đãi, dư nợ đạt 340 tỷ đồng.
* Hoạt động xuất khẩu tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 80 triệu
USD, tăng 14% so với cùng kỳ và vượt 14% so với kế hoạch năm. Kim ngạch
nhập khẩu đạt 220 triệu USD, tăng 51% so với năm trước, đạt 67,7% kế hoạch.
Nguyên nhân do tác động của chính sách kiềm chế nhập siêu của Chính phủ và
một số dự án lớn đã hoàn tất việc nhập khẩu máy móc, thiết bị.
Hàng hóa dồi dào, thương mại phát triển đáp ứng được nhu cầu xã hội,
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 10,2 nghìn tỷ đồng, tăng
20% so với năm 2009. Giá cả hàng tiêu dùng bình ổn, chỉ số giá tăng khoảng 9%
so với tháng 12 năm 2009, thấp hơn mức tăng bình quân cả nước.

18


* Du lịch đạt được những kết quả khả quan. Công tác quản lý nhà nước về
du lịch được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn, nhất là quản lý môi trường, quản lý
kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch. Chất lượng dịch vụ du lịch được cải thiện,
nhất là dịch vụ lưu trú chất lượng cao. Số lượt khách ước đạt 2,275 triệu lượt,
tăng 8,17% so với kế hoạch và tăng 27% so với năm 2009; trong đó, khách quốc
tế đạt 6700 nghìn lượt, tăng 14,32% so với năm 2009. Doanh thu du lịch đạt 459
tỷ đồng, tăng 22,4% so với năm 2009.
Các ngành dịch vụ bảo hiểm, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng,
vận tải tiếp tục phát triển tốt, đảm bảo phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống

nhân dân.
2.1.2.2. Tình hình kinh tế, chính trị văn hóa – xã hội
* Công tác giáo dục, y tế, văn hóa thể thao, thông tin tuyên truyền
Chất lượng giáo dục được nâng lên, quy mô trường lớp, học sinh được duy
trì và giữ vững. Giáo dục đại trà và mũi nhọn đều có bước tiến mới. Tỷ lệ học
sinh khá, giỏi cao hơn năm trước; 1 học sinh đạt Huy chương đồng Olympic
Quốc tế môn tin học; tỷ lệ tốt nghiệp THPT của học sinh Hà Giang ở tốp 10 tỉnh
đạt thành tích cao trong cả nước. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn toàn ngành là 98,7%,
trên chuẩn là 50,4%. Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học được tăng cường
hơn, kế hoạch xây dựng Trường chuẩn, chương trình kiên cố hóa trường lớp học
được triển khai tích cực và đảm bảo kế hoạch. Năm 2010 đã xây dựng thêm 33
trường, đưa tổng số trường chuẩn là 301 trường, đạt tỷ lệ 64%; tỷ lệ phòng học
kiên cố hóa cao tầng đạt 78,84%. Trường Đại học, Cao đẳng Y tế hoàn thành tốt
kế hoạch tuyển sinh, tỷ lệ sinh viên đỗ tốt nghiệp cao. Công tác xã hội hóa học
tập, khuyến học, khuyến tài được mở rộng, đã hạn chế được tình trạng học sinh
bỏ học.
Ngành y tế thực hiện có hiệu quả Đề án 1614 của Bộ y tế, nâng cao chất
lượng đội ngũ y, bác sỹ, duy trì tốt công tác khám, chữa bệnh phục vụ nhân dân;
tăng cường công tác giám sát, kiểm tra đôn đốc thực hiện và tuyên truyền đảm
bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; thường xuyên duy trì công
19


tác phòng chống các loại dịch bệnh nên đã không xảy ra dịch lớn; tiếp tục đẩy
mạnh kiểm tra, giám sát các loại dịch bệnh, các bệnh truyền nhiễm; cơ sở vật
chất được tăng cường cả tuyến huyện và tuyến tỉnh. Việc chuẩn bị các điều kiện
phục vụ việc khám chữa bệnh được chú trọng như: chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng
các loại thuốc, trang thiết bị sẵn sàng phục vụ tiếp nhận, điều trị bệnh nhân. Tỷ
lệ bệnh nhân chuyển lên tuyến trên đã giảm nhiều so với các năm trước. Thực
hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia; xây dựng cơ sở y tế đạt

chuẩn với 86% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, để nâng cao chất
lượng.
Ngành văn hóa, thể thao thực hiện thành công các nhiệm vụ trọng tâm năm
2010, nổi bật là các hoạt động trong chương trình Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long - Hà Nội; tích cực tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao, tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng phục vụ các nhiệm vụ
chính trị nổi bật như Đại hộ Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Đại hội thi đua yêu nước
tỉnh lần thứ 3, tạo không khí phấn khởi trong nhân dân. Phong trào thể dục thể
thao quần chúng phát triển mạnh, thu hút 26,6% nhân dân luyện tập thường
xuyên. Đại hội Thể dục thể thao tỉnh lần thứ IV được tổ chức thành công. Thể
thao thành tích cao được duy trì, nhất là các môn cờ vua, bóng chuyền nam, vật
và điền kinh; các vận động viên của tỉnh tham gia các giải toàn quốc đạt 24 huy
chương các loại; 6 VĐV tỉnh Hà Giang tham gia đội tuyển quốc gia thi đấu tại
ASIAD 16 tại Quảng Châu Trung Quốc (vận động viên Trương Văn Hà đã
giành 2 huy chương bạc); tại giải vô địch quốc gia cúp PVOil năm 2010 đội
tuyển bóng chuyền nam Hà Giang đã đạt chức vô địch.
Công tác báo chí, phát thanh, truyền hình đã bám sát các nhiệm vụ chính
trị trọng tâm; kịp thời đưa tin bài phản ánh tình hình hoạt động sản xuất phát
triển kinh tế, xã hội và các hoạt động trọng đại của cả nước và địa phương, nhất
là tuyên truyền về Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XI của Đảng và
Đại hội thi đua yêu nước tỉnh; phục vụ tốt công tác chỉ đạo điều hành, động viên
tinh thần và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin của nhân dân.
20


Hoạt động khoa học công nghệ có đổi mới, nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được
áp dụng vào sản xuất. Đã thực hiện đưa các đề tài, dự án ứng dụng khoa học
công nghệ vào thực tiễn. Công tác kiểm định được tăng cường, đã hạn chế tình
trạng gian lận trong đo lường ở một số lĩnh vực liên quan đến quyền lợi người
tiêu dùng.

Công tác đối ngoại của tỉnh tiếp tục đẩy mạnh, số lượng người nước ngoài
vào thăm, làm việc, nghiên cứu, tìm hiểu cơ hội hợp tác, đầu tư kinh doanh tiếp
tục tăng, đã đón tiếp 80 đoàn nước ngoài trong đó 13 đoàn cấp Đại sứ đảm bảo
nghi thức ngoại giao tạo ấn tượng tốt đẹp. Hợp tác hữu nghị với các đối tác nước
ngoài tiếp tục được củng cố trên cơ sở các bên cùng có lợi. Viện trợ phi chính
phủ nước ngoài đạt gần 23.000 USD, vận động mới 2 dự án ODA với tổng vốn
30 triệu USD. Các cơ quan phối hợp quản lý tốt người nước ngoài tại tỉnh, giải
quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến người nước ngoài, đặc biệt là quản lý
hơn 1.000 lao động nước ngoài làm việc tại các khu, cụm công nghiệp.
* Công tác giảm nghèo, thực hiện chế độ chính sách, giải quyết việc làm,
đảm bảo an sinh xã hội
Công tác đảm bảo an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm. Đời sống nhân
dân có tiến bộ nhiều mặt, nhất là dân cư nông thôn. Chương trình Mục tiêu quốc
gia về giảm nghèo và Nghị quyết 10 của Tỉnh ủy, các chính sách về ưu đãi hộ
nghèo, vùng nghèo, được thực hiện tốt, hoàn thành chương trình hỗ trợ xây mới,
sửa chữa và xóa nhà dột nát. Hoàn thành tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo,
tổ chức bình xét tại cơ sở, tổng hợp kết quả đảm bảo tính chính xác, nghiêm túc
và công bằng, kịp thời tổng kết báo cáo số liệu về Trung ương phục vụ xây dựng
chính sách giảm nghèo trong giai đoạn mới. Hết năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo theo
tiêu chí mới là 15,27% (theo tiêu chí năm 2005 là 6,16%).
Công tác chăm sóc người có công, thực hiện chế độ chính sách được quan
tâm, nhất là việc giải quyết tồn tại chế độ cựu thanh niên xung phong và nạn
nhân nhiễm chất độc hóa học. Việc thăm học, tặng quà cho người có công trong
dịp lễ, tết được duy trì. Cứu trợ đột xuất cho nhân dân trong các dịp giáp hạt
21


được chú trọng. Công tác đào tạo nghề phát triển, tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề tăng 18%; tạo việc làm mới cho gần 12.000 lao động, góp phần giải quyết
tốt vấn đề trong chuyển dịch lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và

dịch vụ. Chế độ chính sách đối với người lao động được đảm bảo.
* Xây dựng chính quyền, cải cách hành chính, phòng chống tham
nhũng.
Công tác xây dựng chính quyền có nhiều đổi mới, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp. Trong năm đã phê chuẩn kết
quả miễn nhiệm và bầu bổ sung 20 Chủ tịch, Phó chủ tịch, thành viên UBND
cấp huyện; tuyển dụng 148 công chức cấp xã theo chính sách thu hút; tổ chức
thực hiện và xử lý kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh cán bộ
chuyên trách, công chức cấp xã đảm bảo dân chủ, công bằng, tạo niềm tin trong
nhân dân đối với chính quyền cơ sở. Công tác thi đua khen thưởng đảm bảo
chính xác góp phần động viên tinh thần thi đua của các cấp, các ngành, các tầng
lớp nhân dân. Đại hộ thi đua yêu nước tỉnh lần thứ 4 tổ chức thành công đã biểu
dương những kết quả thi đua giai đoạn 2006 – 2010, khích lệ và thúc đẩy phong
trào thi đua yêu nước trong toàn tỉnh giai đoạn 2011 – 2015.
Cải cách hành chính tiếp tục được triển khai có hiệu quả; hoàn thành
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nàh nước trên địa bàn giai đoạn 2001
- 2010. Công tác rà soát, hiệu chỉnh được thực hiện đúng chỉ đạo của các Bộ,
ngành Trung ương; công bố 1.619 thủ tục hành chính 3 cấp; kiến nghị đơn giản
hóa 1.129 thủ tục, đạt tỷ lệ 72,6% vượt chỉ tiêu Chính phủ giao 42,6%. Cơ chế
“1 cửa” đã áp dụng tại 100% cơ quan hành chính các cấp, cơ chế “1 cửa liên
thông” đang được thực hiện tại 7/8 ủy ban nhân dân cấp huyện. Hệ thông quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 tiếp tục được triển khai áp
dụng tại các cơ quan chuyên môn, nâng cao chất lượng giải quyết công việc.
Công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống tham nhũng, công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại tố cáo được quan tâm. Việc xử lý sau khi có kết luận
giải quyết khiếu tố cơ bản được thực hiện nghiêm túc. Các tổ chức Thanh tra
22


trong tỉnh đã tiến hành 112 cuộc thanh tra, kiểm tra, phát hiện sai phạm về kinh

tế 6,6 tỷ đồng, xử phạt vi phạm hành chính 460 triệu đồng, kiến nghị thu hồi về
ngân sách nhà nước 2,4 tỷ đồng. Công tác tiếp dân của các cấp, các ngành được
thực hiện tốt, đảm bảo quy chế. Trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công
tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã được nâng lên một
bước, đã tập trung chỉ đạo xem xét kết luận, quyết định giải quyết các vụ khiếu
nại, tố cáo cơ bản đảm bảo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn theo luật
định. Các cấp các ngành đã tiếp 3.040 lượt công dân; tiếp nhận 383 đơn thư
khiếu tố, trong đó có 310 đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết; đã
giải quyết 276/310 vụ việc, đạt tỷ lệ 89%. UBND thành phố đã giải quyết được
14/15 vụ, đạt tỷ lệ 93,3%. Qua giải quyết đơn thư khiếu tố đã thu về cho Nhà
nước, tập thể 360,6 triệu đồng, khôi phục quyền lợi hợp pháp cho công dân 610
triệu đồng và 114 m2 đất.
* Công tác quốc phòng an ninh
Lực lượng công an phát huy vai trò nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tăng cường bám sát
địa bàn, nắm chắc tình hình, không để bị động, bất ngờ; kịp thời đề xuất với cấp
ủy, chính quyền các cấp giải quyết những bức xúc nổi lên về an ninh trật tự. An
ninh chính trị tiếp tục ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; tổ chức bảo
vệ tuyệt đối an toàn Đại hội Đảng các cấp, các sự kiện chính trị lớn diễn ra trên
địa bàn. Phối hợp với các cấp các ngành tiến hành nhiều biện pháp vận động
toàn daant ham gia phòng chống các loại tội phạm, chủ động tấn công các loại
tội phạm, nên không có tội phạm mang tính tổ chức và hoạt động kiểu “xã hội
đen”, không có các tụ điểm phức tạp gây bức xúc trong nhân dân về an ninh trật
tự. Tình hình phương tiện giao thông gia tăng nhanh, nhiều tuyến đường đang
trong giai đoạn đầu tư nâng cấp gây diễn biến phức tạp về trật tự an toàn giao
thông, nhưng do thực hiện tốt công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm an toàn
giao thông nên tình hình trật tự ant oàn giao thông cơ bản đảm bảo, tai nạn giao
thông giảm trên cả 3 tiêu chí so với năm 2009, không xảy ra ùn tắc kéo dài.
23



Công tác quân sự địa phương tiếp tục được thực hiện tốt; duy trì nghiêm
chế độ sẵn sàng chiến đấu. Các hoạt động thường xuyên như: trực phòng chống
lụt bão, trực phòng không được thực hiện nghiêm túc; chỉ đạo các đơn vị diễn
tập khu vực phòng thủ, chiến đấu trị an, tìm kiếm cứu nạn đạt kết quả cao; công
tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đạt kết quả tốt; công tác giao nhận
quân hoàn thành đúng chỉ tiêu, đảm bảo chất lượng và an toàn. Trong năm đã
huy động 1.650 lượt cán bộ chiến sỹ, dân quân kết hợp với các đơn vị chủ lực và
nhân dân các địa phương đối phó, khắc phục thiên tai.
Công tác tôn giáo, dân tộc được quan tâm chỉ đạo. Vấn đề do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng; tạo điều kiện cho các tôn
giáo được Nhà nước công nhận hoạt động theo đúng chính sách, pháp luật và
đồng bào có đạo đức “tốt đời, đẹp đạo”. Chăm lo đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội, cải thiện mức sống dân cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện các
giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng dân cư, giữa các
dân tộc. đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
tôn giáo, dân tộc, nhân quyền để phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
* Công tác chỉ đạo điều hành của UBND thành phố
- Thực hiện nhiều điều hành phát triển – kinh tế
UBND thành phố đã chủ động bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, tỉnh ủy,
HĐHD thành phố và chính sách pháp luật để xây dựng và điều hành kết hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2010. Căn cứ dự toán ngân sách năm 2010 của
Chính phủ và Bộ ngành trung ương giao, ngay sau các kỳ họp HĐND thành phố,
UBND thành phố đã khẩn trương chỉ đạo giao kế hoạch cho các sở, ngành, các
địa phương và doanh nghiệp; tổ chức triển khai các nhiệm vụ trọng tâm và các
giải pháp thực hiện kế hoạch; giành nhiều thời gian làm việc trực tiếp với các
ngành, địa phương, doanh nghiệp để kiểm tra đôn đốc thực hiện các chỉ tiêu kế
hoạch, với phương châm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị phát huy lợi
thế, huy động các nguồn lực, tập trung giải quyết tháo gỡ khó khăn giúp các đơn


24


vị thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu đề ra. Đồng thời tập trung giải quyết những
kiến nghị của cử tri tại các kỳ họp.
Thực hiện Nghị quyết số 03/NĐ-CP ngày 15/1/2010, Nghị quyết số
18/NĐ-CP ngày 6/4/2010 của Chính phủ về chỉ đạo điều hành thực hiện kế
hoạch năm 2010, thực hiện những giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, không
để lạm phát cao và đảm bảo tăng trưởng kinh tế, UBND đã ban hành Kế hoạch
cụ thể hóa nhiệm vụ của từng ngành, từng đơn vị theo các nhóm giải pháp của
Chính phủ yêu cầu. Việc thực hiện các giải pháp của Chính phủ ở địa phương đã
đem lại những hiệu quả rõ nét, kinh tế đã giữ vững tốc độ tăng trưởng, những
khó khăn đang từng bước được khắc phục.
Thường xuyên rà soát, kịp thời chấn chỉnh và thực hiện các giải pháp tăng
cường công tác quản lý nhà nước trên địa bàn. Ban hành 7 Chỉ thị chỉ đạo sâu
sát từ khâu xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, triển hai thực hiện
các công tác trọng tâm đến tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm.
- Thực hiện Quy chế làm việc
Việc tổ chức thực hiện chương trình công tác trong năm của UBND thành
phố đã đảm bảo khoa học, hợp lý về thời gian và yêu cầu nhiệm vụ. Hàng tuần,
hàng tháng, UBND thành phố đều xây dựng chương trình công tác, xác định cụ
thể nhiệm vụ trọng tâm chỉ đạo trong tuần, trong tháng. Đối với những công việc
được chỉ đạo đột xuất, UBND thành phố tập trung xử lý với yêu cầu khẩn
trương, không để tồn đọng. Công tác ban hành văn bản có nhiều cố gắng, đảm
bảo kịp thời, chính xác, ít sai sót cả về nội dung và thể thức. UBND thành phố
đã bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, Ban Thường vụ và
HĐND thành phố trong các lĩnh vực để ban hành kịp thời các cơ chế, chính
sách, điều hành các giải pháp thực hiện nhiệm vụ. Trong năm đã ban hành 6.240
văn bản, trong đó 28 văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng 23 Đề án trình
HĐND thành phố ban hành.

Chế độ thông tin, báo cáo được thực hiện đúng quy định. Công tác kiểm tra
việc thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh được chú trọng. Lãnh đạo UBND tỉnh
25


×