HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
MÔN
HÀNH CHÍNH SO SÁNH
ĐỀ BÀI
“Khi bàn tới giải pháp tư nhân hoá, David Osborne và Ted Gaeble đã
nhận xét. Tư nhân hoá là một mũi tên trong bao đựng tên của chính phủ
nhưng hoàn toàn rõ ràng là, tư nhân hoá không phải là toàn bộ sự trả lời nói
chung, hãy phân tích nhận định trên”
HÀ NỘI 2011
I.
Phần mở đầu
Hoạt động quản lý ra đời từ khi có xã hội loài người, có lao động tập
thể , có sự phân công và hợp tác lao động, xã hội này càng phát triển, cùng
với sự phát triển của xã hội loài người và quy mô của các tổ chức ngày càng
mở rộng, hoạt động quản lý ngày càng phức tạp, nó đòi hỏi những người
quản lý phải có trình độ, chuyên môn nhất định, do đó trong quản lý bắt đầu
có sự phân công và chuyên môn hoá lao động ngày càng cao. Một xu hướng
thay đổi quan trọng trong quản lý phân chia thành hai nhóm hoạt động,
nhóm thứ nhất là những hoạt động có tính quyết định đến xứ mệnh của tổ
chức, nhóm thứ hai là những hoạt động có tính chấp hành và điều hành của
tổ chức và nhóm này nó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao được gọi là hoạt
động hành chính, như vậy hoạt dộng hành chính là một bọ phận của hoạt
động quản lý. thực tiễn hoạt động hành chính đã đặt ra nhiều câu hỏi cho
các nhà khoa học, nhà hành chính là, làm thế nào đẻ chấp hành tốt các quyết
định của giới chủ hoặc giới quyền lực, làm thế nào để điều hành một tổ chức
hoặc xã hội một cách kinh tế, hiệu lực, hiệu quả và công bằng.
Trong quá trình tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi trên đã xuất
hiện hiều công trình nghiên cứu, tổng kết về hành chính như: Nghiêncứu về
hành chính của Woodnow Wilson, Hành chính và chính trị của Frank
Goodnow, thuyết hành chính chung và trong công nghiệp của Henry Fayol,
lý luận về tổ chức kinh tế và xã hội của Max Weber…Kết quả là sự ra đời
một ngành khoa học đó là khoa học hành chính hay hành chính học, với
những mô hình hành chính, được áp dụng vào quản lý duy trì trật tự xã hội,
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính, mỗi quốc gia khác
nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mục tiêu chính trị mà có sự vận
dụng mô hình có sự khác nhau.
II.
Nội dung
II.1 .Các khái niệm tư nhân hóa, xã hội hóa.
Quá trình hình thành các khái niệm tư nhân hóa, sự tham gia của khu vực
tư nhân, quan hệ đối tác công tư
Khi mới bắt đầu “mở cửa’ lĩnh vực dịch vụ công cộng đô thị cho khu vực tư
nhân vào đầu tư, các nhà làm chính sách gọi đó là quá trình tư nhân hóa. Sau một
thời gian, người ta nhận thấy cách gọi đó không thích hợp lắm vì kinh doanh hàng
hóa công cộng không hoàn toàn giống với kinh doanh hàng hóa tư, và chính
quyền vẫn có trách nhiệm bảo đảm cung ứng đầy đủ dịch vụ công cộng đô thị dù
rằng việc sản xuất chúng đã chuyển giao cho khu vực tư nhân. Do đó người ta
thay từ tư nhân hóa bằng từ sự tham gia của khu vực tư nhân. Tuy vậy, cụm từ
này vẫn chưa phản ánh đúng thực chất của chính sách thu hút tư nhân vào lĩnh
vực dịch vụ công cộng nên khoảng vài chục năm gần đây người ta dùng cụm từ
quan hệ đối tác công-tư (PPP). Cách gọi này thể hiện quan hệ bình đẳng cùng
chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và rủi ro (có thể gọi tắt là 3 chia sẻ) giữa chính quyền,
bên cung ứng và cộng đồng tiêu dùng dịch vụ.
Trong chuyên văn quốc tế người ít dùng từ “xã hội hóa” trong trường hợp
tương tự mà dùng chủ yếu trong xã hội học để chỉ quá trình một hiện tượng, hành
vi hay quan điểm từ một số ít người lan rộng ra trong xã hội.
II.2
Sự khác biệt giữa tư nhân hóa và quan hệ đối tác công-tư
Tư nhân hóa và xã hội hóa đều đề cập đến quá trình mở cửa một ngành hay
một lĩnh vực thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước nắm độc quyền, cho khu vực
phi nhà nước (tư nhân, cộng đồng, thành phần nước ngoài…) tham gia với nhiều
hình thức. Tuy vậy giữa hai khái niệm đó vẫn có sự khác nhau rất lớn, không chỉ
vì bên tham gia là khu vực tư nhân mà thôi (trong tư nhân hóa) hay bao gồm
nhiều thành phần hơn, kể cả cộng đồng (trong xã hội hóa), mà chủ yếu là ở mối
quan hệ giữa chính quyền với bên cung ứng dịch vụ. Trong tư nhân hóa, sau khi
đã chuyển giao công việc kinh doanh (đầu tư xây dựng, vận hành công trình và
phân phối dịch vụ) cho tư nhân thì chính quyền chỉ còn làm công việc quản lý nhà
nước thông qua các công cụ luật pháp, hành chính, tài chính (thuế), mọi rủi ro
kinh doanh đều do tư nhân gánh chịu. Trong xã hội hóa, mà cụ thể là hình thức
đối tác công-tư, ngoài trách nhiệm quản lý nhà nước chính quyền còn là một bên
đối tác tham gia có quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng. Có thể nói thực chất mối
quan hệ đó là “quan hệ ba chia sẻ”, tức là cùng chia sẻ lợi ích, cùng chia sẻ trách
nhiệm và cùng chia sẻ rủi ro. Mức độ chia sẻ trong từng mặt có thể nhiều ít khác
nhau tùy theo mô hình PPP được lựa chọn áp dụng, nhưng tựu trung vẫn phải
bao gồm cả ba mặt đó.
Mô hình PPP cho phép vận dụng cơ chế thị trường vào lĩnh vực cung ứng
dịch vụ công cộng. Việc lựa chọn đối tác tư nhân thường được thực hiện thông
qua đấu thầu để thúc đẩy cạnh tranh.
II.3 Tư nhân hóa ở các nước Tây Âu
Tình hình tư nhân hoá ở Tây Âu Khoảng mười năm trước, mọi người đều
cho rằng, tư nhân hoá là một phương pháp tốt để cải thiện tình hình kinh tế châu
Âu. Các chính phủ thuộc các đảng phái khác nhau đều đã lựa chọn con đường tư
nhân hoá do cựu Thủ tướng Margaret Thatcher vạch ra. Bằng cách chuyển các tài
sản thuộc sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân, thông qua việc bán các cổ phiếu,
có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao và qua đó thu được nhiều tiền cho ngân sách
nhà nước.
Quá trình tư nhân hoá đã có những tác động rõ ràng. Tại Anh, các công ty nhà
nước tạo ra 12% GDP năm 1979, nhưng chỉ tạo ra 2% GDP năm 1997. Lúc đó,
thậm chí Chính phủ thuộc Đảng Xã hội Pháp cũng chấp nhận tư nhân hoá. Trong
thời kỳ 1997-2002, Chính phủ của Thủ tướng Jospin thuộc Đảng Xã hội tiến
hành tư nhân hoá còn mạnh tay hơn các chính phủ tiền nhiệm. Chính phủ Jospin
đã phát hành lần thứ nhất 7,1 tỷ USD cổ phiếu để tư nhân hoá công ty viễn thông
nhà nước France Telecom trên thị trường chứng khoán năm 1997, sau đó lại phát
hành lần thứ hai 10,4 tỷ USD cổ phiếu để tiếp tục tư nhân hoá công ty này.
Tuy vậy, đến nay, số lượng tư nhân hoá ở châu Âu đã giảm. Tại một số nước,
bao gồm Hà Lan và Đức, các kế hoạch tư nhân hoá cơ sở hạ tầng như bưu điện,
sân bay và đường sắt đã bị hoãn hoặc đình chỉ. Tại Italia, Chính phủ của Thủ
tướng Silvio Berlusconi, một nhân vật nhiệt thành với tư nhân hoá, đã không
tham gia vào quá trình tư nhân hoá. Qúa trình này đã bị ngăn chặn bởi cuộc tranh
luận về các hậu quả chính trị do tư nhân hoá gây ra. ở Pháp, việc cánh tả chiếm
đa số trong Nghị viện đã mang lại xung lực mới cho chương trình tư nhân hoá bị
ngăn lại, nhưng vẫn có nhiều người lo ngại rằng, chính sách tư nhân hoá sẽ gây
tác động không tốt về mặt chính trị.
Tư nhân hoá được tiến hành kém tích cực hơn trước là do thái độ của các nước
châu Âu đối với tư nhân hoá đã có sự thay đổi đáng kể. Anh quốc, là nước đầu
tiên tiến hành tư nhân hoá, bị phê phán là đi quá xa trong việc bán hệ thống
đường sắt và đề ra các “sáng kiến tài chính tư nhân” trong ngành Dịch vụ y tế và
Vận tải. Việc bán một phần hệ thống kiểm soát vận tải hàng không cũng gây ra
nhiều cuộc tranh luận.
Các vấn đề tồn tại trong tư nhân hóa
Việc tiếp tục tư nhân hoá còn gặp khó khăn bởi lợi ích nhà đầu tư đã không
được bảo đảm khi họ mua cổ phiếu trong những vụ tư nhân hoá trước đây. Chẳng
hạn, các nhà đầu tư cổ phiếu viễn thông France Telecom và Deutsche Telecom đã
bị cháy túi đến mức họ có thể không mua cổ phiếu nữa trong thời gian tới. Điều
này đặt ra câu hỏi các chính phủ có thể làm gì để lấy lại lòng tin của nhà đầu tư.
Trong khi đó, các chính phủ cũng phải tìm cách giảm bớt cổ phần của mình trong
các công ty này. Thí dụ, Chính phủ Italy đang xem xét khả năng phát hành loại
trái phiếu chuyển đổi để thu hút tiền và đồng thời cho phép các nhà đầu tư có thể
chuyển tiền gốc trái phiếu sang cổ phiếu. Đây có thể là một cách để tránh lặp lại
vấn đề như đã xảy ra đối với Công ty Enel.
ở Pháp, Chính phủ cánh hữu mới bầu với Thủ tướng Jean-Pierre Raffarin đã có
nhiều kế hoạch tư nhân hóa. Bộ trưởng Tài chính Francis Mer đã gợi ý rằng, các
phần sở hữu nhà nước trong các công ty Hàng không Air France và công ty Điện
tử Thales có thể được bán đi, để thu về 5 tỷ Euro (4,7 tỷ USD). Lãnh đạo công
đoàn nói rằng, Chính phủ đã xem xét khả năng bán một nửa cổ phần của mình
trong Công ty Gaz de France, trị giá 7 tỷ USD, và nhà nước chỉ còn nắm giữ
10% cổ phần trong Ngân hàng Crédit Lyonnais, một công ty đã tư nhân hóa năm
1999.
Ông Gibbs (Công ty J.P.Morgan) nói rằng, Chính phủ sẽ phải có cách làm phù
hợp với từng đối tượng tư nhân hóa, tùy theo đặc điểm kinh doanh của họ. Chẳng
hạn, Ngân hàng Crédit Lyonnais có thể bị thanh lý thông qua sự chuyển nhượng
thương mại cho một định chế tài chính khác, chứ không bán nó trên thị trường
chứng khoán. Việc tư nhân hóa Công ty Viễn thông Telecom được tiến hành theo
các điều kiện thị trường, nhưng việc bán Công ty Air France lại có thể được quy
định tùy theo tình hình hoạt động trong những năm vừa qua.
Nước Pháp có may mắn là một số tài sản nhà nước là các công ty điện, gas rất
được các nhà đầu tư ưa thích. Công ty Điện Electricité de France là công ty điện
quốc doanh độc quyền, công ty hàng đầu của Tập đoàn Gaz de France, và là một
trong những công ty lớn nhất châu Âu, trị giá hơn 60 tỷ Euro đang là đối tượng
hàng đầu cho tư nhân hóa các đợt tiếp theo.
Để tiến hành tư nhân hóa, cần có báo cáo về dự kiến các đợt tư nhân hoá sẽ
tiếp tục thực hiện sau này, nhằm làm giảm sự can thiệp của Chính phủ vào hoạt
động của doanh nghiệp tư nhân hoá. Việc tư nhân hoá Công ty Gaz de France
hiện vẫn chưa được Chính phủ quyết định. Chính phủ còn phải cân nhắc việc bán
đi hơn 49% tài sản Công ty Gaz de France. Có nhiều ý kiến phản đối vụ tư nhân
hoá Công ty Điện EDF vì cho rằng, Công ty này có trách nhiệm bảo đảm an toàn
hạt nhân và trách nhiệm này được chấp hành nghiêm chỉnh khi Công ty vẫn thuộc
sở hữu nhà nước.
Ngoài ra, nhiều người cho rằng, Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ các cổ phần
của mình trong các công ty công nghiệp tư nhân hoá một phần, vì các công ty này
thuộc loại “chiến lược”. Nếu cánh tả thắng cử ở Pháp, Chính phủ mới sẽ cam kết
nắm giữ hơn 50% cổ phần của Công ty EDF.
Quan điểm cho rằng, Nhà nước cần có cổ phần của mình trong các công ty
thuộc loại chiến lược, đã giải thích phần nào câu hỏi tại sao, chỉ có một số nhỏ
các vụ tư nhân hóa đã loại bỏ hoàn toàn vai trò của nhà nước trong doanh nghiệp
tư nhân hóa. Thực tế có khoảng 24 công ty lớn nhất ở châu Âu, xét theo giá trị thị
trường, đều có cổ phần do Chính phủ nắm giữ. Điều này cho thấy, tư nhân hóa
không phải lúc nào cũng hiển nhiên như nhiều người suy nghĩ.
Về vấn đề kiểm soát quản lý, Tổ chức OECD cho biết, các chính phủ ở Tây Âu đã
thu được hơn 400 tỷ USD nhờ bán tài sản nhà nước từ năm 1990. Nhưng trong nhiều
trường hợp tư nhân hóa, Chính phủ vẫn duy trì quyền kiểm soát doanh nghiệp bằng
cách chỉ bán một phần các cổ phiếu khi tư nhân hóa, hoặc là bằng cách duy trì cái
gọi là “các cổ phiếu vàng” cho quyền chống lại sự thôn tính quyền kiểm soát của nhà
nước trong hoạt động của công ty.
Chính phủ của các nước có nhiều cách để can thiệp vào hoạt động quản lý
các công ty tư nhân hóa. ở Italy, Thủ tướng Berlusconi sắp đặt các giám đốc mới
vào các công ty Enel và Eni, là các công ty nhà nước độc quyền về điện và dầu.
Vai trò của Chính phủ tiền nhiệm chỉ là nhà đầu tư tài chính trong các công ty
này. Nhưng khi Chính phủ mới muốn thay thế các giám đốc, thì có thể hiểu rằng,
Nhà nước là chủ nhân quyết định trong thực tế. Các cổ đông thiểu số lẽ ra có thể
bầu chọn các giám đốc mới, nhất là ở Công ty Enel, khi ông giám đốc Franco
Tato sắp mãn nhiệm. Nhưng trong thực tế, các cổ đông này không có vai trò gì
trong việc lựa chọn giám đốc.
Từ trước đến nay, Italy luôn tỏ ra tích cực trong việc tư nhân hóa. Mặc dù
hơn 110 tỷ USD đã thu được từ tư nhân hóa trong thập kỷ qua, các chính phủ kế
tiếp đã lo lắng về việc nhường lại quyền kiểm soát hoàn toàn. Liên đoàn các xí
nghiệp công nghiệp Italy đã xuất bản báo cáo về tác động của tư nhân hóa đến
nền kinh tế Italy, trong đó, chỉ khoảng 1/3 số xí nghiệp lớn tư nhân hóa mới hoàn
toàn thoát khỏi sự kiểm soát của nhà nước
II.4 Hậu quả của quá trình TNH ở Nga Với những bước đi sai lệch trên thì
quá trình TNH ở Nga không còn mang mục đích kinh tế xã hội như ban đầu mà
nó đã mang màu sắc chính trị là chủ yếu.Do vậy quá trình này đã dẫn đến một số
hậu quả:
- Phần lớn tài sản của quốc gia nằm trong tay một nhóm người,tạo nên một giới
kinh tế thượng lưu bao gồm các nhà tài phiệt và các ông trùm kinh
tế”đen”.5%dân số thuộc tầng lớp giàu và rất giàu chiếm 73% tích lĩu toàn xã hội
và 80% ngoại tệ lưu hành dưới dạng tiền mặt.
1. Roman Abramovich (18,2), chủ nhân của Tập đoàn đầu tư Millhouse Capital,
Công ty dầu Sibneft Oil.
2. Vladimir Lisin (7), chủ nhân Tập đoàn thép Novolipetsk Steel.
3. Viktor Vekselberg (6,1), chủ nhân Tập đoàn Renova.
4. Oleg Deripaska (5,8), chủ nhân Tập đoàn nhôm Rusal.
5. Mikhail Fridman (5,8), chủ nhân Tập đoàn Alfa.
6. Vladimir Yevtushenkov (5,1), chủ nhân Tập đoàn viễn thông, địa ốc Sistema.
7. Alexei Mordashov (5,1), chủ nhân Tập đoàn luyện kim Severstal.
8. Vladimir Potanin (4,7), đồng chủ nhân Tập đoàn Interros.
9. Mikhail Prokhorov (4,7), đồng chủ nhân Tập đoàn Interros.
10. Vagit Alekperov (4,1), chủ nhân Tập đoàn dầu hỏa LUKoil.
Tạp chí Mỹ Fortune vừa công bố bản danh sách "40 under 40" - 40 người dưới 40
tuổi giàu nhất thế giới không kể nước Mỹ, trong đó có bảy người Nga. Theo tài
liệu nước ngoài, rất nhiều tỷ phú ở Nga hiện nay đã giàu lên một cách không
chính đáng trong quá trình tư nhân hóa ở Nga bắt đầu từ tháng 8-1991.
Trong nền kinh tế thị trường nói chung, tư nhân hóa là con đường khó tránh khỏi,
nhưng vấn đề là tư nhân hóa được tiến hành như thế nào. Tư nhân hóa, nếu không
đúng cách sẽ mở đường cho tham nhũng chiếm đoạt tập trung tài sản công vào
tay một nhúm người có mưu đồ và lộng hành chính trị, còn phần lớn người lao
động vẫn “trắng tay”, mà “tư nhân hóa” kiểu Nga là một bài học quý giá.
- Phân biệt giàu nghèo rõ rệt : chênh lệch trong thu nhập giữa tầng lớp giàu-nghèo
có lúc tới hàng nghìn lần( cụ thể là 1360 lần theo số liệu năm 1997)
- Sự lũng đoạn về chính trị,liên kết bè phái: Xuất thân từ một gia đình công nhân
gốc Do Thái ở đất nước Xô-viết, những năm 1989, khi nước Nga ở trong tình
cảnh “tranh tối tranh sáng”, Boris Berezovsky đã nhanh chóng trở thành một ông
trùm, có trong tay cả “đế chế tài chính riêng” hùng mạnh. Nhờ thế lực từ mối
quan hệ gần gũi với Tổng thống Yeltsin, Berezovsky phất lên như diều gặp gió.
Cũng chính đây là một trong những nhân vật “góp sức” cho những sai lầm lớn
trong di sản chính trị của ông Yeltsin. Nói đầy đủ hơn, Berezovsky đã thu lợi
khổng lồ từ những sai lầm của Yeltsin và sau đó cũng chính nhân vật này lại kéo
vị Tổng thống này vào những sai lầm mới.
Năm 1996, Yeltsin đã cho bán đấu giá thế chấp, tạo điều kiện cho các triệu phú
mua các xí nghiệp và trở thành những nhà tài phiệt. Sau một đêm, nước Nga thức
giấc với hàng loạt các nhà tài phiệt mới. Trong giới phất lên nhờ mua lại các
doanh nghiệp quốc doanh với giá bèo, dường như Berezovsky kiếm được nhiều
nhất.
II.5 Tư nhân hóa: Chơi "dao hai lưỡi"
Theocuốn sách Toàn cầu hóa và những mặt trái : Tư nhân hóa là quá trình
tất yếu, mang lại nhiều lợi ích cho cả doanh nghiệp và thị trường. Thế nhưng
chính nhãn quan hẹp hòi của IMF hay WB đã khiến tư nhân hóa ở nhiều nước trở
thành con dao hai lưỡi có tính sát thương cao, không mang lại mấy kết quả tốt
đẹp như hứa hẹn
Tư nhân hoá, Ở rất nhiều nước, cả phát triển và đang phát triển, chính phủ thường
bỏ quá nhiều công sức làm những việc mà họ không nên làm. Điều này làm cho
họ xao lãng những công việc mà họ nên làm. Vấn đề không phải là quy mô chính
phủ quá lớn mà ở chỗ chính phủ không làm việc phải làm. Nói chung, chính phủ
không có kỹ năng để điều hành nhà máy thép và thường làm cho mọi thứ rối loạn.
(Dù những nhà máy thép hiệu suất cao nhất trên thế giới lại là những nhà máy do
chính phủ thành lập và điều hành như ở Hàn Quốc, Đài Loan nhưng chúng là
những ngoại lệ
Nhìn chung, các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh có thể làm những việc đó
hiệu quả hơn. Đây là những luận điểm ủng hộ tư nhân hóa để chuyển những
doanh nghiệp quốc doanh thành doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, có những điều
kiện tiên quyết cần phải được thỏa mãn trước khi tư nhân hóa đem lại đóng góp
thực sự cho tăng trưởng kinh tế. Và cách tư nhân hóa cũng tạo ra sự khác biệt lớn.
Thật không may, IMF và Ngân hàng Thế giới lại tiếp cận vấn đề này từ một
hệ tư tưởng hẹp hòi: tư nhân hóa phải được tiến hành nhanh. Việc tính điểm được
áp dụng với các nước đang tiến hành chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang thị
trường. Ai tư nhân hóa nhanh hơn thì được điểm cao. Kết quả là, tư nhân hóa
không mang lại những lợi ích đã hứa hẹn. Những vấn đề nảy sinh từ thất bại này
đã tạo ra ác cảm đối với ý tưởng tư nhân hóa, IMF và những giả định sai lầm,
Năm 1998, tôi đã đến thăm những bản làng nghèo đói ở Marốc để xem xét tác
động của những dự án do Ngân hàng Thế giới và các tổ chức phi chính phủ
(NGO) thực hiện đến cuộc sống của những người dân nơi đây.
Tôi đã thấy, chẳng hạn, các dự án thủy lợi dựa trên cơ sở cộng đồng làm tăng
năng suất nông nghiệp mạnh mẽ thế nào. Nhưng có một dự án đã thất bại. Một tổ
chức phi chính phủ đã tận tình hướng dẫn nông dân địa phương nuôi gà trong một
trại gà mà ở đó phụ nữ nông thôn có thể làm việc song song với hoạt động canh
tác truyền thống .Họ nhận những con gà con 7 ngày tuổi từ một xí nghiệp gà của
chính phủ. Nhưng khi tôi đến thăm làng, trại gà mới này đã đóng cửa.Tôi đã thảo
luận với dân làng và các quan chức chính phủ cái gì đã dẫn đến sự việc này. Câu
trả lời thật đơn giản: IMF đã nói với chính phủ rằng họ không nên cung cấp gà
cho nông dân và vì thế chính phủ đã ngừng bán gà, Đơn giản giả định rằng khu
vực tư nhân sẽ ngay lập tức làm việc đó. Thực tế thì đã có một nhà cung cấp tư
nhân đến bán gà mới nở cho nông dân. Mặc dù tỷ lệ gà con chết trong hai tuần
tuổi đầu tiên rất cao, nhà cung cấp tư nhân này không muốn đưa ra bất kỳ bảo
hành nào. Nông dân không thể chịu được những rủi ro của việc mua gà con bởi
chúng có thể sẽ chết với số lượng lớn. Do đó, ngành sản xuất non trẻ được kỳ
vọng để thay đổi cuộc sống của nông dân nghèo đã bị đóng cửa Giả định nằm
sau thất bại này là điều mà tôi đã thấy thường xuyên. IMF đã giả định một cách
hết sức đơn giản rằng thị trường sẽ mau chóng nổi lên đáp ứng mọi nhu cầu, trong
khi trên thực tế, nhiều hoạt động của chính phủ sinh ra bởi vì thị trường thất bại
trong việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu. Ví dụ thì rất nhiều. Bên ngoài nước
Mỹ, điều này dường như quá rõ ràng. Khi nhiều nước châu Âu xây dựng hệ thống
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm tàn tật của họ, không hề tồn
tại những thị trường bảo hiểm niên kim (bảo hiểm hàng năm), không có hãng tư
nhân nào bán bảo hiểm cho những rủi ro đóng vai trò quan trọng trong đời sống
mỗi cá nhân. Ngay cả khi nước Mỹ đã tạo dựng hệ thống bảo hiểm xã hội, rất lâu
sau đó, giữa đáy sâu của cuộc Đại suy thoái, thị trường bảo hiểm niên kim đã
không hoạt động hiệu quả. Ngay cả hiện nay thì chẳng ai có thể mua bảo hiểm
chống lại những tác động của lạm phát .Lại nữa, ở Mỹ, một trong những lý do của
việc thành lập Hiệp hội Thế chấp Liên bang (Fannie Mae) là thị trường tư nhân
không cung cấp các khoản cho vay thế chấp với điều khoản hợp lý cho những gia
đình nghèo và trung lưu. Ở những nước đang phát triển, những vấn đề như vậy
còn tồi tệ hơn nhiều. Xóa bỏ các doanh nghiệp nhà nước có thể để lại một khoảng
trống lớn. Ngay cả khi cuối cùng khu vực tư nhân cũng nhảy vào khoảng trống
này, có thể có những mất mát lớn trong khoảng thời gian chuyển tiếp.
Ở Bờ Biển Ngà, như vẫn thường xảy ra, công ty điện thoại bị tư nhân hóa trước
khi có đủ các chế tài về cạnh tranh. Một hãng của Pháp mua lại doanh nghiệp của
chính phủ đã thuyết phục chính phủ cho độc quyền không chỉ trong các dịch vụ
điện thoại hiện có mà trong cả những dịch vụ điện thoại di động mới.
Hãng này đã nâng giá lên cao đến mức, chẳng hạn, các sinh viên đại học không
thể đủ tiền truy cập Internet, điều cần thiết để ngăn chặn sự gia tăng “khoảng cách
số” vốn đã rất lớn giữa người nghèo và người giàu giờ lại còn lớn hơn.
IMF cho rằng, điều quan trọng nhất là phải tiến hành tư nhân hóa nhanh chóng.
Những vấn đề khác như cạnh tranh và chế tài có thể để giải quyết sau. Nhưng
hiểm họa ở đây là, một khi quyền lợi cục bộ đã hình thành, những thế lực đó sẽ có
động lực và tiền bạc để duy trì vị trí độc quyền, dẫm nát các quy định cạnh tranh
lành mạnh và làm méo mó các tiến trình chính trị. Có một lý do mang tính bản
chất giải thích tại sao IMF ít quan tâm đến cạnh tranh và chế tài mà đáng ra nó
phải thế. Tư nhân hóa một độc quyền không bị kiểm soát có thể tạo thêm doanh
thu cho chính phủ và IMF thì lại quan tâm đến các vấn đề kinh tế vĩ mô, như mức
độ thâm hụt ngân sách, hơn là các vấn đề cơ cấu, như tính hiệu quả và tính cạnh
tranh của một ngành công nghiệp. Dù cho các hãng độc quyền được tư nhân hóa
đạt được hiệu suất sản xuất cao hơn so với doanh nghiệp quốc doanh, chúng cũng
thường hiệu quả hơn trong việc lợi dụng vị thế độc quyền. Kết quả là người tiêu
dùng phải chịu thiệt. Tác động của tư nhân hóa lên việc làTư nhân hóa không
những gây thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn thiệt hại cho người lao động. Tác
động của tư nhân hóa lên việc làm có lẽ là tranh cãi lớn giữa những người ủng hộ
và phản đối.
Những người ủng hộ cho rằng, bằng cách tư nhân hóa có thể loại bỏ những
công nhân năng suất thấp, trong khi những người phản đối khẳng định rằng sự cắt
giảm lao động diễn ra mà không quan tâm đến những hậu quả xã hội.
Thực tế, cả hai lập luận này đều có những điểm đúng. Tư nhân hóa thường biến
các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ trở nên có lãi bằng cách cắt giảm chi phí tiền
lương. Các nhà kinh tế thì thường quan tâm đến hiệu quả tổng hợp. Có những hậu
quả xã hội gắn liền với thất nghiệp mà những hãng tư nhân không bao giờ tính
đến.
Với bảo hiểm việc làm tối thiểu, các ông chủ có thể sa thải công nhân mà không
hoặc mất rất ít chi phí, bao gồm, trong trường hợp lạc quan nhất, là trợ cấp mất
việc. Tư nhân hóa đã bị chỉ trích mạnh mẽ bởi vì không giống như đầu tư mới –
đầu tư lập hãng mới chứ không phải mua lại các doanh nghiệp sẵn có, tư nhân
hóa thường là gây ra cắt giảm việc làm hơn là tăng thêm việc làm.
Ở các nước công nghiệp, người ta chấp nhận những đau đớn của việc sa thải công
nhân hàng loạt và giảm nhẹ chúng phần nào bằng hệ thống bảo hiểm thất nghiệp.
Ở những nước kém phát triển, chính phủ thường không phải trả tiền cho công
nhân thất nghiệp bởi vì rất hiếm có những chương trình bảo hiểm thất nghiệp.
Nhưng có thể có những thiệt hại xã hội dưới những hình thức tồi tệ nhất như bạo
lực đô thị, gia tăng tội phạm, rối loạn chính trị và xã hội. Ngay cả khi không có
những vấn đề đó, thiệt hại do thất nghiệp vẫn rất lớn.Đó là những lo lắng rộng
khắp trong công nhân, những người luôn cố gắng giữ lấy việc làm. Đó là cảm
giác chán ghét, là gánh nặng tài chính cho các thành viên gia đình, những người
cũng đang cố gắng để không bị sa thải. Đó là việc trẻ em bỏ học để về giúp gia
đình.Những thiệt hại xã hội như thế có ảnh hưởng kéo dài hơn nhiều so với sự
mất việc trước mắt. Chúng thường biểu hiện rõ nét khi một doanh nghiệp được
bán cho nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước chí ít cũng gắn bó với bối cảnh
xã hội trong nước và chỉ miễn cưỡng sa thải công nhân nếu họ biết công nhân khó
có thể tìm được việc nào khác.Các ông chủ nước ngoài, mặt khác, cảm thấy có
trách nhiệm lớn hơn đối với các cổ đông, tìm cách tối đa hóa giá trị cổ phiếu trên
thị trường bằng cách giảm chi phí. Họ cảm thấy không có nghĩa vụ với những cái
mà họ gọi là “lực lượng lao động dư thừa”.Việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà
nước là rất quan trọng và tư nhân hóa thường là một cách hiệu quả để làm điều
này. Nhưng biến những lao động có năng suất thấp trong doanh nghiệp nhà nước
trở thành thất nghiệp không làm tăng thu nhập quốc gia và dĩ nhiên không làm
tăng phúc lợi của công nhân.Bài học thật đơn giản và là điều tôi sẽ nhắc lại liên
tục: tư nhân hóa phải là một phần của một chương trình toàn diện mà đòi hỏi phải
tạo thêm việc làm mới đồng thời với quá trình cắt giảm việc làm không tránh khỏi
khi tư nhân hóa.Những chính sách kinh tế vĩ mô giúp tạo việc làm, bao gồm cả
chính sách lãi suất thấp, sẽ phải được áp dụng. Xây dựng thời gian biểu và lịch
trình phù hợp là quan trọng nhất. Đây không phải chỉ là vấn đề về thực dụng, về
“thực hiện”: đây là vấn đề về nguyên tắc.Tham nhũng – vấn đề nổi cộm trong quá
trình tư nhân hóa. Có lẽ vấn đề nổi cộm nhất thường xảy ra trong quá trình tư
nhân hóa là tham nhũng. Những lời hùng biện của chủ nghĩa thị trường tự do
khẳng định rằng tư nhân hóa sẽ làm giảm cái mà các nhà kinh tế gọi là “tìm kiếm
địa tô” (rent seeking) của các quan chức chính phủ, xà xẻo lợi nhuận của các
doanh nghiệp nhà nước hay ban phát hợp đồng và việc làm cho bạn bè.
Nhưng trái ngược với những điều kỳ vọng, tư nhân hóa làm cho mọi thứ tồi tệ
đến mức ở nhiều nước, ngày nay, tư nhân hóa được gọi lái đi một cách mỉa mai là
“tham nhũng hóa”.Nếu một chính phủ đã tham nhũng thì có rất ít bằng chứng cho
thấy tư nhân hóa có thể giải quyết vấn đề. Suy cho cùng, chính cái chính phủ
tham nhũng đã quản lý yếu kém doanh nghiệp nhà nước lại cũng sẽ quản lý yếu
kém quá trình tư nhân hóa.Ở nhiều nước, các quan chức chính phủ nhận ra rằng
họ không cần xà xẻo từng đồng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp nữa. Thay
vào đó, bằng cách bán một doanh nghiệp nhà nước thấp hơn giá thị trường, họ có
thể kiếm được khối tài sản lớn cho bản thân còn hơn để lại cho người sẽ kế vị họ
sau này.Thực tế, ngay bây giờ, họ đã lấy hết các khoản những quan chức kế vị họ
trong tương lai có thể xà xẻo. Không có gì ngạc nhiên, quá trình tư nhân hóa gian
lận này được sắp đặt để tối đa hóa số tiền mà các bộ trưởng trong chính phủ có
thể kiếm chác cho riêng họ, chứ hoàn toàn không phải số tiền sẽ thu về cho ngân
khố quốc gia, nói gì đến chuyện đem lại hiệu quả tổng thể cho nền kinh tế. Như
chúng ta sẽ thấy, Nga là trường hợp khủng khiếp về tác hại “tư nhân hóa bằng
mọi giá”.Những người ủng hộ tư nhân hóa tự thuyết phục một cách ngây thơ
rằng, những thiệt hại này có thể được bỏ qua bởi vì sách giáo khoa kinh tế dường
như chỉ ra rằng, một khi quyền sở hữu tư nhân được xác lập rõ ràng, những người
chủ mới sẽ đảm bảo sao cho tài sản được quản lý hiệu quả. Thế thì tình hình sẽ
được cải thiện về dài hạn dù cho phải tồi tệ trong ngắn hạn. Họ không nhận thấy
rằng, nếu không có một cấu trúc luật pháp và thể chế thị trường phù hợp, những
ông chủ mới chỉ có động lực để bòn rút tài sản hơn là sử dụng chúng như cơ sở để
mở rộng sản xuất.Kết quả là, ở Nga và nhiều nước khác, tư nhân hóa không trở
thành một sức mạnh hiệu quả cho tăng trưởng như lẽ ra là thế. Trong thực tế, đôi
khi tư nhân hóa còn gắn liền với suy giảm tăng trưởng và làm xói mòn lòng tin
vào các thể chế dân chủ và thị trường.
Tóm lại, nhìn nhận theo hướng tích cực, quá trình tư nhân hóa diễn ra trong
thời gian qua ở các nước Tây Âu đã để lại nhiều cơ hội tiếp tục phát triển trong
tương lai. Để tiếp tục tư nhân hóa thì các chính phủ cần bỏ sự kiểm soát và cho
phép các công ty được tự xoay sở trên các thị trường mới nổi ở châu Âu. Vấn đề
ở chỗ, tư nhân hóa không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Các thị trường
chứng khoán lành mạnh hơn là một điều kiện tiên quyết. Nhưng có một đòi hỏi
khẩn thiết hơn là sự sẵn sàng chấp nhận tư nhân hóa, và để tạo ra những lợi ích
đầy đủ nhất thông qua tư nhân hóa thì các chính phủ cũng cần chấp nhận sự
không can thiệp vào hoạt động các doanh nghiệp tư nhân hóa./.…
III.
Kết luận, kiến nghị
Tư nhân hoá thể hiện việc chung tay cung cấp các loại dịch vụ công,
đó là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân và tổ chức do nhà nước, tư nhân cùng can thiệp
vào việc cung cấp nhằm đảm bảo trật tự lợi ích chung và công bằng xã hội.
việc tư nhân hoá là một trong những cách thức để nhà nước chia xẻ
công việc mà nhà nước phải đảm nhận, và nó chỉ có thể diễn ra khi nhà
nước muốn chia xe công việc của mình, tư nhân đủ mạnh để đảm nhận công
việc đó, việc tư nhân hoá là sự phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển
thé giới song tư nhân hoá không phải là tất cả và thay thế công việc nhà
nước, nhà nước vẫn phải đảm nhận công việc khi mang tính chất chính tri,
các việc tư nhân không muốn làm, các việc tư nhân không có khả năng làm,
việc tư nhân không được làm.