Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thực tiễn áp dụng trọng tài thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.7 KB, 13 trang )

LUẬT THƯƠNG MẠI 2

MỤC LỤC
Mở đầu

2

Nội dung
I. Phân tích phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại

2

1. Bản chất của Trọng tài thương mại

3

2. Các hình thức trọng tài thương mại

3

a. Trọng tài vụ việc ( trọng tài ad- hoc )

3

b. Trọng tài thường trực

4

3. Thẩm quyền của trọng tài


7

4. Thủ tục tố tụng trọng tài

8

5. Thủ tục tố tụng trọng tài

9

II. Thực tiễn áp dụng trọng tài thương mại ở Việt Nam

9

1. Thực tiễn áp dụng

9

2. Hướng hoàn thiện

12

Kết luận

12

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

1



LUẬT THƯƠNG MẠI 2

MỞ ĐẦU
Trong hoạt động kinh doanh, vì lợi ích của mình, thương nhân có
thể vi phạm vào lợi ích của thương nhân khác. Tranh chấp tất yếu sẽ xảy
ra đòi hỏi phải được giải quyết để đảm bảo quyền lợi chính đáng của bên
bị vi phạm. Nếu chúng ta hiểu tranh chấp là những mâu thuẫn, bất đồng
quan điểm của các bên trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ quan hệ giữa họ với nhau thì giải quyết tranh chấp là cách thức hay
phương pháp để loại trừ mâu thuẫn, bất đồng đó nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của các bên.
Do trình độ phát triển kinh tế và khoa học pháp lý cũng như do ảnh
hưởng của các yếu tố về phong tục, tập quán nên cơ chế để giải quyết
tranh chấp của các quốc gia được quy định khác nhau. Tuy nhiên, trong
số các phương pháp thì có thể nhận thấy, phương pháp giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài thương mại tuy là phương pháp mới
nhưng bước đầu đã đạt được kết quả tốt . Để có thể tìm hiểu rõ hơn về
phương pháp này, em xin chọn đề tài bài tập học kì : Phân tích phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại và
thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.

NỘI DUNG
Hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại là
hình thức giải quyết tranh chấp thương mại hiện đại nhất trong các hình
thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án. Đây cũng là hình thức giải quyết
tranh chấp thương mại phổ biến của các nước trên thế giới hiện nay.
I. Phân tích phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại


Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

2


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

1.

Bản chất của Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại có hai nghĩa. Trong nghĩa thứ nhất, Trọng tài
thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp ngoài thủ tục tư pháp do
các bên có tranh chấp lựa chọn để giải quyết tranh chấp thông qua hoạt
động của Trọng tài viên. Trong nghĩa thứ hai, Trọng tài thương mại là
một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động với tư cách là một tổ chức nghề
nghiệp, do các Trọng tài viên thành lập ra để giải quyết các tranh chấp
thương mại. Trọng tài thương mại do các Trọng tài viên thành lập ra để
giải quyết các tranh chấp thương mại khi được các nhà kinh doanh yêu
cầu như một loại dịch vụ pháp lý và được hưởng lệ phí trọng tài do các
bên yêu cầu phải trả, tức là nó hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi, chứ
không được hưởng ngân sách nhà nước.
2. Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc
( trọng tài ad – hoc ) và trọng tài thường trực.
a.Trọng tài vụ việc ( trọng tài ad- hoc )
Là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để
giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên tranh chấp và trọng tài sẽ tự chấm
dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trong tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng

rộng rãi ở các nước trên thế giới. Pháp luật về trọng tài của các nước trên
thế giới đều ghi nhận sự tồn tại của hình thức trọng tài này. Tuy nhiên
quy định của pháp luật các nước cũng ở mức độ sâu rộng khác nhau. Bản
chất của Trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau
đây:
- Thứ nhất, hình thức Trọng tài vụ việc do các bên có tranh chấp
thành lập ra để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, giải quyết

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

3


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

xong vụ tranh chấp đó thì Trọng tài tự chấm dứt sự tồn tại của nó.
Điều này nói lên tính chất “ vụ việc” của hình thức trọng tài này.
- Thứ hai, do tính chất vụ việc mà hình thức Trọng tài này không có
trụ sở, không có bộ máy quản lý điều hành, không có danh sách
Trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được
chỉ định có thể là người có tên trong danh sách hoặc ngoài danh
sách Trọng tài viên của bất cứ Trung tâm Trọng tài nào.
- Thứ ba, do tính chất vụ việc mà hình thức trọng tài này không có
cả quy tắc tố tụng riêng. Trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành
lập khi phát sinh tranh chấp nên quy tắc tố tụng để giải quyết vụ
tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Tuy nhiên, để
tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào việc xây
dựng quy tắc tố tụng, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa
chọn bất kì một quy tắc tố tụng phổ biến nào đó, mà thông thường
là quy tắc tố tụng của các Trung tâm Trọng tài có uy tín ở trong

nước hoặc quốc tế. Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, nếu
các bên tranh chấp không thỏa thuận lựa chọn một quy tắc tố tụng
cụ thể nào thì trọng tài vụ việc áp dụng thủ tục tố tụng quy định tại
Pháp lệnh trọng tài thương mại để giải quyết vụ tranh chấp.
Hình thức trọng tài vụ việc có những ưu thế sau đây:
- Có thể giải quyết một cách nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn
kém.
- Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự không bị giới
hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có mà có thể lựa chọn bất kì
trọng tài viên nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất kì
trung tâm trọng tài nào;
- Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc
tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Trong khi đó, ở hình
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

4


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

thức trọng tài thường trực, các bên chủ yếu chịu ràng buộc bởi quy
tắc tố tụng của chính trung tâm trọng tài mà các bên đã lựa chọn.
b.Trọng tài thường trực
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức
dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài ( Trung tâm
trọng tài quốc tế Singapore, Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế
Australia…) các hiệp hội trọng tài ( Hiệp hội trọng tài Hoa Kì, Hiệp hội
trọng tài Nhật Bản ) hay các viện trọng tài ( Viện trọng tài StockholmThụy Điển ) nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các
trung tâm trọng tài.
Về bản chất, trọng tài ở hầu hết các nước trên thế giới đều tồn tại dưới

hình thức trọng tài phi chính phủ ( tổ chức xã hội nghề nghiệp ), không
nằm trong bộ máy nhà nước. Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường
trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài
là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản
riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến
của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép, chứ không phải được thành lập bởi Nhà nước.
Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà
không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước. Trọng
tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền
lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
Là tổ chức phi chính phủ nhưng các trung tâm trọng tài vẫn luôn
đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản
lý đối với mọi mặt của đời sống xã hội.

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

5


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

- Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc
lập với nhau. Trung tâm trọng tài là tổ chức thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện của pháp nhân, bao gồm:
+ được thành lập hợp pháp.
+ Cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
+Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách

nhiệm bằng tài sản đó.
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập ( Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 )
- Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản,
gọn nhẹ. Cơ cấu và tổ chức của trung tâm trọng tài gồm có ban
điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Ban điều hành của
trung tâm trọng tài gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch
trung tâm trọng tài và có thể tổng thư kí trung tâm trọng tài do chủ
tịch trung tâm trọng tài cử.
Bên cạnh ban điều hành, trung tâm trọng tài còn có các trọng tài
viên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Các
trọng tài viên tham gia vào việc giải quyết tranh chấp khi được
chọn hoặc chỉ định.
- Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động
và có quy tắc tố tụng riêng. Mỗi trung tâm trọng tài tự xác định về
lĩnh vực hoạt động của mình tùy thuộc vào khả năng chuyên của
đội ngũ trọng tài viên và phải được ghi rõ trong điều lệ của trung
tâm trọng tài. Trong quá trình hoạt động, các trung tâm trọng tài có
quyền mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động nhưng
phải được sự chuẩn thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành
bởi các trọng tài viên của trung tâm. Mỗi trung tâm trọng tài đều có
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

6


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

danh sách riêng về trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ

định trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên
duy nhất để giải quyết vụ tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh
sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Vì vậy, hoạt động xét
xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên
của chính trung tâm. Đặc điểm này có sự khác biệt so với giải
quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài vụ việc.
3. Thẩm quyền của trọng tài
Để xác định thẩm quyền của trọng tài đối với một vụ tranh chấp cụ thể
cần có những căn cứ sau:
Thứ nhất, tranh chấp giữa các bên là tranh chấp phát sinh từ hoạt động
thương mại.
Theo khoản 2 Điều 2 PLTTTM các TCTM thuộc thẩm quyền giải quyết
của trọng tài là các tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện một hay nhiều
hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm: mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký
gửi; thuê, cho thuê; thuê mua, xây dựng, tư vấn kĩ thuật… vẫn chuyển
hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt và
đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài giữa các bên có hiệu lực pháp luật.
Thỏa thuận trọng tài được coi là có hiệu lực pháp luật nếu không rơi vào
các trường hợp vô hiệu quy định tại Điều 10 PLTTTM.
Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi tranh chấp đó phát
sinh từ hoạt động thương mại, giữa các bên có thỏa thuận trọng tài và
thỏa trọng tài đó có hiệu lực pháp luật. Dự thảo Luật trọng tài có xu
hướng mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài,
theo đó trọng tài không chỉ giải quyết các TCTM mà còn giải quyết các
tranh chấp khác phát sinh trong lĩnh vực dân sự, lao động, bao gồm cả
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

7



LUẬT THƯƠNG MẠI 2

các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng và ngoài hợp đồng, trừ những
quan hệ liên quan tới lợi ích công cộng và trật tự công cộng. Đây là một
quy định hợp lý, tiến bộ, phù hợp với tính chất của hình thức trọng tài,
phù hợp với nguyên tắc tự do định đoạt của các bên, bao gồm cả quyền tự
do định đoạt phương thức giải quyết tranh chấp.
4. Thủ tục tố tụng trọng tài
Thủ tục tố tụng trọng tài được PLTTTM quy định có sự khác nhau giữa
hai phương thức trọng tài là trung tâm trọng tài và hội đồng trọng tài do
các bên thành lập. Những nội dung cơ bản của thủ tục tố tụng trọng tài
bao gồm:
- Khởi kiện và thụ lý đơn kiện
- Bị đơn gửi bản tự bảo vệ
- Thành lập hội đồng trọng tài
- Chuẩn bị giải quyết tranh chấp
- Hòa giải
- Phiên họp giải quyết tranh chấp
- Ra quyết định trọng tài
5. Thi hành quyết định trọng tài
Để phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật hiện hành đã quy định cơ chế
đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài bằng sức mạnh cưỡng chế nhà
nước. Theo Điều 57 PLTTTM, sau thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày hết
thời hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu một bên không tự nguyện thi
hành, cũng không yêu cầu hủy quyết định trọng tài thì bên được thi hành
quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp
tỉnh nơi có trụ sở, nơi cứ trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi
hành quyết định trọng tài.

Quy định này là điểm tiến bộ đáng kể nhất của PLTTTM so với các văn
bản pháp luật về trọng tài trước đó. Việc đảm bảo thi hành trên thực tế
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

8


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

quyết định trọng tài bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước là yếu tố quyết
định giúp khắc phục những hạn chế của phương thức tài phán trọng tài.
Tuy nhiên việc cho phép các bên tranh chấp có thể yêu cầu cơ quan thi
hành án cưỡng chế thi hành quyết định của trọng tài mà không cần thông
qua sự xem xét, công nhận của tòa án như quy định của PLTTTM là vấn
đề cần được bàn luận thêm.
II. Thực tiễn áp dụng trọng tài thương mại ở Việt Nam
1. Thực tiễn áp dụng
Mặc dù giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài đem lại cho các
doanh nghiệp nhiều thuận lợi, tuy nhiên, qua nghiên cứu của Phòng
Thương mại và công nghiệp Việt Nam thời gian qua cho thấy, hiện cả
nước có trên 300 nghìn doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp tìm đến
để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất ít.
Hiện trạng hoạt động của các trung tâm trọng tài ở nước ta khá ảm đạm,
số lượng các vụ tranh chấp mà các TTTT đã thụ lý giải quyết dừng lại ở
những con số rất khiêm tốn.
Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam ( VIAC ) từ 2002 – 2008 đã tiếp
nhận và thụ lý 198 vụ và trong đó tranh chấp quốc tế là 149 vụ ( chiếm
75% ), tranh chấp trong nước là 49 vụ ( chiếm 25% ). Đáng lưu ý là năm
2004 VIAC đã thụ lý 26 vụ ( số vụ có tranh chấp có yếu tố nước ngoài là
18 vụ chiếm 69% ) tăng 85,7% so với năm 2003 ( 14 vụ ). Năm 2005 thụ

lý 18 vụ. Năm 2006 VIAC có số vụ thụ lý cao nhất từ trước đến nay với
36 vụ, trong đó có vụ tranh chấp lên 3,6 triệu USD, đã giải quyết 18 vụ.
Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã đẩy
những con số này tăng lên nhanh chóng. Cụ thể: năm 2007 thụ lý 30 vụ,
năm 2008 thụ lý 48 vụ ( chiếm 50 – 60 % tổng số vụ tranh chấp ). Riêng
năm 2009, VIAC đã thụ lý và giải quyết 2 vụ có giá trị trên 10 triệu USD,

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

9


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

vượt xa rất nhiều con số phổ biến là vài chục hoặc vài trăm nghìn USD/
vụ như trước đây.
Tính ra ở Việt Nam, trung bình mỗi năm, Trung tâm trọng tài Quốc tế
Việt Nam VIAC chỉ xử lý 20-25 vụ, các trung tâm khác chỉ khoảng 5-7
vụ, thậm chí có trung tâm không xử lý vụ nào. Trong khi đó, trên thế
giới, các tranh chấp thương mại vẫn phổ biến được giải quyết bằng trọng
tài, như: Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Singapore 119 vụ, Hiệp
hội trọng tài Mỹ 621 vụ, Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kong 448
vụ...
Như vậy, thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở
nước ta rất ít ỏi, còn hạn chế. Thực tế các tranh chấp thương mại được
giải quyết bằng trọng tài chủ yếu tập trung tại TTTT Quốc tế Việt Nam
bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Ngoài TTT Quốc
tế Việt Nam hoạt động có hiệu quả, ngày càng khẳng định được uy tín và
vị thế của mình với số vụ thụ lý giải quyết ngày càng tăng, các TTTT còn
lại hoạt động rất mờ nhạt, gần như trong tình trạng không có việc làm,

các TTTT này chủ yếu dừng lại ở việc triển khai thi hành pháp lệnh trọng
tài thương mại về việc sửa đổi, bổ sung điều lệ hoạt động và quy tắc tố
tụng. Đây là một thực trạng đáng buồn và đáng lo ngại cho sự phát triển
của hoạt động trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Tình trạng hoạt động mờ nhạt của các trung tâm trọng tài ở Việt Nam
hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, do cả phía các doanh
nghiệp và phía các TTTT.
Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa coi trọng phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Các thương nhận Việt Nam khi kí
kết hợp đồng kinh doanh với nhau hoặc với đối tác nước ngoài thường
chưa coi trọng vấn đề giải quyết tranh chấp, không nghĩ tới việc xảy ra
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

10


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

tranh chấp sau này nên không thỏa thuận ngay về hình thức, cơ quan giải
quyết tranh chấp vì thế khi xảy ra tranh chấp các bên thường lúng túng
trong việc lựa chọn phương thức giải quyết sao cho kịp thời và hiệu quả.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa chịu cập nhật thông tin, chưa có
những kiến thức và sự am hiểu cần thiết các vấn đề liên quan tới phương
thức trọng tài. Không ít doanh nghiệp có quan niệm rằng, nếu đôi bên
không thể tự giải quyết được tranh chấp thì chỉ còn cách đưa tranh chấp
đó ra tòa án giải quyết. Một số doanh nghiệp khác tuy có biết đến sự tồn
tại của trọng tài nhưng chính sự thiếu kiến thức và thông tin đã gây ra
tâm lý e ngại cho họ khi cân nhắc lựa chọn trọng tài thương mại để giải
quyết tranh chấp.

Thứ hai, về phía các trung tâm trọng tài:
Mạng lưới các TTTT ở nước ta hiện nay quá thưa thớt, các TTTT hoạt
động thực sự hiệu quả chỉ đếm trên đầu ngón tay. Hoạt động của các
TTTT chỉ dựa vào nguồn vốn của các nhà sáng lập, nguồn thu từ việc
giải quyết các vụ tranh chấp nhưng các vụ tranh chấp quá ít, nguồn thu
rất hạn hẹp làm hạn chế khả năng hoạt động và phát triển của các trung
tâm.
Các TTTT chưa có các động thái để quảng bá, tiếp thị về hình ảnh, uy tín
của mình tới giới doanh nhân và công chúng. Đội ngũ trọng tài viên ở
Việt Nam vừa thiếu vừa yếu, thiếu về số lượng và yếu về trình độ.Ngoài
ra pháp luật về trọng tài thương mại còn có một số điểm bất cập, thiếu
hợp lý, còn đang trong quá trình xây dựng, sửa đổi, cơ chế thi hành quyết
định trọng tài do mới được thiết lập nên vận hành chưa thực sự trôi chảy
đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của việc áp dụng phương pháp
trọng tài để giải quyết TCTM trong thực tiễn.
2. Hướng hoàn thiện
- Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

11


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

- Hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức
- Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nhân sự
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

KẾT LUẬN
Phương pháp giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài là một

phương pháp mới xuất hiện. Bước đầu nó đã đạt được những kết quả nhất
định. Tuy nhiên, để có thể mở rộng và đạt được hiệu quả tối đa của
phương pháp này thì các cơ quan chức năng cần có những phương án cụ
thể nhằm tiếp thu và áp dụng phương pháp trọng tài thương mại vào thực
tế, tương tự như các nước phát triển trên thế giới đã và đang sử dụng.

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

12


LUẬT THƯƠNG MẠI 2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thương mại Việt Nam 2005
2. Giáo trình Luật thương mại 2 ( ĐH Luật Hà Nội )
3. Pháp lệnh trọng tài thương mại 25/2/2003
4. Bộ luật tố tụng dân sự 2004
5. Luật doanh nghiệp
6. Nghị định 25/2004/NĐ-CP
7. chinhphu.vn

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm – MSSV: 351419

13



×