MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………….. 1
NỘI DUNG……………………………………………………………………….. 1
I – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT
QUẢN
LÝ 1
THUẾ………………………………………………………………….
1. Khái niệm quản lý thuế……………………………………………………... 1
2. Khái niệm pháp luật quản lý thuế…………………………………………... 2
3. Khái niệm cơ chế tự khai, tự nộp…………………………………………...
2
II - CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ TÍNH, TỰ NỘP THUẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ………………………………………………….. 2
1. Tự khai, tự tính thuế………………………………………………………... 2
2. Tự nộp thuế…………………………………………………………………. 6
III – THỰC TRẠNG VIỆC THỰC THI CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ TÍNH, TỰ
NỘP THUẾ HIỆN NAY…………………………………………………………... 8
1. Khái quát về tình hình thực hiện cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế ở một
số địa phương………………………………………………………………. 8
2. Những khó khăn và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả……………………. 10
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..
13
MỞ ĐẦU
Quản lý thuế là hoạt động đảm bảo thực thi chính sách thuế trong thực tế, trong
đó vai trò của cơ quan thuế rất quan trọng khi tác động lên đối tượng nộp thuế để đảm
bảo tính hiệu lực - đáp ứng mục đích thu cho ngân sách nhà nước. Một trong những nội
1
dung quan trọng của pháp luật quản lý thuế là cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế trong
đó, đề cao vai trò, tầm quan trọng của người nộp thuế. Đây được xem là một quy định
khá mới mẻ đối với hệ thống quản lý thuế của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, qua việc tìm
hiểu các quy định pháp luật về vấn đề này, ta có thể thấy, pháp luật đã xây dựng một
hành lang pháp lý rất rõ ràng, chi tiết, cụ thể để người nộp thuế có điều kiện tốt nhất
trong việc thực hiện cơ chế này. Bên cạnh đó, theo tinh thần của một số điều luật cơ
bản, cơ quan quản lý thuế cũng dễ dàng hơn trong việc thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp của các chủ thể nộp thuế. Trong phạm vi bài tiểu
luận nhỏ này, nhóm hai xin được lựa chọn đề tài: “Chứng minh pháp luật quản lý
thuế tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc thực thi cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp
thuế ở nước ta hiện nay”.
NỘI DUNG
I – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ
THUẾ
1. Khái niệm quản lí thuế
Khái niệm quản lí thuế có thể được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng: quản lí thuế là quản lí nhà nước trong lĩnh vực thu, là quá trình
xây dựng, phát triển hệ thống thuế, ban hành các luật thuế, tổ chức, quản lí, điều hành,
thanh tra, giám sát việc thực hiện các luật thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, xử lí vi phạm
pháp luật thuế...
Theo nghĩa hẹp: quản lí thuế là quản lí hành chính nhà nước về thuế là việc tổ
chức quản lí, điều hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt động chấp hành kế
hoạch và trình tự nhất định được thực hiện bởi cơ quan quản lí thuế
Luật quản lí thuế của Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 10 số 78/2006/QH11 ngày 29
tháng 11 năm 2006 tiếp cận vấn đề quản lí thuế theo nghĩa hẹp. Luật không đưa ra khái
niệm cụ thể về quản lí thuế mà chỉ nêu ra các nội dung trong quản lí thuế tại Điều 3. Từ
điều luật này có thể thấy pháp luật quản lí thuế bao gồm các quy định mang tính thủ tục
được xây dựng để thực hiện các chính sách thuế của nhà nước.
2. Khái niệm về pháp luật quản lý thuế
2
Do thuế có tính chất bắt buộc trên phạm vi rộng và mỗi loại thuế lại có đối tượng
điều chỉnh khác nhau nên để có thể quản lý thuế thì nhà nước phải đưa ra một hệ thống
pháp luật thuế được ghi nhận cụ thể dưới hình thức văn bản pháp luật. Trong đấy, một
văn bản quy định một loại thuế bao gồm các nội dung chủ yếu như: tên của văn bản
pháp luật thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, các khâu của quá trình thu nộp
thuế, miễn giảm thuế, đối tượng thu thuế và xử lý vi phạm….tùy theo quy mô áp dụng
của từng loại thuế mà các văn bản pháp luật có mức độ chi tiết khác nhau.
Vậy, chúng ta có thể khái quát lại khái niệm pháp luật quản lý thuế như sau:
“Pháp luật quản lý thuế là việc nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về thuế quy
định cách quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ
quan quản lý thuế quản lý thu để giải quyết các mục tiêu định trước của nhà nước”.
3. Khái niệm cơ chế tự khai, tự nộp
Cơ chế tự khai, tự nộp là một phương thức quản lý thuế được xây dựng trên nền
tảng sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế, được cụ thể bằng việc đối tượng nộp thuế thực
hiện các nghĩa vụ mà Luật quy định, cơ quan thuế được tổ chức các biện pháp quản lý
thuế phù hợp với nguyên tắc đó1
II – CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ TÍNH, TỰ NỘP THUẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT QUẢN LÝ THUẾ.
1. Tự khai, tự tính thuế
1.1. Đăng ký
Đăng kí thuế được quy định khá cụ thể tại Chương II của Luật quản lí thuế 2006
và Thông tư 85/2007/TT – BTC hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế về việc đăng ký
thuế.
Theo quy định tại điều 1 phần I Thông tư 85, đăng ký thuế là việc người nộp thuế
kê khai những thông tin của người nộp thuế theo mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ
quan quản lý thuế để bắt đầu thực hiện nghĩa vụ về thuế đối với Nhà nước theo các quy
định của pháp luật.
Đối tượng đăng kí thuế được quy định tại Điều 21 Luật quản lý thuế và điều 2
phần I Thông tư 85. Theo quy định tại Điều 21 Luật quản lý thuế, các đối tượng kê khai
1
Hà Tiếp Nam, Phương thức quản lý thuế theo mô hình tự kê khai, tự nộp thuế, tr. 1
3
thuế bao gồm: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh; Cá nhân có thu nhập thuộc
diện chịu thuế thu nhập cá nhân; Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế
thay; Tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật về thuế. Để bổ sung cho quy
định này, điều 2 Thông tư 85 đã làm rõ một số quy định về tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay và bổ sung thêm một số đối tượng đăng ký thuế khác
như tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh nhưng không hiện diện tại Việt Nam và có
thu nhập phát sinh tại Việt Nam,...
Thời hạn đăng ký thuế được xác định là 10 ngày làm việc. Thời điểm bắt đầu tính
thời hạn được quy định khác nhau đối với từng đối tượng nộp thuế khác nhau. Về hồ sơ
đăng ký thuế, để làm rõ quy định khái quát tại Điều 23 Luật quản lý thuế, điều 2 phần II
Thông tư 85 đã xác định nội dung hồ sơ đăng ký thuế đối với từng đối tượng nộp thuế
khác nhau. Có thể thấy, các quy định này được xây dựng khá chi tiết, mang tính hướng
dẫn cao đối với các đối tượng nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật quản lý thuế còn quy định khá cụ thể các nội dung khác như:
Hồ sơ đăng ký thuế (Điều 23), Địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế (Điều 24), Trách
nhiệm của cơ quan thuế, công chức thuế trong việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế (Điều
25), Cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế (Điều 26), Thay đổi thông tin đăng ký thuế
( Điều 27 ), Sử dụng mã số thuế (Điều 28), Chấm dứt hiệu lực mã số thuế (Điều 29) và
một số quy định khác của Thông tư 85.
Qua việc tìm hiểu một số quy định của pháp luật quản lý thuế về đăng ký thuế, ta
có thể thấy, đa phần nội dung các điều luật được diễn đạt theo hình thức liệt kê. Câu
chữ trong điều luật hầu hết khá đơn giản, dễ hiểu, minh bạch, không đa nghĩa. Có thể
lấy ví dụ đơn cử như ở điều 22 quy định về thời hạn đăng ký thuế, đơn vị tính thời hạn
được xác định là “10 ngày làm việc” thay vì “10 ngày”. Việc diễn đạt như trên đối với
đơn vị tính thời hạn đăng ký thuế đã tạo một cơ sở pháp lý khá cụ thể, một mặt là điều
kiện thuận lợi cho các đối tượng nộp thuế trong việc xác định thời hạn để có thể thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình; mặt khác, cũng giúp các cơ quan chức năng trong việc
quản lý việc đăng ký thuế của các chủ thể. Để áp dụng cơ chế quản lý thuế tiên tiến đòi
hỏi đối tượng nộp thuế phải nắm chắc các quy định của pháp luật để tự mình thực hiện
các quyền và nghĩa vụ. Muốn vậy, các quy định của pháp luật phải đơn giản, không mơ
4
hồ, tránh tình trạng người dân có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Các quy định của
pháp luật về đăng ký thuế đã đáp ứng được điều này.
1.2.
Khai thuế, tính thuế
Vấn đề kê khai thuế được quy định khá cụ thể trong Chương III Luật quản lý
thuế, Điều 4 đến Điều 19, Điều 25, Điều 26 Nghị định 85/2007/NĐ – CP ngày
25/05/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế.
Điều 30 Luật quản lí thuế quy định: “Người nộp thuế phải khai chính xác, trung
thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp
đủ các loại chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan quản lý thuế.”
Như vậy, pháp luật đã trao quyền khai thuế cho người nộp thuế. Phương thức này yêu
cầu đối tượng nộp thuế kiểm soát dữ liệu thuế để thể hiện sự tuân thủ tự nguyện và
đáng tin cậy bằng việc lưu giữ sổ sách, tính toán thuế và kê khai các bản khai thuế.
Phương thức cũng yêu cầu cơ quan thuế tập trung vào điều tra, như vậy sẽ loại trừ hoặc
tối thiểu hoá quá trình cán bộ thuế đánh giá thuế bóp nghẹt sự tuân thủ tự nguyện. Quy
định này tạo sự linh hoạt đối với người nộp thuế, tăng tính chính xác trong việc kê khai
thuế do người kê khai cũng chính là người nộp thuế - người có nghĩa vụ. Qua đó, có thể
thấy, những đối tượng này có thể xác định và kê khai chính xác nhất về số tiền thuế
phải nộp của mình.
Bên cạnh đó, Điều 30 Luật Quản lí thuế và Điều 4 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lí thuế cũng quy
định, người nộp thuế có trách nhiệm tự tính số tiền thuế phải nộp ngân sách nhà nước
do mình kê khai. Quy định tự tính thuế đã tiết kiệm thời gian, công sức, nhân lực cho
các cơ quan thuế, tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế, nâng cao trách nhiệm
pháp lý của đối tượng nộp thuế, phát huy tối đa quyền tự chủ trong việc tự tính thuế của
cá nhân, và để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đối tượng tính thuế, nhà nước, thông
qua các văn bản quy phạm pháp luât đã quy định rất cụ thể về căn cứ tính thuế và cách
tính thuế.
Tuy nhiên, khi đối tượng tính thuế không có ý thức khai thuế, tính thuế chính
xác, trung thực, hoặc cố tình chây ỳ, kéo dài thời gian nộp thuế thì sẽ bị các cơ quan
5
nhà nước có thẩm quyền ấn định thuế. Điều 25 và Điều 26 Nghị định 85 quy định khá
rõ các trường hợp này. Có thể thấy, tuy cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế đề cao vai
trò của đối tượng nộp thuế, trao cho đối tượng nộp thuế sự chủ động nhất định trong
việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình nhưng vẫn không phủ nhận vai trò của cơ
quan quản lý thuế. Cụ thể, cơ quan quản lý thuế vẫn đóng vai trò kiểm tra, giám sát quá
trình thực hiện hoạt động kê khai thuế, khi phát hiện có sai sót, cơ quan này có quyền
ấn định số thuế phải nộp,… đối với đối tượng nộp thuế. Quy định này đảm bảo công
bằng cho các đối tượng nộp thuế khác, đảm bảo nguồn thu về thuế cho ngân sách nhà
nước, và cũng là cơ chế để thúc đẩy ý thức tự tính thuế chính xác, đầy đủ, trung thực
của các đối tượng tính thuế.
Điều 31 Luật quản lý thuế quy định rõ ràng về hồ sơ khai thuế. Theo cơ cấu của
điều luật, có thể thấy, hồ sơ khai thuế đối với từng loại thuế khai và nộp theo tháng;
theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế; đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu; đối với trường
hợp chấm dứt hoạt động, chấm dứt hợp đồng được phân chia tách bạch với các giấy tờ
cần thiết đối với từng loại hồ sơ là khác nhau. Bên cạnh đó, Điều 7 đến Điều 18 Nghị
định 85 lại xác định cụ thể việc khai thuế đối với từng loại thuế như khai thuế giá trị gia
tăng (Điều 7), khai thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 8),… Mỗi điều luật thường bao
gồm hai phần: phần thứ nhất là các trường hợp khai thuế (theo quý, theo tháng, theo
năm,…) đối với từng loại thuế; phần thứ hai quy định các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ
khai thuế đối với loại thuế đó. Có thể thấy, Luật quản lý thuế và Nghị định 85 đã có
những quy định rất cụ thể và mạch lạc, hệ thống các quy định về hồ sơ khai thuế được
bao quát theo cả chiều dọc và chiều ngang, một mặt, tạo sự đồng bộ trong hồ sơ khai
thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, xác minh và chứng thực tính chính xác
của một hồ sơ khai thuế; mặt khác, giúp các đối tượng nộp thuế thực hiện hoạt động
khai thuế một cách dễ dàng thông qua hệ thống các quy định hướng dẫn vô cùng chi
tiết.
Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế được quy định cụ thể tại Điều 32 Luật quản lý thuế.
Tương tự như cách quy định đối với hồ sơ khai thuê, thời hạn khai thuế được xác định
riêng đối với từng loại thuế khai và nộp theo tháng, theo năm, đối với hàng hóa xuất –
nhập khẩu,… Tiếp đó, tại Điều 33 và Điều 34, pháp luật đã dự trù những trường hợp
6
được gia hạn nộp hồ sơ thuế, khai bổ sung hồ sơ thuế. Điều này cho thấy sự linh hoạt
trong các quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng khai thuế
trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, cho phép áp dụng các ngoại lệ trong các điều
kiện bất khả kháng, tồn tại thiếu sót do hạn chế về khả năng nhận thức pháp luật hoặc
các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, liên quan đến vấn đề này, pháp luật quản lý thuế còn quy định một số
nội dung khác như: Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế
trong việc tiếp nhận hồ sơ khai thuế (Điều 35),…
Như vậy, ta thấy rằng, việc khai thuế là một nghĩa vụ của người nộp thuế. Nghĩa
vụ này vừa mang tính bắt buộc đồng thời cũng mang tính tự nguyện. Quy định của pháp
luật đã tạo điều kiện cho người nộp thuế kê khai nội dung nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Đây là quy định phù hợp với thực tế của việc thi hành pháp luật quản lí thuế nói chung
và quy định về pháp luật các loại thuế nói riêng.
2. Tự nộp thuế
Tự nộp thuế là một hoạt động không thể thiếu trong cơ chế tự khai, tự tính, tự
nộp thuế. Theo đó, sau khi đã tiến hành đăng ký, kê khai và tính toán số thuế phải nộp,
người nộp thuế phải nộp đúng, đủ số tiền thuế cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Vấn đề nộp thuế được quy định cụ thể tại Chương V Luật quản lý thuế và Điều 21 đến
Điều 24, Điều 28 đến Điều 31 Nghị định 85.
Về thời hạn nộp thuế, Điều 42 Luật quản lý thuế quy định thời hạn nộp thuế đối
với các trường hợp người nộp thuế tự tính thuế, khai thuế; trường hợp cơ quan quản lý
thuế tính thuế hoặc ấn định thuế; trường hợp hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Mỗi
trường hợp khác nhau có thời hạn nộp thuế khác nhau. Qua cách quy định như vậy, ta
có thể nhận thấy sự xuyên suốt, thống nhất, có xâu chuỗi trong các quy định của pháp
luật về cơ chế tự nộp thuế. Cụ thể, để xác định thời hạn nộp thuế, ta cần quay ngược trở
lại các quy định của pháp luật về tự tính, tự khai thuế, ấn định thuế, xem xét xem đối
tượng nộp thuế thuộc diện nào, đã thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định hay
chưa, lấy đó làm căn cứ xác định thời hạn tính thuế. Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu, do tính chất khá đặc trưng của loại hàng hóa này là mang yếu tố nước ngoài, đòi
7
hỏi pháp luật phải có những quy định phù hợp, thời hạn nộp thuế cũng đã được xây
dựng riêng. Khoản 3 Điều 42 quy định thời hạn nộp thuế khác nhau đối với hàng hóa
xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu (hàng hóa nhập khẩu là hàng tiêu dùng, hàng hóa nhập
khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu), hàng hóa tạm nhập – tái
xuất,… Ngoài ra, khoản 4 điều này còn quy định thêm các điều kiện để áp dụng một số
quy định của điều luật. Như vậy, có thể thấy, thời hạn nộp thuế đã được quy định theo
hướng rõ ràng, cụ thể, phù hợp với nội dung quản lý thuế về vấn đề nộp thuế. Điều này
tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai chủ thể trong quan hệ quản lý thuế, đối tượng nộp
thuế có cơ sở pháp lý đầy đủ để tính toán thời hạn nộp thuế, đảm bảo việc thực hiện
nghĩa vụ; cơ quan thuế dễ dàng hơn trong việc áp dụng pháp luật.
Đồng tiền nộp thuế được xác định là Đồng Việt Nam, trừ trường hợp nộp thuế
bằng ngoại tệ theo quy định của Chính phủ (Điều 43 Luật quản lý thuế). Việc quy định
như vậy tạo cơ sở thống nhất trong quá trình nộp thuế và thu thuế của các chủ thể.
Về địa điểm và hình thức nộp thuế, Điều 44 Luật quản lý thuế quy định, người
nộp thuế thực hiện nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước; tại cơ
quan quản lý thuế nơi tiếp nhận hồ sơ khai thuế; thông qua tổ chức được cơ quan quản
lý thuế ủy nhiệm thu thuế; thông qua ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và
tổ chức dịch vụ theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể thấy, pháp luật đã có
những quy định khá rõ ràng và triển khai theo hướng mở rộng địa điểm nộp thuế, tạo
điều kiện thuận lợi cho các đối tượng nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Ngoài ra, Điều 47 Luật quản lý thuế và Điều 22 Nghị định 85 còn quy định việc
xử lý số tiền thuế nộp thừa. Theo đó, luật đã quy định rõ ràng tiền thuế được coi là nộp
thừa khi nào (khoản 1 Điều 22 Nghị định 85) và đưa ra sự lựa chọn cho người nộp thuế
trong việc yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải quyết số tiền nộp thừa phù hợp với từng
điều kiện cụ thể. Quy định này đảm bảo việc nộp thuế và thu thuế được tiến hành một
cách rõ ràng, minh bạch, đảm bảo lợi ích chính đáng của các đối tượng nộp thuế. Song
song với điều đó, quy định cũng cho thấy nghĩa vụ của cơ quan thuế trong việc tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định của pháp luật quản lý thuế, thực hiện thu đúng và đủ số thuế
của các đối tượng nộp thuế, tránh tình trạng tham nhũng…
8
Bên cạnh đó, không thể không kể đến các quy định về thứ tự thanh toán tiền thuế,
tiền phạt (Điều 45 Luật quản lý thuế), xác định ngày đã nộp thuế (Điều 46), nộp thuế
trong thời gian giải quyết khiếu nại, khởi kiện (Điều 48), gia hạn nộp thuế (Điều 49),…
Một số trong số những quy định kể trên còn được hướng dẫn khá chi tiết trong Nghị
định 85. Việc quy định cụ thể các nội dung pháp luật quản lý thuế về cơ chế tự nộp thuế
như vậy, một mặt nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi, hướng dẫn chi tiết cho các đối
tượng nộp thuế để các đối tượng này có điều kiện tốt nhất cho việc thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế của mình; mặt khác, những quy định này cũng nhấn mạnh sự cần thiết can
thiệp của cơ quan quản lý thuế trong những trường hợp nhất định, bảo đảm pháp luật
quản lý thuế được tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục và nội dung đã được quy định.
III – THỰC TRẠNG VIỆC THỰC THI CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ TÍNH, TỰ NỘP
THUẾ HIỆN NAY
1. Khái quát về tình hình thực hiện cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế ở một
số địa phương.
Sử dụng cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế mang lại rất nhiều lợi ích cho các chủ
thể của hoạt động quản lý. Cụ thể, đối với người nộp thuế, khi sử dụng hệ thống tự khai,
tự nộp có lợi ích như: Giảm gánh nặng về thủ tục hành chính cho doanh nghiệp khi thực
hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế; Tăng tính tự chủ cho người nộp thuế, tác động vào
yếu tố tâm lý xã hội đến sự tuân thủ thuế thông qua giảm tần suất và sức ép của hoạt
động thanh tra thuế; Giảm gánh nặng chi phí tuân thủ thuế tác động vào yếu tố kinh tế
của sự tuân thủ, đặc biệt giảm sự thoả hiệp và thương lượng về thuế phải nộp giữa đối
tượng nộp thuế và cơ quan thuế; Và cuối cùng, cơ chế này giúp thúc đẩy sự nộp thuế
đầy đủ và đúng hạn. Trong phương thức quản lý cũ, đối tượng nộp thuế ỷ lại cơ quan
thuế, trách nhiệm không rõ ràng; một số nơi cán bộ thuế đánh giá thuế quan liêu và chủ
yếu là thoả thuận, thương lượng thuế, vì vậy hạn chế sự tác động của cơ quan quản lý
thuế đến sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế.
Quản lý thuế theo hệ thống tự khai, tự nộp, cơ quan thuế cũng có lợi ích là: Giảm
gánh nặng công việc quản lý thuế bằng uỷ quyền cho đối tượng nộp thuế thực hiện công
việc kê khai thuế, và tự kiểm tra, tự chịu trách nhiệm; Cơ quan thuế có điều kiện
chuyên môn hoá vào các chức năng quản lý thuế khác như hỗ trợ đối tượng, tuyên
9
truyền nâng cao ý thức tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp
thuế hiệu quả, ít tốn kém đặc biệt là quản lý thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập do
loại trừ được chức năng kê khai đánh giá thuế và tập trung thanh tra có trọng điểm đối
với một số trường hợp có xác suất rủi ro trốn thuế cao; hiệu quả và hiệu lực trong việc
chống tham nhũng bằng việc giảm thiểu sự tiếp xúc giữa cơ quan thuể và khách hàng.
Việc tiếp xúc quá mức giữa đối tượng nộp thuế và cán bộ thuế cũng tạo ra những cơ hội
cho hối lộ và giảm thu ngân sách nhà nước…
Những tháng đầu do bỡ ngỡ, một số doanh nghiệp số tờ khai chậm nhưng đến
nay 100% số doanh nghiệp đã nộp đúng hạn, kịp thời , đầy đủ cho cơ quan Thuế. Cục
thuế TPHCM đã lựa chọn 337 doanh nghiệp làm thí điểm, tính đến ngày 31-12-2004
kết quả 337 doanh nghiệp đã nộp 11912 tỷ đồng trên 21421 tỷ đồng chiếm 55,6% số
thu của cục và đạt 135% so với dự toán năm. Song song với việc vận hành cơ chế
doanh nghiệp tự khai, tự nộp, cục thuế đã tập trung lực lượng đẩy mạnh công tác
kiểm tra, thanh tra thuế. Hằng tháng bộ phận thanh tra của phòng tự khai nộp đã lên
chương trình kiểm tra quyết toán thuế, đã kiểm tra quyết toán thuế năm 2003 của
61/337 doanh nghiệp với số thuế truy thu và phạt 17281 triệu đồng. Khi doanh nghiệp
thực hiện tự khai, tự nộp vào ngân sách nhà nước đã tạo điều kiện cho cơ quan Thuế
tập trung lực lượng xử lý những vấn đề lớn hơn như giúp doanh nghiệp lành mạnh hóa
tài chính, kiểm tra hoàn thuế nhanh chóng kịp thời cho 112 doanh nghiệp làm điểm với
số thuế đã hoàn 143 tỷ.Dự kiến năm 2005 bổ sung từ 50 đến 100 doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế vào diện tự khai, tự nộp.
Cục thuế Quảng Ninh cũng đã lưạ chọn 112 doanh nghiệp nhà nước làm thí
điểm.trong năm 2004. 12 doanh nghiệp này đã nộp ngân sách nhà nước hơn 660 tỷ
đồng, chiếm 40% số thu toàn ngành và đạt 125% so với dự toán năm. Các doanh
nghiệp đều nâng cao ý thức trách nhiệm, chủ động nộp thuế đúng hạn, hiện tượng
tồn đọng thuế đã chấm dứt. Trên cơ sở những thành công của năm đầu thực thiện chính
sách tự kê khai, tự nộp thuế, trong năm 2005 cục thuế Quảng Ninh sẽ mở rộng ra 100%
số doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp quốc doanh làm tốt công tác kế toán sẽ đưa vào thực hiện cơ chế tự khai,
tự nộp thuế.
10
Như vậy, việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp đảm bảo sự thông thoáng, giảm
các thủ tục kê khai, báo cáo, giúp doanh nghiệp có điều kiện về thời gian để chuẩn bị
chu đáo các thủ tục nộp thuế vì theo cơ chế mới đến ngày 25 hằng tháng các doanh
nghiệp mới phải nộp tờ khai thuế chứ không phải là vào ngày 10 hàng tháng như trước
đây. Sau 2 năm thực hiện thí điểm cơ chế tự khai tự nộp tại một sổ tỉnh trên cả nước đã
đạt được kết quả tốt, thực hiện đúng mục tiêu đề ra là năng lực, hiệu quả hoạt động của
cơ quan thuế được nâng cao. Trong đó vấn đề được đặc biệt quan tâm là thể hiện được
sự tôn trọng, phát huy tính tự giác chấp hành và tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp
thuế trong việc thực hiện nghĩa sự thuế, thể hiện ở việc nộp tờ khai và nộp thuế đúng
hạn với tỷ lệ cao hơn, chất lượng tốt hơn. Việc mở rộng diện áp dụng mô hình tự khai,
tự nộp ra cả nước là một trong những yêu cầu cấp bách của công tác cải cách hành
chính thuế.
2. Những khó khăn và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
2.1.
Khó khăn
- Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, quyền hạn của cơ quan Thuế chưa ngang tầm.
Các thủ tục về kê khai thuế, chính sách thuế chưa rõ ràng vì đơn giản.
- Công nghệ quản lý thuế theo cơ chế mới còn hạn chế. Cơ chế tự khai, tự nộp thuế
đòi hỏi cơ quan quản lý thuế và đối tượng nộp thuế phải có sự trao đổi thông tin
chặt chẽ với nhau, phải cập nhật kịp thời những thay đổi về kinh doanh của doanh
nghiệp. Cùng với sự tiến bộ của công nghệ thông tin, hiện nay việc tin học hóa quá
tình quản lý tuy đã có những tiến bộ so với trước nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới.
- Công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế, công tác thanh, kiểm tra, công tác thu nợ, và
cưỡng chế thuế đat hiệu quả chưa cao. Cơ quan Thuế chủ yếu mới tập trung vào
công tác tuyên truyền về thuế, còn công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế còn nghèo
nàn, rời rạc, phân tán và bị động. Chức năng hỗ trợ hướng dẫn đối tượng nộp thuế
còn chưa được phân định rõ ràng giữa các phòng trong cơ quan Thuế. công tác thanh
tra, kiểm tra của cơ quan Thuế chưa được đặt đúng vị trí, chất lượng còn hạn chế,
phương pháp, kỹ thuật thanh tra , kiểm tra còn lạc hậu.
11
2.2.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thuế. Hoàn thiện hệ thống chính sách
thuế theo hướng đơn giản, minh bạch. Mọi quy định trong chính sách thuế phải rõ
ràng, dễ hiểu, các quy định về thuế chỉ nên chứa đựng trong văn bản thuế, tránh
tình trạng muốn thực hiện một quy định trong luật thuế người ta phải tham chiếu
quá nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
- Đẩy mạnh công tác hưỡng dẫn, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế thực hiện cơ chế tự
khai, tự nộp. Cơ quan Thuế cần phải chuyển đổi từ việc chủ yếu dùng quyền
lực để quản lý sang hỗ trợ phục vụ để các đối tượng nộp thuế thực hiện đúng nghĩa
vụ thuế của mình. Cơ quan Thuế cần nhìn nhận các đối tượng nộp thuế như
là khách hàng của mình, như các đối tượng cần được phục vụ.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Cơ quan Thuế phải tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra việc kê khai, nộp thuế của các đối tượng nộp thuế để phát hiện
kịp thời xử lý nghiêm minh những hành vi gian lận, trốn lận thuế; Cần phải bổ sung
lực lượng cán bộ làm công tác thanh kiểm tra, chú trọng nâng cao chất lượng đội
ngũ cả về trình độ chuyên môn và cả về đạo đức nghề nghiệp.
- Thông tin tuyên truyền tới các đối tượng nộp thuế về thực hiện cơ chế tự khai, tự
nộp. Công tác thông tin tuyên truyền về thuế cần thực hiện qua nhiều hình thức khác
nhau, thông qua các chương trình truyền thông trên các phương tiện thông tin đại
chúng, thực hiện giáo dục pháp luật thuế trong nhà trường, tăng cường các
chương trình giải trí có lồng ghép nội dung phổ biến các luật thuế để cho mọi
người đều hiểu và ý thức được nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.
KẾT LUẬN
Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế mang lại lợi ích cho cả cơ quan thuế và đối
tượng nộp thuế. Đây là cơ chế quản lý thu thuế hiện đại, hiệu quả nhằm mục đích tăng
tính tự giác, nâng cao trách nhiệm của đối tượng nộp thuế đối với nhà nước. Cơ chế này
góp phần hiện đại hóa quá trình quản lý thuế chuyên môn hóa theo chức năng, công
việc. Hiện nay ở Việt Nam cơ chế thu nộp phù hợp là một cơ chế kết hợp giữa cơ chế tự
khai, tự nộp với cơ chế thông báo thuế. Cơ chế tự khai, tự nộp cần được áp dụng một
12
cách chọn lọc do vậy cơ quan thuế cần phải thận trọng và nên áp dụng từng bước cơ chế
này để tránh gây thất thu thuế cho ngân sách nhà nước, đạt hiệu quả quản lý cao, đáp
ứng được yêu cầu của cải cách hành chính thuế./
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Tiếp Nam, Giới thiệu vài nét tự khai, tự nộp thuế.
2. Trần Bình Minh, Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam.
3. Hoàng Thị Giang, Cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính doanh
nghiệp, tháng 11/2004, tr. 32, 33.
4. Hoàng Thị Lan Anh, Bàn về các yêu cầu quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự
nộp, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, tháng 05/2005, tr. 15 – 18.
5. Châu Giang, Cơ chế tự khai, tự nộp phù hợp với xu thế cải cách quản lý hành
chính nhà nước, Tạp chí Thuế Nhà nước, kỳ I tháng 08/2005.
6. Lê Xuân Trọng, Cơ chế tự khai, tự nộp ưu điểm, hạn chế và điều kiện áp dụng,
Tạp chí Thuế Nhà nước, tháng 09/2004, tr. 6 – 8.
13
7. Nguyễn Bá Trọng, Mấy vấn đề khi thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, Tạp chí Thuế
Nhà nước, tháng 10/2004, tr. 14, 15.
8. Các trang web:
http ://www.mof.gov.vn
14