Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Trình bày mĩ thuật thời phục hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.34 KB, 14 trang )

Trình bày mĩ thuật thời phục hưng
LỜI MỞ ĐẦU
Mĩ thuật là một loại hình nghệ thuật xuất hiện đầu tiên trên thế giới. Mĩ
thuật xuất hiện ngay từ khi con người có mặt trên trái đất. Nó ra đời từ thời sơ
khai, khi con người ở thời nguyên thuỷ, vẫn còn ăn hang, ở lỗ, săn bắn và hái
lượm. Lịch sử Mĩ thuật cùng với lịch sử thế giới trải qua các thời kì phát triển và
các giai đoạn lắng đọng hay tàn lụi.
Trong các giai đoạn đó, giai đoạn mĩ thuật thời Phục Hưng là giai đoạn có
sự kế thừa, phát triển và mĩ thuật Phục Hưng I-ta-li-a đã sản sinh ra nhiều hoạ sĩ
nổi tiếng có những cống hiến to lớn cho nền mĩ thuật thế giới, trong đó có ba hoạ sĩ
tiêu biểu như Lê-ô-na-đờ Vanh-xi, Mi-ken-lăng-giơ, Ra-pha-en, có nhiều tác phẩm
nổi tiếng nhất thế giới và là giai đoạn Mĩ thuật được đánh giá hưng thịnh nhất
trong các thời kì. Mĩ thuật giai đoạn này phải kể đến những tìm tòi mới lạ, đem đến
một luồng khí mới, trào lưu mới cho các hoạ sĩ trên thế giới và nhất là các hoạ sĩ ở
Ý về các lĩnh vực như: Hội Hoạ, Điêu Khắc, Kiến Trúc...
I. Khái quát về mĩ thuật thời kỳ Phục Hưng
Danh từ “phục hưng” (Renaissance) theo tiếng Pháp có nghĩa là sự tái sinh
hay hồi phục. Quan niệm về sự tái sinh nghệ thuật, sự hồi sinh của tất cả những gì
cao cả và vĩ đại được thể hiện ở nơi nghệ thuật phát triển mạnh mẽ là ở Phờ-lorăng-xơ (Florence). Người Ý cho rằng nền nghệ thuật vẻ vang của họ thời La Mã
cổ đại đã bị người Gốt (Goth- tên một mãn tộc ở châu Âu) phá hủy cùng với việc
làm sụp đổ La Mã. Vì vậy sứ mệnh của họ là phải làm cho nghệ thuật được phục
hồi, sống lại. Vào đầu thế kỉ XIV các nghệ sĩ Ý đã quyết tâm tạo ra một nghệ thuật
mới, khác xa với nghệ thuật thời trung cổ. Cùng với sự tái sinh của mĩ thuật còn có
sự tái sinh của văn chương, của thuyết tâm linh…Từ đó làm nảy sinh một làn sóng


mới về nghệ thuật và văn học. Phong trào văn hoá mới này gọi là phong trào văn
hoá phục hưng.
Mặt khác, ở Ý thời kỳ này có nhiều trung tâm kinh tế phồn vinh, chính trị ổn
định, tạo điều kiện cho nhiều tư tưởng mới phát triển. Mạnh mẽ nhất là tư tưởng
nhân văn, đề cao giá trị của con người. Ở đây không còn tư tưởng lấy thánh thần


làm đích đánh giá và phấn đấu mà lấy chính con người, coi con người là thước đo
mọi giá trị, là trung tâm của vũ trụ. Các tác phẩm mĩ thuật, đặc biệt là tranh, tượng
thời kì này thực sự là bản anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ của con
người. Nghệ thuật không những được tái sinh mà còn phát triển đến đỉnh cao trên
cơ sở xã hội mới.
Phong trào văn hóa phục hưng bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV
đến cuối thế kỷ XVI mới kết thúc. Một thời kỳ kéo dài 300 năm và một sự hoàn
thiện định hình phong cách nghệ thuật mới. Khởi đầu cho phong trào này là các đô
thị ở niềm bắc nước Ý như Phlorăngxơ, Xiênnơ sau đó lan sang các trung tâm khác
như Rôm, Vơnirơ rồi tiếp tục lan sang các nước như Hà Lan, Anh, Pháp, Đưc…
Cùng với tìm ra chất liệu sơn dầu, phát minh ra phép phối cảnh giúp diễn tả không
gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều và nghiên cứu tỉ lệ, giải phẩu cơ thể người
đã tạo nên bước tiến vĩ đại trong lịch sử nghệ thuật. Để lại cho nhân loại vô số
những kiệt tác bất hủ.
II. Các giai đoạn phát triển của mĩ thuật thời kì Phục hưng
1. Thời tiền phục hưng
Có thể nói mĩ thuật thời kì phục hưng bắt đầu ở Ý với trung tâm là Phờ- lo-răngxơ và Giê- nơ vào cuối thế kỉ XIV. Thời kì này đã ghi lại tên tuổi của một số nghệ
sĩ nổi tiếng như Giốt-tô-đi Bôn-đô-nê( Giotto di Bontone 1267-1337) Duye-xiô(Duccio 1278-1319).. Từ những bước khởi đầu vào cuối thế kỉ XIV, sang thế kỉ
XV mĩ thuật thời kì Phục hưng phát triển mạnh mẽ. Tuy vậy về phong cách nghệ
thuật chưa hoàn toàn định hình. Vì vậy, thời kì này được gọi là thời kì tiền phục


hưng. Về hội họa thời kì tiền phục hưng có sự thay đổi đổi lớn lao. Hình tượng
nhân vật được diễn tả có khối. Quan niệm nghệ thuật hiện thực được chú trọng.
Con người xuất hiện trong tranh giống như trong cuộc sống:sống động và giàu tính
cảm. Cùng với sự đổi mới trong hội họa , điêu khắc cũng có những thành tựu lớn.
Những nhà điêu khắc danh tiếng thời kì này là Lô-ren-giô Ghi-béc-ti (Lorenzo
Ghibeati) với tác phẩm Hai cách cửa rửa tội, Ở Phờ-lo-răng-xơ; Đô-na-ten-lô với
pho tượng vị thủ lĩnh Gát-ta-mơ-la-ta, Đa- vít…Vê-rô-ki-ô với các pho tượng kị
mã nổi tiếng…

Tượng Bác-tô-lê-mê Cô-lê-ô-ni
(Bartoloieo – Colleoni) của Vê-rô-ki-ô, 1479
Kiến trúc thế kỉ XV được đánh dấu bằng các đặc điểm: ở thời kì này kiến trúc thế
tục vượt qua trình độ phát triển của kiến trúc tôn giáo. Thời trung cổ, kiến trúc tôn
giáo chiếm ưu thế tuyệt đối với các phong cách kiến trúc Rô-măng, Gô-tíc,Bidăng-tanh. Người đứng đầu các nghệ sĩ Phờ-lo-răng-xơ là kiến trúc sư Phi-líp-pô
Bru-nen-chi (Filippo – brunelleschi 1377-1446) ông là tác giả của nhà thờ chính
tòa Phờ-lo-răng-xơ (thiết kế xây dựng 1420-1436). Kiến trúc thời kì này là sự kết
hợp thể thức kiến trúc trung cổ (Gô-tích) với nghệ thuật kiến trúc La Mã.Trong
thiết kế dành vị trí quan trọng cho nóc tròn trên đồ án hình vuông. Chòm cột nhỏ ở
nhà thờ Gô-tích được thay thế bằng trụ vuông hay cột tròn to. Vòm bán nguyệt
trong kiến trúc Rô-măng được thay thế bằng vòm hỗn hợp cung tròn và nhọn của
Rô-măng và Gô-tích. Sang nửa sau thế kỉ XV phong cách kiến trúc khởi đầu từ
Phờ-lo-răng-xơ được lan truyền đến các trung tâm khác của Ý như Vơ-ni-dơ.
Trong phong cách cũng có sự thay đổi bởi sự tĩnh lặng, nghiêm trang thoáng đạt
hơn và trang trí nhiều hơn.
2. Thời kì Phục hưng phát triển (thế kỉ XVI )
Thế kỉ XVI được coi là thế kỉ cổ điển Phục hưng (Renaissance Classique). Theo
cách hiểu trong nghệ thuật thì thời kì cổ điển của một nền nghệ thuật chính là các


tác phẩm nghệ thuật ở thời kì đó đạt đỉnh cao, hoàn thiện, mẫu mực và định hình
về phong cách. Ở thời tiền Phục hưng, mĩ thuật đã đạt được nhiều thành tựu. Song
ở vài tác giả, một số tranh của họ bên cạnh sự đổi mới về phong cách vẫn còn đôi
chút ảnh hưởng của nghệ thuật trung cổ. Nhất là sự thiếu vắng tình cảm thực của
con người, sự biểu cảm chưa thật sâu sắc... Nhưng sang thế kỉ XVI, mĩ thuật Ý đã
thực sự phục hưng. Một nền nghệ thuật đi theo hướng hiện thực, tự nhiên đã phát
triển một cách rực rỡ, để lại nhiều tác giả và tác phẩm có giá trị còn tồn tại mãi
mãi. Một phong cách nghệ thuật mới đã thực sự định hình. Thời kì này chứng kiến
sự phát triển của hội họa, điêu khắc, cũng như kiến trúc. Đây là thời kì những tên
tuổi nổi tiếng như Đô-na-tô Bra-măng-tơ (Donato Bramate 1444-1514), kiến trúc

sư danh tiếng nhất của thời kì Phục hưng. Tên tuổi của ông gắn liền với công trình
kiến trúc vĩ đại và đồ sộ nhất thời kì này: đó là tòa thờ thánh Pi-e (Saint Pierne).
Công trình này được coi là tòa giáo đường lớn nhất và là một kì quan của thế giới
Ki-tô giáo. Mặc dù công trình đó ngày nay có nhiều thay đổi so với thiết kế ban
đầu của Bra-măng-to. Sau ông lịch sử còn ghi nhận tên tuổi của Mi-ken-lăng-giơ
(Mikenlange) một nhà điêu khắc kiêm kiến trúc sư, họa sĩ nổi tiếng.Trước Phục
hưng, tranh trên giá chưa thực sự phát triển.Suốt thời kì cổ đại, và thời trung cổ thể
loại tranh được sử dụng mạnh nhất là bích hoạ.Hay nói một cách khác là tranh luôn
gắn với kiến trúc, “tựa” vào các mảng tường và tồn tại cùng kiến trúc. Đến thời kì
Phục hưng, nhất là sang thế kỉ XVI nhiều họa sĩ với những tác phẩm của họ được
con người của nhiều thời đại yêu thích. Chưa bao giờ hội họa lại phát triển và đạt
được nhiều thành công như ở thời kì Phục hưng.Các thể loại tranh đều được các
họa sĩ thích thú thể hiện. Được ưa thích nhất là tranh chân dung, tranh tôn giáo,
thần thoại, tranh sinh hoạt.. Hai trung tâm lớn của Ý là Rô-ma và Vơ-ni-dơ. Các
họa sĩ Vơ-ni-dơ vẫn tiếp tục phát huy sở trường của truyền thống hội họa Vơ-nidơ. Họ say mê với sự phối sắc. Màu sắc của các họa sĩ Vơ-ni-dơ tươi sáng rựa rỡ.
Tranh của họ truyền đến cho người xem sự lạc quan,yêu đời ,vui vẻ,hạnh phúc.


Trung tâm lớn thành Rô-ma là nơi thu hút các danh họa Ý cũng như các họa sĩ ở
nhiều quốc gia khác. Nơi đây được coi như là trường học lớn, nơi đào tạo ra nhiều
họa sĩ bậc thầy cho nền hội họa thế giới như Lê-ô-na đờ vanh-xi, Ti-xiêng, Gioocgiôn, Tanh-tô-rê vê-rô-ne-dơ…
Thần rượu Bacchus và Ariadne. Tranh sơn dầu của Ti-xiêng, 1520
III. Một số tác giả tác phẩm tiêu biểu
1. Leona da vinci, (1452 – 1519) Ông là một họa sĩ đồng thời cũng là nhà bác học
am hiểu nhiều bộ môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên: điêu khắc, kiến trúc,
toán học, cơ khí học… sự hiểu biết của Ông mang dấu vết liên tục trong lịch sử
khoa học và nghệ thuật châu âu qua nhiều thế kỷ. Ông được xem là một trong
những nhà nghiên cứu và sáng tạo cái mới xuất sắc.Trong suốt quá trình hoạt động
nghệ thuật của mình Ông chỉ để lại khoảng 30 tác phẩm. Song mỗi tác phẩm của
Ông lại là một cuộc tìm tòi để tạo ra cái mới cho nhiều thế hệ sau học tập. Những

tác phẩm của Ông còn giữ tới ngày nay là những mẫu mực về nhiều mặt cho nền
hội họa thế giới.Phần lớn thời gian trong cuộc đời là những chuyến du hành đây
đó, những buổi học thực tế ngoài trời và những thử nghiệm cần có xưởng vẽ. Năm
1466 Ông đến Phlorăngxơ và nhận học việc trong xưởng vẽ của Vê-Rô-Ki-Ô. Đây là
một xưởng họa và trường học nổi tiếng của thành phố này. Khoảng 6 năm sau Ông học
xong. Chính trong thời gian này Ông cũng bắt đầu sáng tác, nhưng phần lớn tác phẩm
đầu tay của ông chịu ảnh hưởng thầy dạy của mình. Tuy nhiên càng về sau tên tuổi của
ông càng nổi bởi bằng tài năng nghệ thuật và trình độ khoa học của mình ông đã đưa
hội họa từ một nghề thủ công “đầy tớ” thành một “nghệ thuật tự do” bằng việc nghiên
cứu luật phối cảnh, giải phẩu và quy luật ánh sáng để đưa chúng vào trong tranh. “Ông
và các họa sĩ khác cho rằng: phải dựa trên cơ sở khoa học mới có thể biến hội họa thủ
công bị coi nhẹ thành nghệ thuật đáng coi trọng” (Lịch sử mĩ thuật thế giới – Phạm

Châ


Thị Chỉnh) chính những quan điểm đã đưa nghệ thuật phục hưng đạt đến những giá trị
đáng chân trọng.
Một trong những tác phẩm tuyệt đẹp của Leona khi ông đến thành phố Milan là
bức “madona trong hang” (vẽ năm 1483 -1494) đây được xem là tác phẩm ở giai
đoạn trưởng thành của tác giả bởi vì nó đã đi vào quỹ đạo của tư tưởng nghệ thuật
phục hưng. Bức tranh có tính toán cẩn trọng về nhiều mặt, trong đó có cách giải
quyết không gian và sự cân đối yên tĩnh nhờ sự xắp xếp tài giỏi giữa các nhóm
nhân vật và thiên nhiên. Hình ảnh Madona, Chúa và các thiên thần được xắp xếp
một cách có chọn lọc và khái quát. Cũng trong thời gian ở Milan giữa những năm
1495 – 1498, Leona vẽ bức tranh tường cho nhà thờ thánh Maria denhla – Hraxi
(gần Milan) “Buổi họp kín” hay còn gọi là “bữa tiệc cuối cùng”.
Tác phẩm miêu tả bữa tiệc cuối cùng giữa chúa Giesu và 12 thánh tông đồ thân
tín trước khi bị đóng đinh trên thánh giá. Nét mới tiêu biểu trong bức tranh này là
những xung đột kịch tính về tâm lý của các nhân vật qua sự phản bội chúa của

Giuda. Các nhân vật trong tranh được chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm 3 người với bố
cục thế giáng và thần sắc sinh động. Nhân vật chúa Giesu được đặt ở chính giữa
tranh, nổi bật giữa khung cửa sổ với thái độ trầm tĩnh bình
thản. Sự xung đột kịch
Bữa tiệc cuối cùng (1495 tính trong tranh thể hiện ở sự tương phản giữa thái độ bình thản của chúa với sự
giận dữ, hoảng hốt, xôn xao của các nhân vật khác. Ngoài ra trong bố cục, bên
cạnh vẻ mặt xấu xí trong thế nhìn nghiêng mạnh mẽ của Giuda là vẻ mặt đẹp hiền,
đầy sự suy tưởng của thánh Gioăng. Bên cạnh sự sợ hãi của kẻ phản bội là cử chỉ
giận dữ của thánh Pie đang cầm dao…
Để thu hút ánh nhìn vào nhân vật trung tâm là chúa Giê su, tác giả đã sử dụng
luật phối cảnh cho kiến trúc phòng ăn: tất cả những đường thẳng song song trong
tranh đều tụ về một điểm ở chân dung của chúa. Để phá thế những đường song
song đó, Lêona sử dụng nhiều đường thẳng đứng, chéo góc và những đường ngang


song song với mép tranh mà điểm nhấn là bàn tiệc. Tất cả những đường hướng đó
đã tạo cho bức tranh một bố cục độc đáo và lạ mắt. Tác phẩm này rất xứng đáng là
một trong những kiệt tác của hội họa Phục hưng. Tác phẩm không chỉ có giá trị về
mặt thẩm mỹ mà còn có giá trị to lớn về tính khoa học trong nghệ thuật. Điều mà
Lêona vẫn tâm đắc và tự hào.Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc tới Lêona mà không nhắc
tới tác phẩm Mônalisa hay còn gọi là La giocongdo. Bức tranh nổi tiếng gắn liền
với tên tuổi của hoạ sĩ.
Đây là bức chân dung miêu tả tâm lý rất thành công. Nhân vật trong tranh được tác
giả chăm chút cả về vẻ đẹp ngoại hình lẫn vẻ đẹp nội tâm. Điểm đặc biệt trong bức
tranh là nụ cười bí hiểm của nàng La giocong, nụ cười vừa phảng phất niềm vui
vừa phảng phất nỗi buồn khiến người xem cứ vương vấn mãi. Lêona đã khôn khéo
sử dụng những đường nhấn động ở khoé mắt, gò má và khoé miệng để tạo nên nụ
cười tinh tế của nàng. Qua hàng mấy trăm năm, cho tới tận bây giờ nụ cười của
nàng vẫn làm mê đắm trái tim của biết bao người yêu nghệ thuật, làm tốn không
biết bao nhiêu giấy mực các nhà phê bình mọi thời đại. Chất da thịt của nhân vật

của tác giả miêu tả rất thành công bằng thủ pháp “tương phản” đó là sự tương
phản giữa màu sẩm tối cùng những nét gấp rất nhỏ của trang phục với sự mịn
màng tươi mát của chất da thịt. Đôi bàn tay mềm mại…Thành công ở bức tranh
không chỉ dừng ở đó, nàng Monalisa được tác giả đặt trên nền một bức tranh
phong cảnh mờ ảo, xa xăm, chập trùng. Điều đó thể hiện lý tưởng của thời đại, lý
tưởng nhân văn cao cả: “con người luôn là trung tâm của vũ trụ, con người ở giữa
thiên nhiên, giao hoà và là một nhân tố của thiên nhiên”(LSMT thế giới – Phạm
Thị Chỉnh). Cách thể hiện của Leona cho người xem cảm nhận về một Monalisa
sang trọng, quý phái nhưng cũng rất hiền và tinh tế. Một Monalisa chứa đầy những
tâm tư thầm kín khiến ta cảm thấy như vừa nắm bắt được tâm tư của nàng vừa như
không hiểu nàng đang hiểu nàng đang nghĩ gì. Chính vẻ đẹp vừa rõ ràng, vừa ẩn
dấu, vừa xa lạ vừa thân quen khiến nàng sống mãi, vượt qua thời gian không gian


và đến với tất cả mọi người, mọi thời đại. Chính đó cũng là một thành công của tác
phẩm bởi nó đem đến cho người xem rất nhiều cảm xúc đan xen. Vẻ đẹp của nàng
là một vẻ đẹp lý tưởng không chỉ của thế kỷ XVI, mà còn là vẻ đẹp lý tưởng của
mọi thời đại.
Không chỉ thành công ở thể loại chân dung, đề tài về chúa và thần thoại
cũng được Leona thể hiện rất thành công với những tác phẩm nổi tiếng như: Đức
mẹ Litta, Leda…Sau khi vẽ tranh ở Phlorangxo xong, ông trở lại Milan lần nữa,
nơi mà theo ông đã yêu mến và thấu hiểu tài năng của mình. Ở đó được tài năng
sau đó ông đi Rôm.
Từ năm 1500 – 1516 Leona dành nhiều thời gian để nghiên cứu khoa học.
Ông muốn sáng tác một bộ bách khoa toàn thư về “sự vật trong thiên nhiên”.
Ngoài ra ông vẫn sáng tác cho đến cuối đời.
Một phác thảo của Lêonar
Năm 1916 theo lời mời của vua Pháp ông Pari. Tại đây ông qua đời sau ba
năm lưu trú (1519). Trong khoảng thời gian đó, ông dành để hệ thống hoá lại tài
liệu mà ông đã viết về nghệ thuật. Sách chưa kịp xuất bản thì ông đã mất. Người

học trò tâm phúc của ông là Francesco Melzi cất giữ và lo việc ấn hành. Song các
tài liệu vẫn bị thất lạc do chiến tranh. Sau này người ta đã tìm được khoảng hơn
1000 trang bản thảo nghiên cứu của ông cùng các tác phẩm. Đây thật sự là 1 kho
báu cho các thế hệ sau khi muốn học hỏi nghiên cứu về nghệ thuật hội hoạ thời
phục hưng cũng như về sự nghiệp của Leonar De Vinci.
2. Michenel Ange Buonarroti (1475 – 1564)
Ông là một trong số nghệ sĩ thời ấy tích cực phản ánh sự mâu thuẫn sâu sắc của thời
đại. Michenel Ange không chỉ là nhà điêu khắc nổi tiếng của thời kỳ phục hưng mà
còn là một kiến trúc sư, một hoạ sĩ và là một nhà thơ. Ở bất kỳ lĩnh vực nào ông cũng
để lại những tác phẩm tiêu biểu được lưu giữ mãi tới mai sau.Michenel Ange sinh
ngày 06 – 3 -1475 trong một gia đình quan chức nhỏ ở Caprese, cách Phlorangxo


không xa. Ngay từ nhỏ ông đã đến Phlorangxo học trong trường dạy chữ Latinh và
sau đó sang học tại xưởng vẽ của Ghirlandazo từ năm 13 tuổi. Sau đó ông chuyển
sang học ở trường nghệ thuật bậc thầy danh tiếng là Bertondo Giovani. Ông học
điêu khắc với Donatenlo và nghiên cứu tranh của các danh hoạ tiền bối. Những tác
phẩm đầu tay của Michenel Ange là những phù điêu bằng cẩm thạch, như
“Madona ở cầu thang” (1490-1492) cuộc chiến đấu của những bọn “nửa người
nửa thú” (1492) chứa đựng niềm hưng phấn nghệ thuật rõ nét.
Michenel Ange say mê điêu khắc từ nhỏ và ông luôn cho rằng điêu khắc mới
thật sự là nghệ thuật còn hội hoạ chỉ là công việc của những kẻ thích nhàn rỗi và
phụ nữ. Nhưng ông vẫn là một hoạ sĩ kỳ tài với tác phẩm nổi tiếng nhất là quần
thể tranh trong nhà thờ Xic – xtin. Về kiến trúc tên tuổi của ông gắn liền với công
trình nhà thờ thánh Pie, công trình do kiến trúc sư Bramangto thiết kế ban đầu sau
được giao lại cho ông. Công trình này đã trở thành kỳ quan của thế giới thiên chúa.
Điều này chứng tỏ tài năng hiếm có của ông trong lĩnh vực kiến trúc. Tuy vậy niềm
đam mê thật sự của ông lại là tạc nên những pho tượng và tác phẩm đầu tiên đưa
tên tuổi va uy tín của ông đến với mọi người là: Pietta (theo tiếng Pháp có nghĩa là
“tình thương”). Tác phẩm được ông hoàn thành trong 5 năm. Với tác phẩm này

ông đã rất thành công khi miêu tả nổi sót thương, đau đớn của đức mẹ trước đứa
con đã mất trên tay. Chân dung chúa Giesu cũng được tác giả miêu tả vô cùng sống
động. Ở đó ta nhìn thấy rõ nổi đau đớn mà chúa phải chịu đựng trước khi mất
nhưng ta cũng nhìn thấy ở chân dung đó niềm kiêu hãnh của một vị anh hùng, một
đấng cứu thế. Ngoài ra tác phẩm còn thành công trong việc thể hiện những nét gấp
trang phục, chất da thịt mềm mại. Bằng thủ pháp đối lập giữa nét mền mại của các
nếp áo váy phong phú và đa dạng với mảng phẳng nhẵn của cơ thể chúa Giesu. Sự
đối lập đó tạo nên sự nổi bật khác nhau của nhân vật, của sự sống và cái chết.
Từ năm 1501 – 1504, Michenel Ange dành thời gian để tạo nên kiệt tác cho nhân
loại, đó là bức tượng người anh hùng Davit của người dân Hebreuca đã chiến thắng


người khổng lồ Goliat. Bức tượng được là một sự hoàn thiện mẫu mực về vẻ đẹp
thể chất và vẻ đẹp tinh thần của con người. Vẻ đẹp thể chất của tác phẩm được thể
hiện ở tỷ lệ cân đối, ở chất da thịt mền mại, sống động. Tác giả đã kỳ công miêu tả
từng chi tiết cơ thể người anh hùng. Nó chi tiết đến từng mạch máu, nhất là ở đôi
bàn tay. Tất cả mọi chi tiết đều đạt tới sự chính xác tuyệt đối. Về tinh thần người
xem có thể nhìn thấy chất anh hùng trên con người Davit từ dáng đứng bình thản
nhưng chưa đầy sức mạnh, từ cái nhìn cau mày, căng thẳng của một người chuẩn
bị chiến đấu. Vẻ đẹp của Davit là vẻ đẹp của một con người phi thường, hùng
tráng. Pho tượng cao 5,5m này được đặt ở trước trụ sở hành chính của thành
Phlorangxo. Đây là niềm tự hào của người dân thành phố, họ coi Davit là một
“người khổng lồ” là biểu tượng sức mạnh của con người.
Sau thành công của hai bức tượng tiếng tăm của Michenel Ange vang đi rất xa.
Năm 1506 giáo hoàng Duyn II đã mời ông đến Rôm để làm lăng cho giáo hoàng
nhưng công việc gặp nhiều trở ngại nên không thực hiện được. Sau đó ông được
giao vẽ tranh cho trần nhà thờ Xicxtin tác phẩm vĩ đại này được một mình ông
hoàn thành sau 4 năm. Khoảng hơn 100m2 với vài trăm nhân vật diễn tả sinh động
những đoạn trong kinh thánh. Toàn bộ tác phẩm tự như một bản hành khúc về con
người với ý trí, vẻ đẹp và sự dũng cảm. Hình tượng các nhân vật được ông diễn tả

mạnh mẽ và cường tráng với màu sắc tương phản. Tác phẩm hoà hợp với kiến trúc
thành một khối tổng thể hoàn thiện, hữu cơ không thể tách rời. Tác phẩm hoàn
thành năm 1512.Sau khi Duyn II mất, Michenel Ange mới làm chiếc quan tài theo
đề nghị của những người kế tục (1545) để trang trí cho chiếc quan tài này ông đã
làm một số tượng trong đó có những pho tượng nổi tiếng như “người nô lệ nổi
dậy”, “người nô lệ chết”. Cùng lúc này ông tạc tượng “Moixei”, dùng cho tầng 2
của chiếc quan tài. Đây là một nhân vật vừa khôn ngoan, vừa nhiệt tình vốn được
ông vẽ một lần trên trần Xicxtin.Năm 1534 Michenel Ange làm quan tài cho hai
bá tước Dgiuliano và Liorangxo của dòng họ Medixi. Những tác phẩm điêu khắc ở


đây một lần nữa chứng tỏ tài năng của ông. Với đề tài “ngày và đêm”, “hoàng hôn
và bình minh” ông đã lấy con người để thể hiện thời gian. Những tác phẩm này
mang tính ẩn dụ tượng trưng cao siêu, biểu hiện tính trí tuệ trong nghệ thuật của
Michenel Ange, đồng thời biểu hiện sức mạnh huyền bí của thời gian. Bốn pho
tượng trong nhà mồ Medixi đều được thể hiện với phong cách cường tráng khoẻ
mạnh, bề thế. Trái lại tượng đức mẹ ở giữa lại mền mại dịu dàng. Sự thay đổi về
phong cách đã tạo nên sự hài hoà cho quần thể kiến trúc. Bộc lộ tài năng nhiều mặt
của con người thời phục hưng này.
Những năm cuối đời là những năm sáng tác đẹp đẽ của ông. Ông vừa làm tượng,
vừa vẽ tranh nề. Tiêu biểu nhất là bức “ngày phán xét cuối cùng”. Đây là bức
tranh trang trí trên tường nhà thờ Xicxtin, nối tiếp với tranh trên trần thành một bộ
hoàn thiện. Ngày cuối cùng là ngày tận thế, chúa sẽ phán xét xem ai được lên thiên
đường, ai phải xuống địa ngục. Ở tác phẩm này, Michenel Ange đã thể hiện ngày
cuối cùng như một tai hoạ khủng khiếp, một trận đại hồng thuỷ. Trung tâm bức
tranh là chúa – Người xử án, quanh chúa là cảnh tối tăm điên dại, với vô số người
khoả thân, gẫy uốn… Tất cả như đang vật lộn với bão tát phong ba cuồng nộ.Mặc
dù tất cả các nhân vật đều khoả thân ngay trước bàn thờ chúa nhưng vẫn được giáo
hoàng chấp nhận bởi ngài tôn trọng tài năng cũng như tư tưởng của Michenel
Ange. Ông đã lý giải rằng: Con người khi sinh ra như thế nào thì về với chúa cũng

phải như thế. Sau này học trò của ông là Danien Dovoteso đã vẽ thêm một số vải,
trang phục cho một số người khoả thân theo yêu cầu của giáo hoàng. “Bức tranh
phần nào nêu được tư tưởng, thế giới quan tôn giáo. Đồng thời còn khẳng định sự
chiến thắng của cái thiện với cái ác.”(LSMT thế giới – Phạm Thị Chỉnh).
Michenel Ange mất ngày 18 -12 – 1564 khi chưa kịp tạc xong bức tượng: hạ xuống
cây thập tự. Ông mất tại Rôm nhưng thi hài của ông được đưa về Phlorangxo và
được đặt trong nhà thờ thánh Graxo. Sự nghiệp hoạt động nghệ thuật đầy nhiệt
huyết của ông đã và sẽ mãi là tấm gương học tập cho nhiều thế hệ nghệ sĩ mai sau.


3. Raphael Santi (1483 – 1520) Khác với Leonar, Raphael không phải là
nhà sáng tạo ra cái mới. Vì rằng nghệ thuật của ông có ý nghĩa không phải ở chỗ
khám phá ra con đường mới mà là ở chỗ đã tổng hợp thành tựu của những người đi
trước. Ông cùng với Leonar, Michenel Ange tạo nên sự chuẩn mực, định hình cho
sự phát triển phong cách nghệ thuật phục hưng.
Raphael là con trai của hoạ sĩ Dgiovanhi Xangta. Nhờ đó mà ông đã học
ngay từ cha mình khi còn rất nhỏ. Sau khi cha mất, ông theo học nghệ sĩ Peruganh.
Ông là một bậc thầy tài năng đã giúp Raphael nổi tiếng. Ngay từ năm 14 -15 tuổi,
ông đã được mọi người biết đến với tác phẩm đầu tay “giấc mơ của người hiệp
sĩ”(trưng bày tại viện nghệ thuật quốc gia Luôn Đôn) năm 1504 Raphael từ dã quê
hương và người thầy của mình để đến Phlorangxo, nơi có hai người khổng lồ
Lêonar de vinch và Michel Arge. Ở đây ông nhanh chóng học tập các bậc thầy về
nghệ thuật này và đã nhanh chóng tiến kịp họ. Thành phố này đã khiến ông thành
công và được nhiều nhà bảo trợ hào phóng giúp đỡ. Đây cũng là thời kỳ ông vẽ
nhiều tranh về đề tài Đức mẹ. Trong đó nổi tiếng là tác phẩm "Đức mẹ của Đại
công tước". Tác phẩm "Đức mẹ của Đại công tước" được ông vẽ theo yêu cầu của
vĩ đại công tước. Vị này coi tác phẩm là vô giá và luôn giữ bên mình. Ở bức tranh
này ta vẫn còn thấy phảng phất nét của Peruganh nhưng nó đã đạt đến sự mẫu mực,
hoàn hảo về đề tài dạng này. Raphael đã tạo được một Madona có thực trên đời,
một Madona thơ mộng dịu dàng như trăm nghìn phụ nữ Ý khác. Năm 1508,

Raphael từ dã Phlorangxo đến Roma. Suốt từ đấy đến lúc mất ông sống ở đó và
được sự bảo trợ của hai đời giáo hoàng là Duyn II và Leon X. Nhiều tác phẩm
danh tiếng của ông đã vẽ trong thời kì này trong đó có một bức vẽ trong phòng tòa
thánh Vaticang vô cùng thành công là bức "Trường học Aten". Nội dung tác phẩm
ca ngợi triết học Hy Lạp cổ đại. Nhân vật chính của bức tranh là Praton và Arixtot.
Hai người đang tranh luận về quan điểm triết học của mình. Praton chỉ tay lên trời
còn Arixtot chỉ tay xuống đất. "Điều này thể hiện tư tưởng triết học duy tâm khách


quan của Praton và sự dung hợp giữa triết học duy vật và duy tâm của Arixtot"
(LSMT thế giới - Phạm Thị Chỉnh). Bức tranh có khoảng 50 nhân vật bao gồm
những nhà học giả, nhà triết học, những đại biểu của khoa học nghệ thuật các thời
kỳ trong đó có cả Leonar và Raphael. Tất cả được sắp xếp rải trên các tầng bậc.
Với sự sắp xếp các mảng màu, bố cục chặt chẽ gắn bó diễn tả nhân vật nổi trên nền
kiến trúc không gian. Bức tranh như hút sâu thăm thẳm và mở rộng ra hai bên mặc
dù bố cục tranh bó gọn trong không gian kiến trúc. Có thể nói hầu hết các phòng
trong tòa thánh Vaticang đều có tranh của Raphael.
Cũng trong thời gian ở Roma, Raphael vẽ một khối lượng khá lớn tranh giá
vẽ, trong đó có nhiều bức chân dung như "Chân dung giáo hoàng Đuyn II", chân
dung nhà văn nổi tiếng Hataxarơ Catxtilion,
Gần cuối đời Raphael lại vẽ tranh Đức mẹ. Người đời hãy còn nhắc mãi bức
chân dung cỡ lớn "Madona xitxtin" dùng để thờ. Bức tranh hiện còn đang lưu trong
bảo tàng Dretxden của Đức. Thay vì hình ảnh thân tình giữa Đức mẹ và Chúa
thường thấy trong các bức tranh cùng đề tài, "Madona xitxtin" mang một phẩm
chất tạo hình tuyệt đẹp. Bao quanh sự lấp lánh sáng, Madona trông thật trịnh trọng
và kì vĩ trong mây đang bế Chúa hài đồng. Bên trái và bên phải là Đức mẹ là thánh
Xitxto và nữ Thánh vacvara hơi nghiêng mình, quỳ hối. Bố cục khá đăng đối hình
bóng rất rõ, tính khái quát mạnh… nhờ đó bức tranh đã tạo được chất hoành tráng
trữ tình, chứa đựng cái gì đó vừa sống vừa thực vừa pha lẫn chút lí tưởng hóa.
Hình ảnh Madona mang một nội dung phức tạp: sự trong sạch đáng sợ, sự ngây thơ

đáng quý của nữ đồng trinh hòa hợp với tính quyết định và sự sẵn sàng hi sinh anh
dũng của Madona. Chính đó là chất anh hùng ca, là truyền thống tuyệt đẹp của chủ
nghĩa nhân văn Ý. Điều này còn có nghĩa là, xuất phát từ hiện thực, dựa vào hiện
thực, tác giả hướng nâng hình tượng lên trên tất cả cái gì gọi là ngẫu nhiên và
thoáng qua giây lát.Tranh của Raphael đã kết tinh được những phẩm chất cao đẹp,
lý tưởng của nghệ thuật phục hưng cổ điển. Nó "biểu hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng, uyển


chuyển và duyên dáng đồng thời mang nội dung lịch sử, tín ngưỡng vào tôn giáo
sâu sắc" (LSMT thế giới - Phạm Thị Chỉnh). Tranh của ông đã đạt đến sự mẫu mực
tuyệt đối của bố cục, hình họa và màu sắc. Hồng y Benzbo, một họa sĩ già nổi tiếng
thời phục hưng đã viết trên bia mộ Raphael trong điện Panteon ở Roma "đây là
nấm mồ của Raphael, kẻ sinh thời đã khiến mẹ thiên nhiên lo lắng. Vì sợ rằng sẽ bị
chàng chinh phục. Và khi chàng qua đời, cũng sợ mình phải chết theo" (Sách Câu
chuyện nghệ thuật - Nxb Mỹ thuật).



×