1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Học chế tín chỉ là phương thức đào tạo xem người học là trung tâm. Thực
hiện lộ trình Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra đến năm 2010 tất cả các trường Đại
học và Cao đẳng trong cả nước phải chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, năm
học 2010 - 2011 trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu đã chuyển từ học
chế học phần sang học chế tín chỉ đối với tất cả các lớp Cao đẳng năm thứ nhất.
Đây là điều kiện quan trọng để giúp cho SV chủ động thiết kế, xây dựng kế hoạch
học tập, lựa chọn tiến độ học tập, có thể thay đổi chuyên ngành đào tạo mà không
phải học lại từ đầu, có thể học thêm ngành học mới vv...
Làm thế nào để phát huy được ưu điểm của hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ? Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thích ứng của SV.
E.A.Andreeva nhà tâm lý học Liên Xô viết: sự thích ứng là tiền đề cho hoạt
động thành công của mỗi cá nhân trong một vai trò xã hội này hay một vai trò
xã hội khác[2]. Nói cách khác, thích ứng sẽ giúp con người nhanh chóng lĩnh
hội những tri thức; hình thành kỹ năng, kỹ xảo mới; thao tác hành động trở nên
thuần thục, chính xác; đồng thời làm cho những phẩm chất tâm lý, các năng lực
và kỹ năng hoạt động của cá nhân ngày càng phát triển. Tìm hiểu sự thích ứng
của SV hiện nay với hình thức đào tạo theo tín chỉ là một đòi hỏi mang tính
bức thiết, về mặt lý luận nó giúp khẳng định vai trò của thích ứng đối với hoạt
động của con người nói chung và của SV nói riêng, về mặt thực tiễn nó giúp
SV tìm ra biện pháp nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động học tập (học
tập tốt), giúp cho giảng viên phát huy được năng lực của mình trong quá trình
dạy học, giúp các nhà quản lý tổ chức và thực hiện tốt hoạt động đào tạo của
nhà trường.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Sự thích ứng của sinh
viên Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu với hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ”.
2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, đề tài nhằm tìm ra những biện pháp góp
phần nâng cao khả năng thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo tín
chỉ, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao đẳng Sư phạm
Bà Rịa – Vũng Tàu
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu là:
Sự thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo tín chỉ.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Chúng tôi chọn các khách thể để nghiên cứu gồm:
- Sinh viên K14 và K15 thuộc các khoa: Tiểu học; Ngoại ngữ tin học, Xã
hội, Tự nhiên, Kinh tế trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Giảng viên giảng dạy các học phần đào tạo theo tín chỉ ở các lớp K14,
K15 trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Đội ngũ cố vấn học tập, cán bộ quản lý các phòng, khoa trường Cao
đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Thực trạng sự thích ứng với hình thức đào theo tạo tín chỉ của sinh viên
trường CĐSP Bà Rịa – Vũng Tàu chưa thật tốt. Những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến thực trạng đó có thể là: Nhận thức của sinh viên với hình thức đào
tạo tín chỉ chưa đầy đủ, rõ ràng; Sự tác động và hướng dẫn của đội ngũ cố vấn
học tập đối với hình thức đào tạo tín chỉ cho sinh viên chưa thực sự có hiệu
quả; Giảng viên tham gia giảng dạy theo hình thức tín chỉ chưa nắm vững và
thực hiện đúng “Quy chế 43”, chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy; Ý
thức học tập của sinh viên và công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập chưa
thật tốt.
- Nếu sinh viên nhận thức đầy đủ, rõ ràng những yêu cầu của hình thức đào
tạo tín chỉ và có ý thức tích cực trong học tập thì kết quả học tập sẽ tốt hơn.
3
- Nếu đội ngũ cố vấn học tập của nhà trường hoạt động có hiệu quả thì
việc học tập của sinh viên sẽ ít gặp khó khăn hơn.
- Nếu các giảng viên tham gia giảng dạy theo hình thức tín chỉ nắm
vững “Quy chế 43” và thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy thì chất
lượng các giờ dạy sẽ tốt hơn, sinh viên bớt khó khăn, kết quả học tập sẽ
được cải thiện.
5. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Giới hạn về nội dung
Trên cơ sở lý luận Tâm lý học về sự thích ứng, đề tài tập trung nghiên cứu sự
thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo tín chỉ qua các hành động cụ thể:
- Hành động học ở nhà.
- Hành động học trên lớp.
- Hành động kiểm tra, đánh giá.
5.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo
tín chỉ tại trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đề tài thực hiện 3 nhiệm vụ sau:
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về thích ứng nói chung và thích ứng với hình
thức đào tạo theo tín chỉ.
6.2. Nghiên cứu thực trạng thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo
tín chỉ, những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó.
6. 3. Đề xuất các biện pháp tác động, nhằm nâng cao mức độ thích ứng với
hình thức đào tạo theo tín chỉ của sinh viên trường CĐSP Bà Rịa – Vũng Tàu.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Đọc các tài liệu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa ... rút ra
những cơ sở lý luận của đề tài.
4
7.2. Phương pháp quan sát:
Dự giờ giảng của các giảng viên, quan sát hoạt động giảng dạy của họ để
nắm được các vấn đề cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu.
7.3. Phương pháp điều tra bằng Ankét:
Xây dựng bộ câu hỏi điều tra sinh viên thuộc các khoa được đào tạo theo
hình thức tín chỉ, giảng viên thuộc khách thể nghiên cứu và đội ngũ cố vấn học
tập, cán bộ quản lý phòng, khoa nhằm thu thập số liệu cần thiết cho đề tài.
7.4. Phương pháp đàm thoại:
Trực tiếp trò chuyện với một số sinh viên, giảng viên, đội ngũ cố vấn học
tập, cán bộ phòng khoa trường CĐSP để bổ sung những thông tin cần thiết.
7.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Xem xét các bài tập, bài làm của sinh viên, dự các giờ giảng dạy của giảng viên,
qua đó đánh giá mức độ thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo tín chỉ.
7.6. Phương pháp toán học:
Sử dụng các phương pháp toán học để xử lý các kết quả nghiên cứu.
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỂ TÀI:
8.1. Về lý luận: Đề xuất một số biện pháp tác động để nâng cao mức độ thích
ứng với hình thức đào tạo theo tín chỉ của sinh viên, góp phần tiếp tục nâng cao
chất lượng đào tạo ở trường CĐSP Bà Rịa – Vũng Tàu, đáp ứng yêu cầu đổi
mới, nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
.8.2. Về thực tiễn: Chỉ ra thực trạng thích ứng với hình thức đào tạo theo tín chỉ
của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu.
5
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Thích ứng có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người; nó
ảnh hưởng đến hiệu quả công việc, có tác dụng nâng cao năng suất lao động, giúp
con người tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh sống luôn biến đổi. Trong Tâm lý
học, vấn đề thích ứng đã được các trường phái Tâm lý học đề cập đến nhưng lại ít
được đầu tư nghiên cứu hơn so với các vấn đề khác. Chính vì thế còn nhiều vấn đề
về thích ứng chưa được đi sâu nghiên cứu như cơ chế thích ứng, sự hình thành thích
ứng… Sau đây chúng tôi trình bày vài nét về việc nghiên cứu thích ứng với hoạt
động học tập của học sinh ở nước ngoài và ở Việt Nam.
1.1.1. Nghiên cứu thích ứng với hoạt động học tập của học sinh ở nước ngoài
Các nhà tâm lý học trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
thích ứng với hoạt động học tập của học sinh, kết quả của một số công trình
nghiên cứu như sau:
Năm 1954, Bernard. H.W đã đúc rút kinh nghiệm dạy học của bản thân và
đồng nghiệp qua một số trường hợp cụ thể, viết nên tác phẩm Psychology of
learning and teaching (Tâm lý học về học tập và giảng dạy). Tác giả cho rằng: để
người học thích ứng với học tập ở trường thì thầy và trò phải nỗ lực và phối hợp
chặt chẽ với nhau. Đối với những người học gặp vấn đề khó khăn về thích ứng
học tập GV cần: tích cực khen ngợi; cụ thể hóa bài học; tích cực luyện tập và lặp
lại thông tin; nhấn mạnh vào những điểm như đúng giờ giấc, sạch sẽ, sức khỏe để
người học ứng dụng vào thực tiễn; cần kiên nhẫn; ra những chỉ thị và mệnh lệnh
rõ ràng; học đọc và học toán phải nhấn mạnh vào tình huống hằng ngày; cố gắng
tận dụng khả năng của người học ở các lĩnh vực khác nhau; xếp loại học tập căn
cứ vào sự phát triển cá nhân hơn là thành tích học tập ứng dụng việc học vào công
việc đơn giản trong cuộc sống thực.
Công trình nghiên cứu của Bernard. H.W đã khẳng định vai trò của mối quan
hệ tích cực giữa thầy và trò; để thích ứng với hoạt động học tập, không chỉ trò phải tích
cực hoạt động mà cả thầy cũng phải tích cực trong hoạt động giảng dạy. Qua nghiên
6
cứu của mình, Bernard. H.W đã chỉ ra các biện pháp cụ thể để giúp học sinh nhanh
chóng thính ứng với hoạt động học tập [5].
Năm 1989, Wendy S. Grolnik thuộc đại học New York và Richard M. Ryan
thuộc đại học Rochester đã nghiên cứu ảnh hưởng của cha mẹ đến khả năng thích
ứng với học tập của HS. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bố mẹ có phong cách hỗ trợ
sự tự chủ của con cái có ảnh hưởng tích cực đến tính tự lập, tự chủ, năng lực và sự
thích ứng ở trường. Sự dồn hết tâm trí của mẹ liên quan đến thành tựu, năng lực và
một số khía cạnh của hành vi thích ứng ở con cái. Bố mẹ có phong cách tiếp viện có
liên quan chặt chẽ với sự kiểm soát của trẻ em trong lĩnh vực học thuật. Tác giả đã
khẳng định, phong cách sống của gia đình, đặc biệt là phong cách của người mẹ có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách nói chung và năng
lực thích ứng trường học nói riêng của con cái họ [26].
Năm 1996, Thomas J. Dishion thuộc trung tâm học tập xã hội Oregon và
Robert J. McMahon thuộc đại học Washington nghiên cứu về sự giám sát của bố
mẹ ảnh hưởng đến sự thích ứng ở trẻ em. [31]. Kết quả nghiên cứu này đánh giá rất
khách quan vai trò của cha mẹ đối với sự thích ứng hoạt động học tập của HS, tác
giả đã chỉ rõ cha mẹ chỉ là một trong nhiều yếu tố. Thực tiễn cho thấy, sự thích ứng
với hoạt động học tập của HS phụ thuộc và chịu sự tác động của nhiều yếu tố như:
thầy cô giáo; các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường; nội dung học tập; ý thức
và tính tích cực, tự giác, sáng tạo, độc lập của học sinh; tác động của cha mẹ vv...
Luận án của Marika Silván năm 1999, tại khoa Giáo dục thuộc Đại học
Jyväskylä, nghiên cứu sự thích ứng của trẻ với hoạt động học tập; Tác giả cho rằng,
cần phân bố môi trường học tập để cho trẻ thích ứng, như học nhóm [17].
Năm 1999, Christabel Zhang nghiên cứu sự thích ứng học tập của sinh viên
Trung Quốc tại Australia đã chỉ ra rằng, những yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thích
ứng học tập của những sinh viên này là ngôn ngữ, phương pháp dạy học, bản chất
mối quan hệ tương tác giữa người dạy và người học. Tác giả khẳng định, cần chú ý
tới sự khác biệt văn hóa của người học khi xây dựng nền tảng cho bậc học cao hơn
7
[98]. Kết luận trên có ý nghĩa khoa học giúp cho các nhà quản lý giáo dục tổ chức
tốt các lớp học có thành phần học sinh thuộc nhiều dân tộc, nhiều quốc gia.
Năm 2000, Xinyin Chen thuộc đại học Tây Ontario, Canada và Bo-huLi
thuộc Đại học Sư phạm Shanghai Trung Quốc công bố nghiên cứu hai năm trên
trẻ 12 tuổi về ảnh hưởng tâm trạng thất vọng tới sự thích ứng trường học của trẻ
em Trung Quốc như sau: Tâm trạng thất vọng của học sinh được nghiên cứu qua
tự thuật, đánh giá của bạn bè, giáo viên và hồ sơ tại trường. Tâm trạng thất vọng
của các em ổn định qua hai năm học. Hơn nữa sự thất vọng tác động âm tính tới
các kết quả học tập và tác động dương tính tới việc tăng các khó khăn thích ứng.
Các kết quả này gợi ý rằng, tâm trạng thất vọng là một tín hiệu có ý nghĩa trong sự
phát triển tâm lý – xã hội của trẻ em Trung Quốc và vì vậy, nó đáng được các bậc
cha mẹ, các nhà giáo dục quan tâm [6].
Nghiên cứu của Ming-Kung Yang và Wei-Chin Hsiao (Đại học Quốc gia
Đài Loan) năm 2000 về sự thích ứng với việc học kỹ năng của học sinh các trường
trung học nghề ở Trung Quốc cho thấy: HS trung học nghề có thái độ tích cực đối
với thích ứng về học tập kỹ năng; không có sự khác biệt cá nhân đáng kể về sự
thích ứng học kỹ năng ở góc độ hiệu quả tự học và các yếu tố của môi trường dạy
học; qua mối quan hệ xã hội, tiện nghi xưởng thực hành, sự quan tâm của nhà
trường về việc học kỹ năng có thể dự đoán được mức độ nỗ lực của học sinh trong
thích ứng học tập kỹ năng [28].
Nghiên cứu của Yao-Minh WU (Đại học Quốc gia Đài Loan) năm 2000 về
ảnh hưởng của việc quản lý lớp học đến sự thích ứng của người học [27].
Năm 2003, P. Zettergren thuộc Đại học Stockholm Thụy Điển nghiên cứu về
mối quan hệ bạn bè của trẻ vị thành niên 10 – 11 tuổi ảnh hưởng đến thành tích học
tập, thái độ và hành vi ứng xử của các em. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thành tích học
tập và mức độ trí thông minh của các em bị bạn bè hắt hủi là kém hơn so với các em
khác. Điểm số của những em được bạn bè yêu quí đạt chuẩn cao. Có dấu hiệu rằng,
những học sinh nữ bị bạn bè ghét bỏ có thái độ tiêu cực với trường học và các nhiệm
vụ ở trường. Tỷ lệ bỏ học giữa chừng ở học sinh nam bị ghét bỏ cao hơn nhiều so với
8
các nhóm học sinh nam khác. Những trẻ bị bạn bè hắt hủi có thể gây rắc rối ở trường
và khi lớn lên. Vì vậy, cần phải quan tâm đặc biệt tới những trẻ em này[29].
Các công trình nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học tập của HS cho
thấy: thích ứng với hoạt động học tập của HS chịu ảnh hưởng rất lớn của gia đình,
của mối quan hệ bạn bè, của GV, của đời sống tình cảm và phong cách học của
HS. Trong công tác giáo dục và đào tạo, nhà sư phạm cần quan tâm đến sự ảnh
hưởng này, có thế mới giúp cho HS thích ứng tốt với hoạt động học tập.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thích ứng với HĐ học tập của HS ở Việt Nam
Năm 1996, luận án tiến sĩ của Đỗ Mạnh Tôn, nghiên cứu thích ứng với học
tập và rèn luyện của học viên trường Sỹ quan quân đội. Kết quả nghiên cứu cho
thấy thích ứng với học tập và rèn luyện của học viên trường Sỹ quan quân đội phụ
thuộc vào động cơ học tập và xu hướng nghề nghiệp quân sự[21].
Năm 1997, Vũ Thị Nho nghiên cứu về ảnh hưởng của giáo dục mẫu giáo đến
khả năng thích ứng với hoạt động học tập của học sinh đầu tuổi học. Trong nghiên cứu
của mình, tác giả đã khẳng định vai trò rất quan trọng của giáo dục mẫu giáo đối với
hoạt động học tập của trẻ em đầu tuổi học. Giáo dục trước tuổi học là điều kiện thuận
lợi giúp trẻ em có sự thích ứng nhanh hơn, tốt hơn với hoạt động học tập. Phát triển
mẫu giáo là đòi hỏi tất yếu trong quá trình trưởng thành của trẻ nói chung, của thích
ứng trường học nói riêng[15]. Kết luận của tác giả đã được khẳng định từ lâu trong các
tài liệu giáo dục học mầm non (chương: Chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1). Theo chúng tôi
đóng góp của tác giả là đưa ra được các số liệu minh họa cho các kết luận.
Năm 2000, luận án tiến sĩ của Phan Quốc Lâm về “Sự thích ứng với hoạt động
học tập của HS lớp 1”, tác giả kết luận: Sự thích ứng với hoạt động học tập của học
sinh lớp 1 được hình thành trong và bằng chính hoạt động tích cực của HS và chịu sự
tác động của nhiều yếu tố: Sự phát triển trí tuệ, hoàn cảnh gia đình, giới tính và tác
động của GV. Có thể nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động học tập của học sinh
lớp 1 bằng việc tác động đến nhận thức và tác động tâm lý – sư phạm của GV trong
quá trình dạy học. Trước hết, cần nâng cao hiểu biết của GV lớp 1 về ý nghĩa của vấn
đề, đặc điểm và vai trò của bước chuyển lớn xảy ra ở trẻ lần đầu tiên đến trường, những
9
biện pháp giúp trẻ thích ứng tốt với môi trường nhà trường và đặc điểm của hoạt động
học tập. Ngoài ra, cần chú ý hình thành ở trẻ những hành vi, ứng xử phù hợp với hoạt
động học tập. Kết quả nghiên cứu là những cơ sở khoa học để tổ chức tốt hoạt động
dạy và học ở học sinh lớp 1 trường tiểu học đạt hiệu quả[10].
Năm 2002, Lê Ngọc Lan công bố kết quả nghiên cứu đề tài “Sự thích ứng với
hoạt động thực hành môn học của sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội”. Tác giả kết
luận: Thích ứng là một cấu trúc tâm lý gồm hai yếu tố: Nắm được các phương thức
hành vi thích hợp đáp ứng yêu cầu của cuộc sống và hoạt động; hình thành những cấu
tạo tâm lý mới tạo nên tính chủ thể của hành vi và hoạt động. Hai yếu tố này gắn bó
chặt chẽ với nhau giúp con người điều chỉnh được hệ thống thái độ, hành vi hiện có,
hình thành được hệ thống thái độ, hành vi mới phù hợp với môi trường đã thay đổi.
Thích ứng với cuộc sống và hoạt động ở môi trường mới có nhiều yêu cầu cao hơn, là
một quá trình lâu dài. Tốc độ và kết quả của quá trình đó phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ
lực, ý thức và khả năng của mỗi sinh viên. Tác giả kiến nghị, cần xây dựng cho người
học phương pháp học tập phù hợp với chương trình học mới để giúp họ thích ứng tốt
hơn với học tập ở trường đại học. Đây là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Tác giả đã chỉ ra được các thành phần tâm lý của thích ứng và
các yếu tố chi phối thích ứng với học tập ở trường đại học[9].
Năm 2003, Nguyễn Thạc nghiên cứu sự thích ứng đối với hoạt động học
tập của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nhà trẻ Mẫu giáo Trung ương 1. Tác
giả cho rằng: sinh viên chưa thích ứng được với việc học tại trường là do trình độ
học lực, do chưa quen với phương pháp học tập mới và cách giảng của GV, do
thay đổi môi trường học tập[18].
Năm 2006, Đặng Thị Vân, Nguyễn Thị Ngọc Thúy và Đỗ Thị Vĩnh Hằng
nghiên cứu thực trạng thích ứng của sinh viên khoa Sư phạm Kỹ thuật đối với việc
học tập bằng phương pháp thảo luận nhóm.
Năm 2008, luận án tiến sĩ của Đỗ Thị Thanh Mai nghiên cứu mức độ thích ứng
với hoạt động học tập của sinh viên hệ Cao đẳng trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Tác giả kết luận: sinh viên hệ Cao đẳng thích ứng không giống nhau với hoạt động
10
thực hành môn học tại trường. Mức độ thích ứng với hoạt động thực hành môn học của
sinh viên chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, các yếu tố chủ quan như: chỉ số phát triển
thông minh, kiểu tính cách, sức khỏe, sự nỗ lực cá nhân... các yếu tố khách quan như:
việc tổ chức đào tạo của nhà trường, sự nhiệt tình và phương pháp dạy học của GV...
Khi nghiên cứu các mặt tâm lý biểu hiện thích ứng của sinh viên với hoạt động thực
hành môn học, tác giả chỉ nghiên cứu nhận thức về vai trò, tầm quan trọng theo chúng
tôi là chưa đủ mà cần nghiên cứu cả về sự hiểu biết của sinh viên với các công việc cụ
thể của hoạt động thực hành; Nghiên cứu về kỹ năng tác giả đưa ra những tiêu chí còn
chung chung, chưa thể hiện rõ các kỹ năng thực hành môn học. Tuy nhiên, luận án đã
cung cấp cho chúng ta một số liệu rất cụ thể về khả năng thích ứng của sinh viên với
hoạt động thực hành môn học[12].
1.2. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ THÍCH ỨNG CỦA SINH VIÊN VỚI HÌNH
THỨC ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
1.2.1. Hoạt động học tập
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động học
Học đối với con người nói chung là sự thu thập kiến thức, rèn luyện kỹ
năng bằng những cách thức phương pháp khác nhau:
- Học nhờ trải nghiệm trong cuộc sống, qua đó con người tích luỹ được
kinh nghiệm và những hiểu biết nhất định;
- Học theo phương pháp nhà trường, được tổ chức tự giác từ Nhà nước và
xã hội, được thực hiện trong trường học, xẩy ra khi học trên lớp, học ở nhà và khi
kiểm tra đánh giá;
- Học theo phương pháp tự học.
1.2.1.2. Bản chất của hoạt động học
* Hoạt động học là hoạt động chiếm lĩnh tri thức (nhận thức tái tạo) và kỹ năng,
kỹ xảo tương ứng với tri thức đó.
* Hoạt động học làm thay đổi chính chủ thể.
- Bằng hoạt động học, mỗi chủ thể lĩnh hội được tri thức mới và kỹ năng, kỹ
xảo tương ứng, nhờ vậy mà tạo được sự phát triển TL của người học.
11
- Nhờ HĐ học và các HĐ khác mà HS có sự phong phú về tâm hồn, hình
thành nhân cách.
Có thể nói rằng, HĐ học tạo ra sự biến đổi ở chính bản thân người học, hình
thành nhân cách HS.
1.2.1.3. Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên theo học chế tín chỉ
a. Tín chỉ là gì?
Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một
người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm (1) thời gian lên lớp;
(2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được
quy định ở thời khóa biểu; và (3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải
quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...; đối với các môn học lí thuyết một tín chỉ là
một giờ lên lớp (với hai giờ chuẩn bị bài) trong một tuần và kéo dài trong một học
kì 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ
trong một tuần (với 1 giờ chuẩn bị); đối với các môn tự học, ít nhất là 3 giờ làm
việc trong một tuần. (James Quan thuộc Đại học Washington)
b. Đặc điểm cơ bản của hoạt động học tập theo học chế tín chỉ:
-
Kiến thức được cấu trúc thành các mô đun (học phần). Quá trình học tập là
sự tích lũy kiến thức của người học theo từng học phần.
-
Sinh viên tự đăng ký học tập và được tổ chức lớp học theo học phần.
-
Sinh viên học tập trong ba kỳ (một năm học có hai học kỳ chính và một học
kỳ phụ).
-
Đánh giá kết quả học tập theo từng học phần, sử dụng thang điểm 10, thang
điểm chữ và thang điểm 4, điểm trung bình tốt nghiệp phải 2,0.
-
Sinh viên phải tích lũy khối lượng kiến thức (số tín chỉ tích lũy tối thiểu)
cho từng văn bằng.
-
Học tập không chỉ có sự hướng dẫn của GV trực tiếp giảng dạy mà còn có
sự giúp đỡ của cố vấn học tập.
-
Học các học phần bắt buộc và các học phần tự chọn.
12
-
Bắt buộc sinh viên phải áp dụng phương pháp học tập chủ động, tích cực,
sáng tạo; phải có kỹ năng hợp tác, cộng tác (hoạt động nhóm) trong học tập.
1.2.2. Khái niệm chung về thích ứng
1.2.2.1. Khái niệm
Thuật ngữ “thích ứng” tiếng La Tinh là Adapto (từ điển Tâm lý học của
Raymond.J, Corsini, Mỹ, 1999), tiếng Anh là Adaption/Adaptation”(Từ điển Anh
- Việt, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1996), tiếng Pháp là S’adapter, tiếng
Nga là Aдапtáция (Từ điển Nga - Việt, tập I Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin
Hà Nội, 2003), tiếng Đức là Adaption/Adaptation (Từ điển Đức – Việt hiện đại,
tập 1, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, 2004) được đề cập đến từ lâu.
Trong từ điển Tiếng Việt có viết: “Thích nghi là những biến đổi nhất
định cho phù hợp với hoàn cảnh, môi trường mới, thích nghi với những sinh
hoạt mới” (Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1994).
Từ điển Tâm lý học do Nguyễn Khắc Viện biên soạn quan niệm: “Thích
nghi xã hội: một cá nhân tiếp nhận các giá trị của một xã hội, hòa nhập vào xã hội
ấy”. Ông cho rằng mọi sinh vật và con người sống được trong môi trường có
nhiều biến động bằng cách thay đổi chính bản thân hoặc tìm cách thay đổi môi
trường. Ông viết: “Thích nghi, thích ứng: một sinh vật sống được trong môi
trường có nhiều biến động, bằng cách thay đổi phản ứng của bản thân hoặc tìm
cách thay đổi môi trường. Bước đầu là điều chỉnh những phản ứng sinh lý (như
thích nghi với nhiệt độ cao hay thấp, môi trường khô hay ẩm) sau là thay đổi cách
ứng xử, đây là thích ứng tâm lý”.
Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên quan niệm: thích nghi xã hội: 1.
Quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những điều kiện của môi trường xã
hội mới. 2. Kết quả của quá trình trên.
Từ điểm Tâm lý học của Raymond J. Corsini (Mỹ) quan niệm thích nghi
(adaptation) là: 1. Sự biến đổi một cấu trúc hoặc một chức năng của cơ thể để
thích hợp với những thay đổi của môi trường sống; 2. Những thay đổi thái độ về
môi trường bên ngoài để thích hợp tốt hơn với các tình huống này; 3. Đối với các
13
cơ quan thụ cảm, sự biến đổi độ nhạy cảm để thực hiện chức năng tốt nhất; 4.
Theo thuyết của Darwin, thích nghi là sự sống sót của loài qua sự chọn lọc tự
nhiên bằng cách thay đổi để phù hợp tốt hơn với môi trường sống.
Tác giả Trần Hiệp và Đỗ Long trong tác phẩm “Sổ tay Tâm lý học” hai ông
đồng nhất “thích nghi” và “thích ứng”, đồng thời phân biệt rõ thích nghi và thích
nghi xã hội. “Thích nghi” sự thích ứng về cấu tạo và chức năng của cơ thể bao gồm
cả các cơ quan và tế bào của nó đối với điều kiện của môi trường. Thích nghi xã
hội, có hai nghĩa : 1 - Quá trình thích nghi tích cực của cá nhân đối với những điều
kiện của môi trường xã hội mới; 2 - Kết quả của quá trình trên[8, tr 51].
Thích ứng là quá trình phức tạp nó không chỉ biến đổi thụ động trước hoàn
cảnh sống mà còn bao hàm cả tính tích cực của chủ thể nhằm cải tạo bản thân và
hoàn cảnh, tạo sự phù hợp tối ưu để đạt hiệu quả cao trong hoạt động. Vì vậy, chúng
ta không thể xem xét, nhìn nhận thích ứng một cách phiến diện, mà phải tiếp cận một
cách khoa học, toàn diện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Duy vật biện chứng.
Quan điểm của các nhà Tâm lý học Duy vật biện chứng về thích ứng như sau:
E.A.Ermolaeva khi bàn về thích ứng của con người với hoạt động lao động
đã viết: thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động với các đặc điểm và
điều kiện lao động trong một tập thể nhất định. Bà đã chỉ ra các chỉ số để đánh giá
sự thích ứng nghề nghiệp; trong đó có bốn chỉ số khách quan: chất lượng công
việc, trình độ tay nghề, sự tuân thủ kỹ thuật lao động, uy tín của cá nhân trong tập
thể và ba chỉ số chủ quan: Thái độ hài lòng đối với công việc, điều kiện làm việc,
mối quan hệ với người khác.
A.V.Petrovski khi nghiên cứu sự hòa nhập của cá nhân vào cấu trúc vai trò
của nhóm. Ông viết: "Thích nghi (trong Tâm lý học và Xã hội học) - thuật ngữ được
dùng theo hai nghĩa: thứ nhất, với tư cách là sự hòa hợp bên trong và bên ngoài của
cá nhân với nhóm; thứ hai, với tư cách là sự hòa hợp thuần tuý bên ngoài với nhóm
trong khi vẫn có sự bất đồng bên trong với lập trường nhóm" [16, tr 248]
Theo B.Ph.Lomov, có thể chia ra ba dạng hoặc ba cách thay đổi cơ bản của
cơ thể trong quá trình thích nghi với môi trường xung quanh:
14
- Sự thay đổi mang tính chất di truyền của cơ thể. Cách này rất chậm mặc
dù nó là cách chủ yếu để hình thành các loài.
- Sự thay đổi về chức năng của các cơ quan trong cơ thể. Quá trình này
diễn ra trong vòng một thời gian ngắn so với cuộc sống của cá thể.
- Sự thích nghi nhờ sự thay đổi hành vi không cần phải thay đổi các cơ
quan của cơ thể[11, tr 211].
“Tính tất yếu của phản ánh tâm lý xuất hiện trong quá trình hóa, gắn
với sự phát triển hành vi - gắn với sự thích nghi tích cực của cơ thể với môi
trường xung quanh. Tất nhiên, chủ thể tích cực năng động chứ không phải là
sự phản ánh” [11, tr 213].
A.N.Leonchiev tiếp cận vấn đề “thích ứng” của con người trên cơ sở hoạt
động ("thích ứng" với hoạt động và trong hoạt động). Ông viết: không ai phủ nhận
vai trò của yếu tố tự nhiên, di truyền trong sự phát triển người. Các Mác và
Ph.Ănghen đã chứng minh việc tạo ra “con người” là do lịch sử loài người. Về
phương diện cá nhân, các công trình nghiên cứu bằng phương pháp trẻ em sinh
đôi đã chỉ rõ: các yếu tố thần kinh, cấu trúc gen, cấu trúc di truyền v.v… chỉ là cơ
sở vật chất, điều kiện của sự phát triển. Nó ảnh hưởng tới tốc độ, nhịp độ, sắc thái,
biểu hiện và qui định giới hạn của sự phát triển. Vấn đề môi trường xã hội, phải
được xét khác với các yếu tố tự nhiên trong quá trình phát triển của trẻ em. Sự thật
ở đây là gì? Cái gì mà đứa trẻ cần có trong hiện tại và tương lai cuộc sống tâm lý
của mình, thì chưa có và không bao giờ có sẵn ở bên trong các cơ chế sinh học của
nó. Ngược lại, những cái đó đã có ở bên ngoài nó, trong nền văn hóa – xã hội, tức
là trong môi trường xã hội. Về đại thể, môi trường xã hội không phải là điều kiện
(như trong sự phát triển của động vật) mà là nguồn gốc của sự phát triển. Tuy
nhiên, nói như vậy chưa thực sự chính xác. Bằng quan sát kinh nghiệm, người ta
cũng đã nhận thấy hai đứa trẻ trong một gia đình, các học sinh trong cùng lớp, trẻ
em cùng khu dân cư … nghĩa là cùng một môi trường xã hội, nhưng chúng là các
nhân cách khác nhau cả về bản chất và chiều hướng phát triển. Ở đây, cần tránh
quan niệm về vai trò của môi trường xã hội như một số nhà Tâm lý – Xã hội học
15
Pháp: xã hội là cái có sẵn, một thế lực xa lạ, có sức mạnh cưỡng bức và xâm nhập
vào đứa trẻ, biến nó từ đứa trẻ tự nhiên cá nhân thành đứa trẻ xã hội. Thực ra, cái
xã hội đó hoàn toàn không có trước con người, đối ngược với con người và bất
biến. Nó chính là sản phẩm hoạt động của con người, biến đổi và phát triển cùng
với sự biến đổi và phát triển của con người.
Môi trường xã hội vừa qui định sự phát triển của con người vừa là sản
phẩm của nó. Chữ “vừa” ở đây không có nghĩa là sau cái này là cái kia mà là
do cái này có cái kia, cái này qui định cái kia và ngược lại. Vì vậy, cả về
phương diện loài người lẫn phương diện cá nhân, luận điểm của Các Mác:
“Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con ngưòi
đến mức ấy”, phải được coi là định lý của sự phát triển. Như vậy, môi trường
xã hội là nguồn gốc của sự phát triển, nhưng còn ở dạng tiềm năng. Nó trở
thành nguồn gốc hiện thực khi và chỉ khi diễn ra quan hệ sinh thành lẫn nhau
giữa nó với hoạt động của chủ thể. Nó chính là tình huống của sự phát triển
theo cách hiểu của L.X.Vưgôtxki, tức là tình huống trong đó có sự tác động
qua lại giữa đứa trẻ với môi trường xã hội (thế giới đồ vật và quan hệ với người
lớn) bao quanh nó trong mỗi giai đoạn phát triển, hoặc là tính môi trường “cỏn
con” của riêng đứa trẻ, được tạo ra bằng cách thông qua hoạt động của mình,
đứa trẻ “rút tỉa” từ môi trường xã hội chung những cái phù hợp với nhu cầu
phát triển bản thân mình, theo cách nói của Đ.B.Encônhin. Nói ngắn gọn, trong
môi trường xã hội chung, mỗi đứa trẻ có môi trường phát triển riêng của mình,
tùy thuộc vào việc triển khai hoạt động của trẻ trong môi trường đó. Môi
trường riêng này mới thực sự là nguồn gốc của sự phát triển.[14, tr 597-599]
L.X.Vưgốtxki nhà Tâm lý học vĩ đại Liên Xô cũng có sự phân biệt về nội
dung khái niệm “thích nghi” dùng cho hành động của động vật và “thích nghi”
dùng cho hoạt động của con người. Trong bài báo “Ý thức như là vấn đề của tâm
lý học hành vi”, ông viết: “Cuối cùng, cái mới cơ bản trong hành vi của con người
là sự thích nghi và hành vi được gắn với nó áp dụng các dạng mới so với hành vi
của động vật. Trong khi động vật thích nghi thụ động với môi trường, con người
16
thích ứng tích cực môi trường với bản thân mình. Ở động vật, chúng ta bắt gặp các
dạng thích nghi tích cực thô sơ trong hoạt động bản năng của chúng (làm tổ, xây
nhà …); nhưng các dạng này của giới động vật, trước hết không có cái quan trọng
cơ bản, nổi trội hơn và thứ hai là vẫn thụ động ở khía cạnh các đặc điểm chủ yếu
của chúng và các cơ chế chúng thể hiện”[25, tr 8].
Tóm lại, hầu hết các nhà Tâm lý học hiện nay đều cho rằng thích nghi ở sinh
vật và thích nghi ở người có sự khác nhau về chất. Khác với sự thích nghi thụ động của
sinh vật, thích ứng của con người là thích ứng trong hoạt động. Để thích ứng, con
người phải hòa nhập vào hoạt động và chiếm lĩnh hoạt động bằng tính tích cực, chủ
động của mình. Như vậy, thích ứng ở con người mang tính tích cực, chủ động cải tạo
hoàn cảnh và điều chỉnh bản thân cho phù hợp với yêu cầu của hoạt động, hình thành
các phẩm chất và năng lực cần thiết cho con người hoạt động có hiệu quả.
Từ phân tích trên, chúng tôi cho rằng: “Thích ứng là quá trình con người
tích cực, chủ động thay đổi tâm lý của bản thân để đáp ứng những yêu cầu,
vượt qua những khó khăn đạt hiệu quả cao trong hoạt động; nó biểu hiện ở
mặt nhận thức, thái độ và hành vi đối với hoạt động”.
1.2.2.2. Các hình thức thích ứng
▪ Thích nghi sinh lý: là trình độ đầu tiên thấp nhất có ở thực vật và động vật bậc
thấp. Đặc trưng của trình độ này là cơ thể có khả năng đáp lại những kích thích
trực tiếp từ môi trường tự nhiên một cách chậm chạp, tạo ra những biến đổi ổn
định của cơ thể. Cơ chế của thích nghi sinh lý là biến dị, di truyền và chọn lọc tự
nhiên [30].
▪ Thích ứng tâm lý: Đây là hình thức thích ứng ở trình độ cao hơn xuất hiện ở
động vật có hệ thần kinh trung ương. Đặc trưng của hình thức này là cơ thể có khả
năng đáp lại những kích thích có tính chất tín hiệu từ môi trường.
Cơ chế của thích ứng tâm lý là phản xạ có điều kiện. Hệ thần kinh với
những chức năng và cơ chế hoạt động của nó đã giúp cho cơ thể định hướng, điều
chỉnh hoạt động đối với những biến đổi lớn của môi trường. Các quá trình thích
ứng của cơ thể được thực hiện qua hoạt động của hệ thần kinh, đặc biệt là não bộ.
17
Nhờ có thích ứng tâm lý, cơ thể có quan hệ phù hợp với những yếu tố có
tính biến đổi mạnh mẽ và mới lạ của môi trường sống giúp cho con người duy trì
sự tồn tại và phát triển.
▪ Thích ứng xã hội: Đây là hình thức thích ứng ở trình độ cao nhất chỉ có ở con
người. Theo Andreeva, thích ứng xã hội có liên quan chặt chẽ với quá trình xã hội
hóa và khái niệm “thích ứng” được hiểu với nghĩa rộng hơn. Đó là sự thâm nhập
của cá nhân vào những vai trò vị trí xã hội khác nhau. Trong quá trình này, con
người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử tạo thành vốn kinh nghiệm của bản thân
giúp cho họ nhập vào các vai trò xã hội một cách có hiệu quả.
Thích ứng xã hội là quá trình con người thâm nhập vào điều kiện hoạt động
mới nhằm lĩnh hội những yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động, những nội dung và kinh
nghiệm hoạt động ngay trong môi trườmg mới để có phương thức hành vi ứng xử
phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi đó. Trong quá trình này, con người phải huy
động các chức năng tâm lý của mình để khắc phục mọi khó khăn khi gặp phải,
đồng thời rèn luyện các chức năng đó để đạt hiệu quả cao trong hoạt động[1].
Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội, do đó
cả ba hình thức thích ứng trên đều có ở người và có ý nghĩa nhất định trong sự tồn
tại và phát triển của con người.
Trong đề tài này, thuật ngữ "thích ứng" được sử dụng như một thuật ngữ
của Tâm lý học, hiểu theo nghĩa thích ứng tâm lý - xã hội mang đặc trưng người.
1.2.2.3. Thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ
Từ khái niệm chung về thích ứng như trên chúng tôi xây dựng khái niệm
thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ như sau:
Thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ là
sự thay đổi tâm lý của họ để đáp ứng được những yêu cầu, vượt qua được
những khó khăn trở ngại trong học tập nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt
động học tập.
Sự thay đổi tâm lý của SV là sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hình
thành kỹ năng học tập với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ
18
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của sinh viên với hình thức đào
tạo theo học chế tín chỉ
1.2.3.1. Các yếu tố chủ quan từ phía sinh viên
- Tự ý thức: Là mức độ phát triển cao nhất của nhận thức. Tự ý thức là bản
thân SV ý thức về những cái mình đã nhận thức được trong cuộc sống cá nhân, có
chức năng điều chỉnh nhận thức, điều chỉnh thái độ hành vi của mình để hoàn
thiện nhân cách. Tự ý thức của SV phụ thuộc vào sự hiểu biết về mục đích ý
nghĩa, vai trò, nội dung cách thức của sự học. Từ đó, SV biết lập kế hoạch, tổ
chức việc học tập, tự kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của mình để phù hợp với
phương thức học tập theo học chế tín chỉ
- Thái độ học tập: Thái độ học tập là tổng thể nói chung những biểu hiện ra
bên ngoài (bằng nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩa tình cảm đối với
ai hoặc một sự kiện nào đó.
Thái độ học tập là những biểu hiện của cá nhân SV được hình thành qua hoạt
động học tập, mang màu sắc xúc cảm và tạo ra những phản ứng của bản thân với
hoạt động học tập và được biểu hiện qua hành vi bên ngoài: cần mẫn, chăm chỉ...
Thái độ tự học của SV được thể hiện ở nhu cầu, động lực, hứng thú, tính
tích cực, tự lực trong quá trình học tập, sự say mê với tinh thần quyết tâm cao và ý
chí khắc phục khó khăn để thực hiện nhiệm vụ học tập.
1.2.3.2. Những yếu tố khách quan
Những yếu tố khách quan bao gồm các yếu tố bên ngoài tác động đến học
tập của SV. Đó là phương pháp giảng dạy của GV, tổ chức, quản lý sinh viên học
tập, điều kiện thời gian và môi trường học tập... Những yếu tố này tác động đến chủ
thể thông qua lăng kính chủ quan của người học.
- Phương pháp dạy học của giáo viên: Các yêu cầu về học tập, đòi hỏi
phương pháp giảng dạy của giáo viên phải phù hợp với trình độ nhận thức và đặc
điểm tâm sinh lý của mỗi cá nhân. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp
với trình độ nhận thức và đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân và phương thức đào tạo
theo học chế tín chỉ là yếu tố tác động trực tiếp đến việc kết quả học tập của SV.
19
- Việc tổ chức, quản lý sinh viên tự học của gia đình và nhà trường cũng là
yếu tố có tác động thúc đẩy hoạt động học tập của SV
- Các yếu tố môi trường, thời gian tự học và điều kiện tự học ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động tự học của sinh viên bao gồm:
+ Môi trường học tập: Là môi trường xung quanh của bản thân người học:
môi trường tự nhiên (khí hậu, thời tiết, không gian tự học...); môi trường xã hội
(sự phát triển xã hội, yêu cầu của thời đại, mối quan hệ bạn bè, môi trường tập
thể...). Sự quan tâm của nhà trường, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật
dạy học của nhà trường ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động dạy – học. Không khí
học tập của SV trong trường cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động học tập của SV.
+ Thời gian học tập: Để có kết quả học tập tốt SV không những phải sắp
xếp thời gian hợp lý vào thời điểm trong ngày mà còn phù hợp với đặc điểm tâm
lý cá nhân. SV cần biết xen kẽ thời gian học tập trên lớp, tự học ở nhà và thời gian
nghỉ ngơi hợp lý.
+ Các yếu tố về về điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt, các phương tiện học
tập của cá nhân, tài liệu tham khảo… cũng có ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả
học tập của SV.
+ Nhân tố gia đình, bạn bè người thân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả học tập của SV.
Tiểu kết chương 1.
Trên đây là các khái niệm công cụ cơ bản của đề tài (Hoạt động học
tập; tín chỉ; đặc điểm hoạt động học tập theo tín chỉ; thích ứng; thích ứng của
sinh viên với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ); các yếu tố ảnh hưởng đến sự
thích ứng của sinh viên với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã được phân
tích, hệ thống hóa có tính lý luận là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng và rất
cần thiết cho nghiên cứu đề tài “Thích ứng của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Bà
Rịa – Vũng Tàu với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ”.
20
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.1. Tiến trình nghiên cứu
2.1.1. Nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thăm dò.
2.1.1.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
Tìm hiểu cách tiếp cận vấn đề và các công trình nghiên cứu về thích ứng trước
đây của các tác giả trong và ngoài nước; phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu
đó nhằm xây dựng nền tảng lý luận cho việc nghiên cứu thích ứng của SV trường Cao
đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu với hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
2.1.1.2. Nghiên cứu thăm dò.
* Mục đích:
- Xác định khách thể nghiên cứu.
- Tìm hiểu sơ bộ sự thích ứng của SV trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu
với hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ làm cơ sở cho việc đề ra giả thuyết, nhiệm
vụ nghiên cứu và xây dựng, chuẩn hóa hệ thống phương pháp nghiên cứu.
* Tiến trình nghiên cứu cụ thể:
- Thống kê tình hình nghiên cứu về thích ứng được đăng tải trên mạng Internet và
các tài liệu;
- Phỏng vấn SV và GV về nhận thức, thái độ và kỹ năng của SV khi tham gia học
tập theo hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ;
- Thiết kế phiếu điều tra, khảo sát thử bảng hỏi trên mẫu 18 SV lớp 14M vào
tháng 12/2011, xác định độ tin cậy của câu hỏi, kiểm soát tính khách quan của kết
quả khảo sát thăm dò, hoàn thiện công cụ khảo sát thực trạng;
- Xây dựng giả thuyết khoa học.
2.1.2. Khảo sát thực trạng
* Mục đích: Xác định thực trạng thích ứng của SV trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa
– Vũng Tàu với hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ
* Tiến trình cụ thể:
21
- Bước 1: Khảo sát bằng phiếu (Mẫu phiếu: số 1, số 2 phụ lục 2.1 và 2.2) nhằm tìm
hiểu sự thích ứng của SV trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu với hình thức
đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Số lượng: SV: 276 người gồm 104 người năm thứ nhất (khóa 15), 172
người năm thứ II thuộc các ngành ngoài Sư phạm, CĐSP Mầm non, CĐSP Tiểu
học, CĐSP THCS; GV: 15 người.
- Bước 2: Quan sát hoạt động của SV trong giờ học, học ở nhà và hoạt
động nhóm.
- Bước 3: Phỏng vấn sâu GV và SV thuộc khách thể nghiên cứu nhằm khai
thác thêm thông tin và chính xác hóa các kết quả nghiên cứu khảo sát bằng phiếu hỏi.
Số lượng:
Giáo viên: 5 người; Sinh viên: 15 người
- Bước 4: Phân tích kết quả nghiên cứu thực tiễn nhằm rút ra các kết luận
về mức độ thích ứng của SV trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu với hình
thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
2.2. Xây dựng tiêu chí và thang đánh giá mức độ thích ứng của SV trường Cao
đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu với hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
2.2.1. Tiêu chí đánh giá
SV thích ứng với hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ thể hiện cụ thể ở
thái độ, nhận thức và kỹ năng đối với các hành động học cụ thể: học trên lớp, tự học
ở nhà và hành động kiểm tra đánh giá. Căn cứ vào các hành động học cụ thể trên
lớp, học ở nhà và kiểm tra đánh giá, chúng tôi xây dựng các tiêu chí đánh giá (đo)
các mặt biểu hiện tâm lý của sự thích ứng: nhận thức (cần thiết/hiểu biết); thái độ
(thích thú/hài lòng/tự giác, tích cực); kỹ năng của SV với hình thức đào tạo theo hệ
thống tín chỉ như sau:
●
Nhận thức (cần thiết/hiểu biết), thái độ (thích thú/hài lòng/tự giác, tích cực),
kỹ năng của SV đối với việc học tập trên lớp được đánh giá ở các hành động cụ thể
(tiêu chí): a. Nắm vững đề cương chi tiết học phần; b. Tập trung chú ý cao khi tiếp
thu bài học; c. Tham gia HĐ nhóm; d. Lĩnh hội lượng kiến thức lớn; e. Theo dõi
GV hướng dẫn HĐ học ở nhà.
22
●
Nhận thức (cần thiết/hiểu biết), thái độ (thích thú/hài lòng/tự giác, tích cực),
kỹ năng của SV đối với việc tự học ở nhà được đánh giá ở các hành động cụ thể (tiêu
chí): f. Kế hoạch học ở nhà trong đề cương chi tiết học phần; g. Yêu cầu của GV;
h. Học tại thư viện và phòng Internet; i. Hoạt động nhóm; j. Tự học, tự nghiên cứu
●
Nhận thức (cần thiết/hiểu biết), thái độ (thích thú/hài lòng/tự giác, tích
cực), kỹ năng của SV đối với việc kiểm tra đánh giá được đánh giá ở các hành
động cụ thể (tiêu chí): k. Tính điểm chuyên cần, ý thức thái độ; l. Lựa chọn nội
dung kiến thức khi làm bài; m. Tính điểm giữa học phần (lý thuyết; lý thuyết và
thực hành; thực hành); n. Đánh giá học phần sử dụng thang điểm 10, thang điểm
chữ và thang điểm 4; o. Tính điểm và đánh giá học phần đạt/không đạt; p. Tính
điểm trung bình chung tốt nghiệp.
2.2.4.2. Thang đánh giá
Dựa vào ý nghĩa của từng giá trị trung bình đối với thang đo khoảng (Interval
Scale), giá trị khoảng cách = (Maximum - Minimum) / n = (5 -1) / 5 = 0.8
●
Thang đánh giá mặt nhận thức.
Mỗi tiêu chí được đánh giá ở năm mức độ: rất cần thiết/hiểu biết gọi chung
là rất hiểu biết; cần thiết, hiểu biết gọi chung là hiểu biết; khá cần thiết/khá hiểu
biết gọi chung là khá hiểu biết; không cần thiết mấy, không quan trọng mấy, hiểu
biết chút ít gọi chung là hiểu biết chút ít; không cần thiết, không hiểu biết gọi
chung là không hiểu biết. Từ 5 mức độ định tính này chuyển thành 5 mức độ định
lượng tương ứng: 5 điểm, 4 điểm, 3 điểm, 2 điểm, 1 điểm. Tính điểm trung bình
cho mỗi SV và mỗi tiêu chí; căn cứ vào điểm trung bình phân ra làm 5 mức độ:
thích ứng của SV với hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Mức độ I: 4,2< X ≤ 5 SV rất hiểu biết về hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Mức độ II: 3,4< X ≤ 4,2 SV hiểu biết ở mức độ khá về hình thức đào tạo theo
hệ thống tín chỉ.
Mức độ III: 2,6< X ≤ 3,4 SV hiểu biết ở mức độ trung bình về hình thức đào
tạo theo hệ thống tín chỉ.
Mức độ IV: 1,8< X ≤ 2,6 SV hiểu biết ở mức độ yếu (kém hiểu biết) về hình
23
thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Mức độ V: 1 ≤ X ≤ 1,8 SV không hiểu biết về hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
●
Thang đánh giá mặt thái độ.
Mỗi tiêu chí được đánh giá ở năm mức độ: rất thích/hài lòng/tích cực, tự
giác, quan tâm, rất đúng gọi chung là rất thích; thích/hài lòng/tích cực, tự giác,
quan tâm, khá đúng gọi chung là thích; khi thích/hài lòng/tích cực, tự giác, quan
tâm khi không, gọi chung là khi thích khi không; không thích/hài lòng/tích cực, tự
giác, quan tâm, không đúng mấy gọi chung là không thích; không hề thích/hài
lòng/tích cực, tự giác, quan tâm, không đúng gọi chung là không hề thích. Từ 5
mức độ định tính này chuyển thành 5 mức độ định lượng tương ứng: 5 điểm, 4
điểm, 3 điểm, 2 điểm, 1 điểm. Tính điểm trung bình cho mỗi SV và mỗi tiêu chí;
căn cứ vào điểm trung bình phân ra làm 5 mức độ:
Mức độ I: 4,2< X ≤ 5 SV có thái độ rất thích học theo hình thức đào tạo
học chế tín chỉ.
Mức độ II: 3,4< X ≤ 4,2 SV có thái độ thích học theo hình thức đào tạo học
chế tín chỉ.
Mức độ III: 2,6< X ≤ 3,4 GV có khi thích có khi không với việc học theo hình
thức đào tạo học chế tín chỉ.
Mức độ IV: 1,8< X ≤ 2,6 GV có thái độ không thích mấy với việc học theo hình
thức đào tạo học chế tín chỉ.
Mức độ V: 1 ≤ X ≤ 1,8 GV có thái độ không thích học theo hình thức đào tạo
học chế tín chỉ.
●
Thang đánh giá mặt kỹ năng.
Mỗi tiêu chí được đánh giá ở năm mức độ: rất thành thạo, thành thạo, chưa thành
thạo, biết chút ít, hoàn toàn không biết. Từ 5 mức độ định tính này chuyển thành 5 mức
độ định lượng tương ứng: 5 điểm, 4 điểm, 3 điểm, 2 điểm, 1 điểm. Tính điểm trung bình
cho mỗi SV và mỗi tiêu chí; căn cứ vào điểm trung bình phân ra làm 5 mức độ:
Mức độ I: 4,2< X ≤ 5 SV rất thành thạo với việc học theo hình thức học chế tín chỉ.
Mức độ II: 3,4< X ≤ 4,2 SV thành thạo với việc học theo hình thức học chế tín chỉ.
24
Mức độ III: 2,6< X ≤ 3,4 SV tương đối thành thạo với việc học theo hình thức
học chế tín chỉ.
Mức độ IV: 1,8< X ≤ 2,6 SV bước đầu có kỹ năng (kỹ năng mới hình thành)
với việc học theo hình thức học chế tín chỉ.
Mức độ V: 1 ≤ X ≤ 1,8 SV chưa có kỹ năng với việc học theo hình thức học chế tín
chỉ.
●
Thang đánh giá mức độ thích ứng.
Mức độ thích ứng của SV với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ được
đánh giá qua ba mặt:
- Nhận thức về hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ;
- Thái độ đối với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ;
- Kỹ năng học theo hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ.
Kỹ năng là biểu hiện tập trung nhất của sự thích ứng; nhìn vào kỹ năng có
thể biết được phần nào các mặt biểu hiện nhận thức, thái độ. Tổng hợp ba mặt biểu
hiện của sự thích ứng (bằng định lượng), chúng tôi tính mặt nhận thức, thái độ hệ số
1, mặt kỹ năng hệ số 2 và có công thức tính mức độ thích ứng như sau:
Xtu =
TBNT + TBTĐ + 2TBKN
4
Chú thích: X tu : điểm trung bình thích ứng. TBNT: điểm trung bình mặt nhận
thức. TBTĐ: điểm trung bình mặt thái độ. TBKN: điểm trung bình mặt kỹ năng
Đối chiếu X tu với 5 mức độ sau để biết mức độ thích ứng:
Mức độ I: 4,2 < X ≤ 5, SV thích ứng rất tốt với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ.
Mức độ II: 3,4 < X ≤ 4,2, SV thích ứng với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ
Mức độ III: 2,6 < X ≤ 3,4, SV thích ứng với hình thức đào tạo theo học chế
tín chỉ ở mức trung bình.
Mức độ IV: 1,8 < X ≤ 2,6, SV thích ứng với hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ ở mức độ yếu.
Mức độ V: 1 ≤ X ≤ 1,8, SV thích ứng với hình thức đào tạo theo học chế
tín chỉ ở mức độ kém.
25
2.3. Các phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
• Mục đích: phân tích, tổng hợp, xử lý tài liệu lý luận nhằm xây dựng cơ sở lý luận
cho đề tài nghiên cứu.
• Nội dung:
- Tổng quan các tài liệu liên quan tới vấn đề của các công trình nghiên cứu trước đây,
phân tích và rút ra kết luận về thích ứng.
- Xem xét việc học tập của SV với hình thức học tập theo học chế tín chỉ, trên cơ
sở đó thiết lập hướng nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học.
• Cách thức tiến hành: đọc ghi chép những tư liệu thu thập được, phân tích, tổng
hợp lý thuyết và hệ thống hóa lý thuyết theo hướng đề tài nghiên cứu để xây dựng
các khái niệm công cụ của đề tài.
2.3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
2.3.2.1. Phương pháp quan sát.
* Mục đích:
- Thu thập những biểu hiện học tập của SV đối với hình thức đào tạo theo
học chế tín chỉ; chính xác hóa kết quả nghiên cứu của các phương pháp khác.
* Nội dung quan sát: Quan sát hoạt động học tập của SV qua các hành động: học
trên lớp, học ở nhà và kiểm tra đánh giá.
2.3.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
a. Mục đích nhằm thu thập thông tin do khách thể nghiên cứu cung cấp mà người
nghiên cứu không thể tiếp xúc mặt đối mặt được làm tư liệu để giải quyết nhiệm
vụ nghiên cứu.
b. Nội dung bảng hỏi:
Mẫu số 1: Phiếu điều tra dùng cho SV (xem phần phụ lục 2.1) nhằm tìm
hiểu mức độ thích ứng của SV đối với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ
Mẫu số 2: Phiếu điều tra dùng cho GV (xem phần phụ lục 2.2) nhằm tìm
hiểu đánh giá của GV về những khó khăn của SV đối với hình thức học tập theo học
chế tín chỉ và kỹ năng thực hiện các hành động học theo học chế tín chỉ.