§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
Mục lục
Trang
Phần mở đầu.......................................................................................2
Phần nội dung.....................................................................................3
A. Cơ
sở
luận................................................................................4
lý
I. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị
trường...............4
1.Quan niệm về kinh tế thị trường...........................................4
2.Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường...........5
II. Những đặc điểm cơ bản kinh tế thị trường..............................6
1.Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế tổng quát của
thời kì quá độ.........................................................................6
2.Mục đích phát triển kinh tế thị trường...................................9
3.Kinh
tế
thị
trường
định
hướng
XHCN...................................9
B. Cơ
sở
tiễn...........................................................................11
I.Thực
trạng
nền
Nam............................................11
kinh
thực
tế
Việt
II.Mục tiêu và giải pháp chủ yếu...............................................12
1.Mục
trường.................................12
tiêu
phát
triển
kinh
tế
thị
2.Những giải pháp cơ bản......................................................14
Phần kết luận.......................................................................................18
-1-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản. Trong cơ chế quản lí kinh tế còn có
một số những nhược điểm, đó là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã
gây tác hại trong nhiều năm. Nhận thức được sự tồn tại và yếu kém trên,
Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách đúng đắn để từng bước đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững. Một trong những chính sách đó là
đổi mới cơ chế quản lí kinh tế: để các đơn vị kinh tế tự vận hành trong cơ
chế thị trường gồm nhiều thành phần đi lên CNXH. Trong đề án này em
sẽ trình bày một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
Đề án này sẽ trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, hiểu rõ được sự cần thiết khách
quan phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam .
Trong khi làm đề án chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót em rất mong có
được sự góp ý của thầy để giúp cho đề án của em hoàn thành tốt hơn.
-2-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
NỘI DUNG
A. Cơ sở lí luận
I. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN
1. Quan niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá
trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường. Nói một
cách khác kinh tế hàng hoá phát triển trong đó mọi quan hệ kinh tế đều
được tiền tệ hoá.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị
trường .
Các đặc tính chung của kinh tế thị trường
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh
tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất và
kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết , liên doanh,
tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan
trọng của kinh tế thị trường . Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện
khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá . Đồng thời cũng là biểu
hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá . Kinh tế hàng hoá không
bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự
chủ, năng động.
Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua,
bán hàng hoá . Trong đó người mua chọn người bán . Người bán tìm
người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường . Đặc trưng này phản ánh
tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những hàng hoá
trên thị trường , một mặt phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã
hội, mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình
độ của phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường . Những
ưu thế trên của kinh tế thị trường phản ánh trình độ phát triển của khoa
học kĩ thuật và công nghệ, tựu chung phản ánh trình độ cao của lực lượng
sản xuất xã hội . Vì vậy, nói đến kinh tế thị trường là nói đến một nền
kinh tế phát triển cao.
Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường . Giá cả thị trường
vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường vừa chịu sự tác động
của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu về hàng hoá và dịch vụ. Trên
cơ sở giá trị thị trường , giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả
thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của
-3-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
qui luật lưu thông hàng hoá . Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá ,
người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua
với giá thấp. Đối với người bán, giá cả đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi
ohí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của
giá cả , còn doanh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải
phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được cả
lợi ích người mua lẫn lợi ích người bán. Tất nhiên, trong cuộc giằng co
giữa người mua và người bán để hình thành giá cả thị trường , lợi thế sẽ
nghiêng về phía người bán, nếu như cung ít, cầu nhiều và ngược lại, lợi
thế sẽ nghiêng về phía người mua nếu như cung nhiều mà cầu ít.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên
cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích
kinh tế Theo yêu cầu của qui luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng
hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội
cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản
xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kĩ thuật, áp dụng kĩ thuật mới
vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao
động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến
trong cả lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm:
cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên
thị trường (người bán với những người bán, người mua với những người
mua). Hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú
nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận.
Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng,
phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống luật pháp của
nhà nước.
Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh một khía cạnh của mô hình kinh tế
thị trường. Tổng hợp cả năm đặc trưng sẽ giúp chúng ta hình dung được
khái quát cấu trúc của mô hình này.
2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN
*Phát triển kinh tế thị trường là sự lựa chọn đúng đắn:
-Trước đây trong quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô, Đông Âu và
Việt Nam cũng có quan điểm cho rằng kinh tế hàng hoá là sản phẩm
riêng có của CNTB, đó là một quan điểm sai lầm. Từ đó nền kinh tế
XHCN được vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đó là một
trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng của CNXH. Cũng có
quan điểm cho rằng kinh tế thị trường không thể dung hợp với CNXH.
-4-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
-Theo Mac, kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất
khác nhau, có thể khác nhau về qui mô hay về hình thức phát triển. Kinh
tế thị trường không những tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho công
cuộc xây dựng CNXH, nó tồn tại khách quan là vì vẫn còn cơ sở cho nó
tồn tại và phát triển đó là:
+Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân
công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế, phát huy được
tiềm năng, lợ thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác
dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Sự phân công lao động xã
hội không mất đi mà sự chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu, nó diễn
ra không những ở trong từng địa phương, trong cả nước mà còn tiến tới
sụ phân công hợp tác quốc tế.
+Trong thời kì quá độ vẫn tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất, tức là vẫn còn một sự tách biệt nhất định về kinh tế giữa
các chủ thể kinh tế. Ngay cả các doanh nghiệp dựa trên một quan hệ sở
hữu cũng chưa thể trực tiếp phân phối sản phẩm cho nhau mà không cần
tính toán tới hiệu quả kinh tế, vẫn phải sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ
để tính toán hiệu quả kinh tế.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với
nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của
nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động
quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai
thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hoá.
*Kinh tế thị trường không những tồn tại khách quan mà còn cần
thiết cho công cuộc xây dựng CNXH.
CNTB đã biết sử dụng vai trò to lớn của kinh tế thị trường để thúc đẩy
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chúng ta cũng cần phải biết khai thác
vai trò to lớn của kinh tế thị trường và những mặt tích cực của nó như
thúc đẩy các cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí
sản xuất. Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, hạn chế hay khắc phục
những mặt trái hay những khuyết tật của kinh tế thị trường để tăng trưởng
và phát triển kinh tế .
Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường hợp với thời kì quá độ
với những hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất quá độ.
II. Những đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường dịnh hướng
XHCN ở Việt Nam .
1. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng
quát của thời kì quá độ ở Việt Nam.
-5-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
Thật ra, kinh tế thị trường sau khi giai cấp vô sản đã dành được chính
quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới và càng không phải là vấn đề
xét lại chủ nghĩa Mac-Lênin. C. Mac đã viết:”Cái xã hội mà chúng ta nói
ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên
những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa
vừa thoát thai từ xã hội Tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi
phương diện-kinh tế , đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã
hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”. Lênin cho rằng :”Chúng ta không hình dung
một thứ CNXH nào khác hơn là một thứ CNXH dựa trên cơ sở tất cả
những bài học mà nền văn minh lớn của CHTB thu được “Một trong
những bài học quan trọng nhất mà CNTB đã đạt được là phát triển kinh tế
thị trường .
Vì thế, trên một phương diện nào đốp, xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường là sự trở lại với chủ nghĩa Mac-Lênin chân chính, xoá bỏ
những điều giải thích lệch lạc, vận dụng không đúng hoạc côố tình xuyên
tạc chủ nghĩa Mac-Lênin. Trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng IX chỉ
rõ:”Các trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền
kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường ,
vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, kinh tế thị
trường định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau,
kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị
trường và nhóm nhân tố của xã hội đang định hướng XHCN. Trong đó
nhóm thứ nhất đóng vai trò động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển
nhanh, nhóm thứ hai đóng vai trò hướng dẫn, chế định sự vận động của
nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Vì thế, có thể nói
rằng, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vừa mang những
đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù - định
hướng XHCN.
-Cái chung là ở chỗ nó chịu sự chi phối vốn có của qui luật kinh tế của
kinh tế hàng hoá : quy luật giá trị, quy luật cung cầu. . . đã tác động mạnh
mẽ đến nền kinh tế thị trường trên cả hai phương diện (tích cực và tiêu
cực), thúc đẩy nền kinh tế thị trường vận động phát triển, đồng thời nảy
sinh các khuyết tật trong nền kinh tế không thể nào khắc phục được, đây
chính là những điểm mà nền kinh tế XHCN phải nhận thức chính xác về
“tính động” của quy luật không chỉ ở trong nền kinh tế thị trường thuần
tuý mà cả trong nền kinh tế không hoàn toàn theo kinh tế thị trường,
chẳng hạn như nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện, để vừa phát huy mặt
tích cực có lợi cho nền kinh tế, đồng thời nhận rõ mặt tiêu cực của các
quy luật để có chiến lược đề phòng, hạn chế các tác động xấu, bất lợi cho
-6-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
nền kinh tế Việt Nam. Nếu làm tốt những vấn đề trên thì chính là thể hiện
rõ kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Các phạm trù của kinh tế
hàng hoá : giá cả hàng hoá, giá trị, lợi nhuận. . . vẫn phát huy tác dụng.
Những mặt tích cực của các quy luật nền kinh tế thị trường cần phải
nhận thức vận dụng là:
+Quy luật giá trị là quy luật phát sinh trong nền kinh tế hàng hoá và nó
vận động trong sự phát triển của nền kinh tế đó. Những mặt tích cực của
quy luật giá trị thực sự có ý nghĩa đối với nền kinh tế Việt Nam theo định
hướng XHCN, vì những phạm trù đi theo nó như: giá cả, lợi nhuận, tiền
lương. . . thực sự là đòn bẩy kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh ngày càng tốt hơn, kích thích cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao
động, thực hiện phân phối nguồn lưc ngày càng hiệu quả, chuyển từ lao
động chủ yếu dựa trên thế lực đã tạo ra sản phẩm sang chủ yếu dựa trên
lao động trí tuệ.
+Quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường có quan hệ mật thiết
với nền kinh tế theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Bởi vì nội dung của
quy luật cung cầu đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải dựa trên điểm cân
bằng cung cầu, nếu giá cả hàng hoá cao thì thị trường sẽ ép giá xuống,
nếu giá cả hàng hoá quá thấp thì thị trường sẽ nâng giá lên.
+Quy luật cạnh tranh cũng là quy luật phát sinh và vận động theo nền
kinh tế thị trường, xét đến cùng nó cũng tác động tích cực trên vài khía
cạnh của nền kinh tế theo định hướng XHCN. Vì quy luật này đòi hỏi
người sản xuất kinh doanh cũng như toàn bộ nền kinh tế Việt Nam phải
tìm các lợi thế so sánh với các nước khác trên thế giới trên tất cả các khía
cạnh của nền kinh tế rồi từ đó tìm cách tăng trưởng các lợi thế đó để mở
rộng thị trường, giành thắng lợi trong sản xuất kinh doanh, để tồn tại và
phát triển. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải xác định khoa học kĩ thuật là
một động lực của sự phát triển nền kinh tế, phải tìm mọi giải pháp để cho
sản phẩm của mình ngày càng tốt lên, giá thành ngày càng giảm thì có lợi
thế trong cạnh tranh, tuy nhiên nếu đẻ cho quy luật này tác động một cách
tự phát vào nền kinh tế thì sẽ phát sinh nhiều tiêu cực trong nền kinh tế .
-Cái đặc thù là kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN
dựa vào vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước (nắm giữ những
ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, dựa trên một quan hệ sở
hữu nhà nước thể hiện trình độ xã hội hoá cao phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đảm bảo định hướng XHCN) và sự quản lý
vĩ mô của nhà nước. Định hướng XHCN là lý tưởng hướng tới của Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường mở hiện đại. Nó góp
phần làm giảm các mặt tiêu cực của các nền kinh tế thị trường TBCN, tạo
dựng được những quan hệ xã hội tốt đẹp hơn so với kinh tế thị trường
TBCN.
-7-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
Những biểu hiện của vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước :
+Là đòn bẩy mạnh mẽ để đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế, giải
quyết vấn đề xã hội : việc làm, bảo hiểm. . .
+Nó hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển;
+Kinh tế nhà nước chính là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết thị
trường;
+Để thể hiện vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước phải nêu gương về việc
ứng dụng kĩ thuật công nghệ mới về: năng suất, chất lượng, hiệu quả. . .
Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước :
Do thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không
phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục
tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kì, do đó nó còn phải
chịu sự điều chỉnh, quản lý của nhà nước XHCN. Do vậy, không thể xem
các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một
cách độc lập, biệt lập hoàn toàn với kế hoạch hoá định hướng và các
chính sách kinh tế của nhà nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo
nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận
cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những
quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính
kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ
chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền
kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với
nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh
tế.
Ở tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính
quyết định, song kế hoạch nhà nước cũng không thể thoát ly khỏi tình
hình biến động của thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch hoá vĩ mô
trở thành duy ý chí. Kế hoạch hoá vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn, tổng
thể của nền kinh tế như tổng cung - tổng cầu, sản xuất - tiêu dùng, hàng
hoá - tiền tệ. Kế hoạch hoá vĩ mô có thể tác động đến cung, cầu, giá cả để
uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị
trường gây ra, thông qua đó mà hướng hoạt động của thị trường theo
hướng của kế hoạch
2. Mục đích phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH,
Đảng ta đã xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội
-Do nhân dân lao động làm chủ;
-8-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
-Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
-Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
-Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
-Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ;
-Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kì quá độ là “Xây dựng
xong về cơ bản những cơ sở kinh tế chủ yếu của CNXH, với kiến trúc
thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta
trở thành một nước XHCN phồn vinh”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng, trên cơ sở đánh giá thành quả 15 năm
đổi mới của đất nước đã xác định rõ cái đích phát triển của nền kinh tế
nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nghị quyết chỉ rõ
mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Đại hội cũng khẳng định
phát triển lực lượng sản xuất hiện dại phải gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
3. Kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Về chế độ sở hữu
-Nếu trong kinh tế thị trường TB cũng dựa trên nhiều quan hệ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất trong đó sở hữu tư nhân là nền tảng. Trái lại
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta cũng dựa trên nhiều quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất : sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu hỗn hợp, trong đó sở hữu nhà nước là chủ đạo
-Trên cơ sở nhiều quan hệ sở hữu có nhiều thành phần kinh tế với các
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng đan xen hỗn hợp. Các
thành phần kinh tế tham gia vào việc sản xuất và lưu thông hàng hoá trên
thị trường, tức là có nhiều chủ thể kinh tế với nhiều nguồn lực ( sức lao
động, vốn, kĩ thật, trình độ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý. . . )
tham gia vào sản xuất lưu thông hàng hoá trên thị trường. Tuy nhiên mỗi
thành phần kinh tế chỉ là một bộ phận cấu thành của kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Như hội nghị trung ương III khoá IX đã nhận định : Doanh nghiệp
nhà nước - chủ thể của quan hệ sản xuất XHCN đã chi phối được các
ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế, năm
-9-
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
2000 các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp 39, 9% tổng sản phẩm; 39,
2% tổng thu ngân sách và 50% kim ngạch xuất khẩu và chiếm 98% các
dự án liên doanh với nước ngoài: doanh nghiệp nhà nước ngày càng càng
thích nghi với cơ chế thị trường, từ năm 1990 đến nay đạt tốc đôộ tăng
trưởng liên tục 11% năm. Từ chỗ không có khả năng tích luỹ vốn sản
xuất kinh doanh, đến nay, doanh nghiệp nhà nước đã có khả năng vốn tự
tích luỹ, bổ sung đã chiếm khoảng 27% vốn sản xuất kinh doanh .
Về phân phối thu nhập:
Nếu trong kinh tế thị trường TB cũng có nhiều hình thức phân phối trong
đó phân phối theo TB là chủ yếu thì trong kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam cũng có nhiều hình thức phân phối: phân phối theo
lao động, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quĩ phúc lợi xã
hội và tập thể, phân phối theo nguồn lực đóng góp trong đó phân phối
theo lao động là chủ yếu.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: một là,
nhà nước XHCN là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối
thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm đảm bảo công bằng xã hội và
bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội. Hai là, điều tiết phân phối thu nhập
theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước.
Gắn tăng trưởng kinh tế với sự tiến bộ công bằng xã hội, với phát triển
văn hoá giáo dục, kinh tế thị trường mở:
Nếu trong kinh tế thị trường TB sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nó
làm giàu cho giai cấp Tư Sản & quá trình đó đã phân hoá xã hội thành hai
cực đối lập: một bên là thiểu số người giàu một bên là đa số người nghèo
( Mĩ :1% dân số là người giàu chiếm 59% tài sản đất nước. . . ). Mặc dù
nhà nước TS đã có những chính sách xã hội như : trợ cấp, bảo hiểm. . .
nhằm xoa dịu mâu thuẫn của xã hội làm cho CNTB thích nghi với điều
kiện lịch sử mới. Thì trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với sự tiến bộ và công
bằng xã hội trong mỗi bước phát triển. Muốn thế phải xoá đói giảm nghèo
(Việt Nam có 24000 xã nghèo. . . ), khuyến khích làm giàu hợp pháp.
Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với việc phát triển văn hoá
giáo dục để nâng cao dân trí, đảm bảo nguồn nhân lực, xây dựng một nền
văn hoấ tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường phát triển theo
hướng “mở”- mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá và
đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, từng bước hoà nhập với thị trường
khu vực & Thế giới nhưng vẫn giữ vững độc lập tự chủ & hai bên cùng
có lợi. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đang
- 10 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc
gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào
kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới
thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực
hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh
tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
B. Cơ sở thực tiễn
I. Thực trạng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Thực trạng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là nền kinh tế thị
trường còn kém phát triển biểu hiện trên nhiều mặt: sự phân công lao
động chưa phát triển, thị trường chưa hình thành đồng bộ, cơ sở vật chất
kỹ thuật còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, sự cạnh tranh của hàng
hoá còn yếu kém.
Thị trường chưa hình thành đồng bộ:
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được các
vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng vẫn còn hạn hẹp
và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái
nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường).
Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm
giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy
sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung
về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao
động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không
tìm được việc làm.
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn
nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất
thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó
nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho
vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại
đã đến múc báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa
có nhiều “hàng hoá ” để mua - bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều
kiện tham gia thị trường này.
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn kém phát triển: bên cạnh một số lĩnh
vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kĩ thuật công nghệ hiện đại,
trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu. Theo
UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới,
thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ
- 11 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng
suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu
vực và thế giới (năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung
bình của thế giới).
Cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc. . . còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ đường giao
thông/km bằng 1% với mức trung bình của thế giới, tốc độ truyền thông
trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém
phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do
đó, làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai
thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế
mạnh.
Phân công lao động kém phát triển do cơ sở vật chất - kỹ thuật
còn ở trình độ thấp. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông
nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng
lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công
nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.
Sự chuyển biến trong cơ cấu GDP 1995-2001 (%)
Năm
Tổng số
Nông, lâm, thuỷ sản
CN, xây dựng
Dịch vụ
1995
100, 0
27, 2
28, 8
41, 1
1996
100, 0
27, 8
29, 7
42, 5
1997
100, 0
25, 8
32, 1
42, 2
1998
100, 0
25, 8
32, 5
41, 7
1999
100, 0
25, 4
34, 5
40, 1
2000
100, 0
24, 3
36, 6
39, 1
2001
100, 0
23, 3
37, 7
38, 9
Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2001-2002 Việt Nam và thế giới.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong
nước, cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ
thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp, do đó khối
lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất lượng
hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
II. Mục tiêu phấn đấu và các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
1.Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 và năm 2010:
Mục tiêu tổng quát của chiến lược mười năm 2001 - 2010 là đưa đất
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
- 12 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
chất, văn hoá tinh thần, của nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao.
Mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác
định là : giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh
tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của CNXH, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả
cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó , cải thiện từng bước đời sống của nhân
dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan
hệ xã hội. Phát triển kinh tế thị trường sẽ khắc phục được tình trạng tự túc
tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở
rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động; áp dụng khoa hoc,
công nghệ , kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã
hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hoá, dịch vụ; thúc đẩy
tích tụ, tập chung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương,
các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới, động viên mọi nguồn lực
trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài; thúc đẩy việc phát huy
tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế,
tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo
kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân, giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh theo con đường XHCN. Vì vậy, có thể nói,
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là đòn “đòn xeo” để xây dựng
CNXH, là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất, để
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của CNXH.
Bước vào thời kì đổi mới, Đảng ta đã chủ trương tăng trưởng kinh tế
gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển. Trên thế giới có những nước đặt vấn đề tăng trưởng kinh tế lên
trước giải quyết vấn đề công bằng xã hội sau. Có những nước lại muốn
dựa vào viện trợ nước ngoài, vay nợ nước ngoài để cải thiện đời sống
nhân dân rồi sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Còn ở nước ta, thực hiện tư
tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh “nước dâng thuyền lên, sản xuất và đời
sống nhân dân như nước với thuyền, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ
và công bằng xã hội, động viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền
với xoá với giảm nghèo.
Trong nền kinh tế thị trường ở các nước TBCN, vấn đề công bằng xã
hội chỉ được đặt ra giải quyết khi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường
làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe doạ sự
- 13 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
tồn vong của CNTB. Song, không bao giờ và không thể nào giải quyết
triệt để được điều đó trong CNTB. Mục đích giải quyết các vấn đề xã hội
của các nhà nước tư sản chỉ giới hạn trong khuôn khổ chế độTBCN và chỉ
được xem như là phương sách để ổn định chế độ TBCN.
Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN, nhà nước giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng
với đảm bảo xã hội, công bằng xã hội. Bởi, vấn đề đảm bảo xã hội, công
bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là “ phương tiện” để phát triển,
mà còn là mục tiêu của chế độ mới - chế độ XHCN.
2.Những giải pháp cơ bản:
-Phân công lại lao động xã hội theo tính quy luật tức là làm cho tỷ
trọng công nghiệp tăng lên : lao động trong công nghiệp gia tăng, tỷ trọng
lao động trong nông nghiệp giảm, lao động trong dịch vụ tăng so voqí lao
động trong nông nghiệp - công nghiệp ( hiện nay nước ta có 76% lao
động trong nông nghiệp & phấn đấu đến năm 2010 lao động trong nông
nghiệp giảm xuống còn 50%).
-Thực hiện đa dạng hoá quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là
tạo ra sự tách biệt nhất định về kinh tế - cơ sở cho kinh tế thị trường phát
triển. Trước đây khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường,
chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở
hữu toàn dân và sở hưu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá,
vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng
cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành
những chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong
những cở của kinh tế hàng hoá.
-Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng đê khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp
luật, đều được khuyến khích phát triển.
Hơn nữa việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần để khai thác mọi
tiềm năng các thành phần kinh tế : vốn, sức lao động, kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý. . . Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển hiệu quả
kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp
lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá
và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không
- 14 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh
trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần
kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh
nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các
doanh nghiệp có vốn của nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình
đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó
hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán
bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực
hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã.
Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và
nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thẻ tiểu chủ có
hiệu quả. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những
ngành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm. phát triển kinh
tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư
nhân trong và ngoài nước; tạo điều kiện đẻ kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả
năng cạnh tranh, Gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển
và là bộ phận của nền kinh tế Việt Nam. Khuyến khích các tổ chức, cá
nhân nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào nước ta,
nhất là sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Từng bước
thống nhất khung luật pháp, chính sách và điều kiện kinh doanh áp dụng
đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
-Hiện trạng kinh tế thị trường rất lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật
lạc hậu vì vậy muốn tránh lạc hậu phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, ứng
dụng nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ. Phân công lao động xã hội là
cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì vậy, để phát triển kinh
tế hàng hoá phải đấy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát
triển của phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội,
cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở
vật chất - kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại.
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có
thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần
tự, vừa có bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, tận dụng
mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học công nghệ,
ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công
nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
- 15 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
Cùng với việc trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại cho các
ngành, các lĩnh vự của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá , hiện
đại hoá, tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư trong phạm
vi cả nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương, hình thành cơ cấu
kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo
nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trong nền
kinh tế thị trường , hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường
và được phân bố vào các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối
ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng phải hình thành và phát triển đồng bộ các
loại thị trường.
+ Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy
mạnh sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống
giao thông và phương tiện vận tải để mở rộng thị trường. Hình thành các
thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di chuyển sức
lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực.
+Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng
thích hợp, bao gồm hệ thống ngân hàng, thể chế tài chính phi ngân hàng,
công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và bảo lãnh đầu tư. . . nhằm thu hút các
nguồn vốn trong xã hội, mở rộng nguồn vốn dài hạn và trung hạn. Giảm
mạnh cấc hình thức bao cấp về vốn, tín dụng. Cải cách hệ thống ngân
hàng thương mại, tách chức năng tín dụng, chính sách ra khỏi chức năng
kinh doanh của các ngân hàng thương mai quốc doanh, đạt các ngân hàng
thương mại quốc doanh hoạt động trong môi trường cạnh tranh; lành
mạnh hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng
thương mại quốc doanh. Hiện đại hoá và đổi mới công nghệ của hệ thống
ngân hàng, đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin, phấn đấu để hệ
thống tài chính - ngân hàng đạt trình độ trung bình của khu vực. Triển
khai an toàn và từng bước mở rộng phạm vi hoạt động của thị trường
chứng khoán.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật và chính sách nhằm mở rộng
thị trường lao động, tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận trực tiếp về đào tạo
và việc làm cho mỗi công dân, khuyến khích người lao động học tập, đào
tạo và tự kiếm việc làm. Bảo đảm sự dịch chuyển linh hoạt của người lao
động trong khu vực kinh tế nhà nước. khuyến khích mọi thành phần kinh
tế tham gia đào tạo nghề, hoạt động dịch vụ giới thiệu việc làm và xuất
khẩu lao động. có chính sách thích hợp thu hút nhân tài và lao động có
trình độ chuyên môn cao ở trong nước và ngoài nước. Sửa đổi, bổ sung
bộ luật lao động phản ánh những thực tế đã thay đổi, bảo vệ lợi ích hợp lý
của người lao động, đồng thời khuyến khích người sử dụng lao động tạo
- 16 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
thêm việc làm, tạo điều kiện thuận lợi cho dịch chuyển lao động, tìm việc
làm trong nước và ngoài nước. Đẩy mạnh cho việc xuất khẩu lao động,
nhất là lao động có đào tạo. Thu hút mọi nguồn lực để phát triển mạnh mẽ
và hiện đại hoá hệ thống đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu thị trường và
sự phát triển khoa học, công nghệ. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội tạo
sự bình đẳng về cơ hội được bảo hiểm xã hội đối với người lao động
trong các thành phần kinh tế; giải quyết thoả đáng quyền lợi của người
lao động và người sử dụng lao động.
+Phát triển các thị trường dịch vụ như dịch vụ khoa học công
nghệ, dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn quản lý, thị trường sản phẩm trí
tuệ; dịch vụ tài chính - tiền tệ, dịch vụ bảo hiểm. . . Xúc tiến nhanh việc
ứng dụng thương mại điện tử. Khuyến khích người Việt nam ở nước
ngoài tham gia các thị trường dịch vụ nói trên.
+Hình thành thị trường bất động sản theo định hướng XHCN là
một hình thức để thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai về mặt kinh
tế tức quan hệ chuyển nhượng có bồi thường chứ không có sự chuyển
dịch quyền sở hữu.
+Hình thành thị trường chứng khoán sơ khai vì đã có tương đối
đủ điều kiện cung, cầu về vốn.
-Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
vĩ mô của nhà nước, sự quản lý này phải tôn trọng tính khách quan của cơ
chế thị trường, coi trọng tính tự chủ về kinh tế của các chủ thể kinh tế, sự
hình thành giá cả thị trường.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, cần nâng
cao năng lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện
cải cách nền hành chính quốc gia. Nhà nước thực hiện định hướng sự
phát triển kinh tế, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn
định và thuận lợi cho hoạt động kinh tế; hạn chế, khắc phục những mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không can
thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là
chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy, phải
tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ,
chính sách tiền lương và giá cả.
- 17 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
KẾT LUẬN
Quá trình chuyển mình của Việt Nam từ một nên kinh tế quan liêu bao
cấp sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mới
mẻ. Công cuộc này đòi hỏi có những chủ trương biện pháp sáng tạo thích
hợp để giải quyết những khó khăn thử thách những mâu thuẫn dần dần
hình thành, sự phân hoá giầu nghèo ngày càng tăng, nguy cơ tụt hậu so
với các nước trong khu vực vẫn còn. Việc đấu tranh giải quyết các vấn đề
này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh. Vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là điểm mấu chốt của công cuộc đổi mới này.
Tóm lại, qua những phân tích trên ta thấy được sự cần thiết của kinh
tế thị trường định hướng XHCN trong thời kì quá độ ở Việt Nam hiện
nay. Ta không thể phủ nhận được những thành tựu mà nền kinh tế thị
- 18 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
trường đã đem lại trong thời kì đổi mới ở nước ta. Tuy nhiên, cũng không
thể bỏ qua những hạn chế trong kinh tế thị trường, khắc phục những hạn
chế đó thì kinh tế Việt Nam mới có khả năng phát triển xứng đáng tầm cỡ
khu vực và thế giới, vươn lên trở thành một trong những “ con rồng châu
á”, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn được điều này, khẳng
định và từng bước thực hiện “phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN có sự quản lí của Nhà nước”.
Bài viết này có thể có nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong được sự
góp ý của thầy để bài viết sau của em được tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin (Nhà xuất bản chính
trị quốc gia)
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 (Nhà xuất bản
chính trị quốc gia)
3. Tạp chí lý luận chính trị
4. Tạp chí phát triển kinh tế
5. Tạp chí triết học
- 19 -
§Ò ¸n Kinh tÕ chÝnh trÞ
6. Tạp chí cộng sản
7. Việt Nam Trade Review
- 20 -