LỜI NÓI ĐẦU
Việc triển khai trong công cuộc xoá đói giảm nghèo là những yếu tố
quyết định trong công cuộc chuyển đổi nền kinh tế mới của nền công nghiệp
hoá toàn cầu tác động thay đổi này đối với các nước đang phát triển đã và
đang rất sâu sắc.
Muốn công nghiệp hoá phải hiện đại hoá đất nước của bất cứ quốc gia
nào cũng phải phân tích về mặt nền kinh tế của quốc gia đó.
Hơn bao giờ hết ngày nay trong công cuộc đổi mới đã trở thành một yếu
tố quan trọng của nền kinh tế. Thật vậy nhờ những chủ trương của Đảng và
Nhà nước năng suất lao động và chất lượng hàng hoá ngày một nâng cao, xã
hội ngày càng giàu có. Ngày nay chủ trương xoá đói giảm nghèo của Nhà
nước đã trở thành một yếu tố quan trọng trong sự duy trì phát triển kinh tế –
xã hội luôn đề cập tới công tác xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo được
đặt thành một bộ phận của chiến lược 10 năm, kế hoạch 5 năm và hàng năm
về phát triển kinh tế xã hội. Xoá đói giảm nghèo sẽ là điều kiện cho nền kinh
tế phát triển bền vững.
Vì đây là một đề tài lớn viết một công trình khoa học có tính lôgic nên
em không thể tránh khỏi khuyến khuyết trong đề án, em mong nhận được sự
bổ sung góp ý để ngày một hoàn thiện hơn cho bản thân để rút ra những kinh
nghiệm sau này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Giáo sư Tiến sỹ Trần Xuân Cầu đã
giúp đỡ em phần lớn kiến thức và phương pháp luận để em hoàn thành đề án
này.
Hà Nội, ngày 1 tháng 1 năm 2004
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thế Sơn
1
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Các khái niệm
a. Cơ cấu kinh tế
Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu mà mỗi dân tộc, mỗi đất nước
phải trải qua. Nó là quá trình thực hiện phương pháp công nghiệp trong các
ngành và các lĩnh vực kinh tế quốc dân là quá trình phát triển kỹ thuật và
công nghệ hiện đại trong sản xuất – kinh doanh. Công nghiệp hoá và hiện đại
hoá nền kinh tế là mục tiêu cần đạt tới của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân
ở nước ta, cần phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề rất quan trọng và phức
tạp nhưng trước hết phải làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của nó. Chỉ
có như vậy mới có các căn cứ lý luận và thực tiễn cần thiết để hình thành đầy
đủ, đúng đắn những quan điểm, phương hướng và biện pháp thực hiện quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Những căn cứ
lý luận và thực tiễn quan trọng bao gồm các vấn đề như:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo phù hợp với mô hình kinh tế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu phát
triển của mô hình kinh tế lựa chọn.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm nền kinh tế hoạt động với
hiệu quả cao nhất.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm phát triển quy mô sản xuất
hợp lý và từng bước áp dụng phương pháp công nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi đôi với khai thác và phát triển sức mạnh
tổng hợp của các thành phần kinh tế.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm khai thác triệt để khả năng và
thế mạnh của các vùng kinh tế trong cả nước.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm mục tiêu ổn định chính trị, xã
hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái và kinh tế.
2
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phù hợp với sự phát triển các khả năng
cung ứng của nền kinh tế và các quan hệ hợp tác quốc tế đa phương, đa dạng,
hướng về xuất khẩu.
Tóm lại việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
nền kinh tế quốc dân chỉ đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế,
ổn định nền kinh tế xã hội, để làm được điều này thì phải rút ngắn được
khoảng cách giàu nghèo, phân phối lại thu nhập trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Vì thế chúng ta phải thực hiện theo đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước nhằm xoá đói giảm nghèo như vậy mới đạt được mục đích trong
công cuộc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
b. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo của thế giới.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung nhất cho
rằng: đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu
cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại,
giao tiếp xã hội…Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau
về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo
của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc
gia khác. Bởi vậy, nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề xoá đói giảm nghèo
một cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái niệm, kinh nghiệm, chỉ tiêu
và chuẩn mực đánh giá đói nghèo của thế giới và nắm vững thực tế ở Việt
Nam để có những khái nhiệm, xác định chuẩn mực, xây dựng hệ thống giải
pháp thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
* Khái niệm đói nghèo của thế giới.
Thế giới thường dùng khái niệm “nghèo khổ” mà không dùng khái niệm
“đói nghèo” như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh là thời
gian, không gian, giới và môi trường.
- Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống
dưới mức “chuẩn” trong một thời gian dài. Cũng có một số người nghèo khổ
“tình thế”, chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người mới nghèo
do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, dịch hoạ, tệ nạn xã hội, rủi ro…
3
- Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có 3/4 dân
số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các
nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.
- Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình
nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ
thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
- Về môi trường: Phần lớn người nghèo đều sống ở những vùng sinh thái
khắc nghiệt, mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều
đang ngày càng trầm trọng thêm.
Từ nhận dạng trên Liên hiệp quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói
nghèo.
* Nghèo tuyệt đối
* Nghèo tương đối
+ Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
những nhu cầu cơ bản rất tối thiểu để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu; Nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc
sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội, vệ
sinh, y tế và giáo dục. Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý kiến cho rằng,
nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của
cộng đồng.
Tuỳ mức độ đảm bảo nhu cầu tối thiểu mà sự nghèo khổ của dân cư
được chia thành nghèo hoặc rất nghèo, hoặc nghèo bậc I hoặc nghèo bậc II.
* Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới:
Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo trong một quốc gia bắt đầu từ việc vạch
ra giới hạn đói nghèo.
Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo
được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người
(GDP).
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập thì
chưa đủ để đánh giá. Vì vậy bên cạnh chỉ tiêu ấy, tổ chức hội đồng phát triển
hải ngoại (ODC) đã đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI).
Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao gồm ba chỉ tiêu cơ bản:
4
- Tuổi thọ
- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh
- Tỷ lệ xoá mù chữ
c. Khái niệm chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo ở Việt Nam.
Ở Việt Nam đã có nhiều quan điểm đưa ra xung quanh vấn đề khái niệm,
chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo. Song các ý kiến sau đây là tập
trung nhất.
- Khái niệm
Tách riêng đói và nghèo không khái niệm chung như thế giới.
- Nghèo: Là tình trạng một phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
+ Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là
những đảm bảo ở mức tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày gồm văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp.
+ Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét.
- Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc
sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng,
thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
* Chỉ tiêu đánh giá hộ đói nghèo của Việt Nam.
- Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân của một người một tháng (hoặc
năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương
thực (gạo) để đánh giá.
Khái niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (tổng thu trừ
đi chi phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân
khẩu tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo.
- Chỉ tiêu phụ: Là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học
tập, chữa bệnh, đi lại…
Lấy chỉ tiêu thu nhập là cơ bản để phản ánh mức sống, biểu hiện bằng
giá trị. Tuy nhiên, trong điều kiện giá cả, không ổn định như nước ta thì cần
5
thiết sử dụng hình thức hiện vật, phổ biến là quy ra gạo tiêu chuẩn (gaọ
thường). Việc sử dụng hiện vật quy đổi nhằm loại bỏ được ảnh hưởng của các
yếu tố giá cả, từ đó có thể so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian
và không gian được dễ dàng, thuận tiện. Đặc biệt đối với người nghèo nói
chung và người nông thôn nghèo nói riêng, chỉ tiêu lượng kilôgam gạo bình
quân một người trong một tháng là rất có ý nghĩa thực tế.
* Chuẩn mực xác định đói nghèo của Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam để do tình trạng nghèo đói nhiều địa phương lấy tiêu chuẩn
thu nhập bình quân một khẩu trong một năm. Chẳng hạn thành phố Hồ Chí
Minh lấy mức thu nhập bình quân dưới 800.000đ/1 khẩu/ 1 năm (tương
đương trên 33 kg gạo/tháng), Vĩnh Phú lấy tiêu chuẩn dưới 500.000đ/ khẩu/
một năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân nhân khẩu.
Gia đình nào có mức thu nhập bình quân dưới 30 kg gạo một khẩu một tháng
được coi là nghèo. Theo tổng cục thống kê, để xác định hộ nông dân nghèo
được căn cứ vào thu nhập tính bình quân đầu người, nếu đạt dưới 13 kg gạo/
tháng (156 kg gạo/ người/ năm) sẽ là hộ nghèo. Một khuynh hướng khác lại
lấy mức lượng tối thiểu do Nhà nước quy định làm chuẩn. Người có mức
sống dưới mức nghèo khổ là người có thu nhập bình quân một tháng thấp hơn
mức lương tối thiểu Nhà nước quy định (hiện nay mức lương tối thiểu của
Việt Nam là 290 ngàn đồng/ tháng). Các chuẩn mực trên có thể đúng trên
tổng thể song không thể áp dụng cho từng đối tượng, từng vùng cụ thể được.
Nếu lấy mức bình quân 800 ngàn đồng/ khẩu/ năm là hộ nghèo ở thành phố
Hồ Chí Minh thì có thể lại là hộ giàu ở các vùng nông thôn miền núi phía
Bắc. Vì vậy, để chọn và phân loại hộ đói nghèo ở Việt Nam có thể phải xem
xét các đặc trưng cơ bản của nó như: thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ
sản lượng khoán triền miên, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến
trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm
thuê cuốc mướn để kiếm sống qua ngày hoặc đi ăn xin…Nếu đưa chuẩn mực
này ra để xác định thì rất dễ biết hộ đói nghèo ở nông thôn.
- Hộ đói: Theo Bộ lao động thương binh và xã hội trong giai đoạn hiện
nay nếu thu nhập bình quân trong hộ đạt dưới (hoặc bằng) 13 kg gạo/ người/
tháng là đói. Song, trên thực tế những hộ nào thiếu lương thực trong gia đình
phải đứt bữa hoặc ăn bữa cơm bữa cháo, ăn độn khoai sắn…Mấy năm trước
6
đây ở miền Bắc, do cơ chế cũ, đói thường đi liền với thiếu trong cân đối
lương thực trên địa bàn. Nhưng hiện nay theo dõi hiện tượng đói ở một số
vùng thì không có hiện tượng thiếu trong cân đối lương thực trên địa bàn.
Như vậy người đói là người không còn dự trữ lương thực trong nhà, song
cũng không có tiền để mua lương thực trong ngày, mặc dù trên thị trường
không thiếu lương thực.
Rõ ràng ở nông thôn Việt Nam khái niệm đói nghèo phải phân làm 2
mức độ khác nhau đói nghèo (tương đối và tuyệt đối) và đói.
d. Những nhân tố ảnh hưởng đến xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
XĐGN là vấn đề xã hội song nguyên nhân của nó về cơ bản lại là từ kinh
tế (Trần Đình Hoan, 1995). Vào đầu những năm 1990, nền kinh tế Việt Nam
chưa thoát khỏi khủng hoảng, tình trạng thiếu đói xảy ra ở nhiều nơi và số hộ
nghèo chiếm tới 58% tổng số hộ trong cả nước (Ngân hàng thế giới, 2000).
Cùng với những thành tựu phát triển kinh tế từ quá trình đổi mới, tình trạng
đói căn bản đã được giải quyết và số hộ nghèo đã giảm đi đáng kể (37% năm
1997 theo đánh giá của Ngân hàng thế giới và 10% năm 2001 theo chuẩn cũ
của Bộ LĐTBXH). Điều này cũng có nghĩa là trong quá trình phát triển kinh
tế của Việt Nam, vấn đề bất bình đẳng về thu nhập chưa có những tiến triển
nghiêm trọng nên nhiều người nghèo trước đây đã được hưởng thụ những
thành quả cuả tăng trưởng kinh tế. Các báo cáo của Bộ LĐTBXH đã khẳng
định tăng trưởng kinh tế là nguyên nhân cơ bản làm giảm tình trạng đói nghèo
ở Việt Nam.
Bên cạnh yếu tố tăng trưởng kinh tế nội địa, các hoạt động liên kết kinh
tế quốc tế cũng góp phần vào hoạt động XĐGN ở Việt Nam. Một trong những
nội dung của chủ trương đổi mới của Việt Nam là sự mở cửa thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN). Ngoại tác dụng đem vào Việt Nam nguồn
vốn, ĐTTTNN trực tiếp và gián tiếp tạo ra việc làm cho người lao động, đóng
góp vào ngân sách Nhà nước và qua đó gián tiếp hỗ trợ cho các chỉ tiêu công
cộng có tác dụng tích cực đến XĐGN. Do vai trò quan trọng của ĐTTTNN
trong quá trình đổi mới và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, ĐTTTNN được
xem như là một yếu tố quan trọng bên cạnh các yếu tố ảnh hưởng nội địa
khác.
7
Song song với yếu tố kinh tế, các yếu tố chính sách cũng được Bộ
LĐTBXH đánh giá như một nguyên nhân quan trọng của kết quả XĐGN. Sự
hình thành và nhấn mạnh các chính sách XĐGN xuất phát từ đặc thù của Việt
Nam với định hướng xây dựng mới xã hội công bằng văn minh. Các chính
sách cụ thể liên quan trực tiếp đến XĐGN ở Việt Nam là biện pháp hữu hiệu
để hỗ trợ bộ phận dân cư chưa bắt kịp với cơ chế thị trường như nhóm dân cư
ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn cũng như những
người có khó khăn về sức khoẻ, trình độ nhận thức nên còn nghèo đói. Các
chính sách về XĐGN ở Việt Nam bao gồm một diện rộng chính sách, đề cập
đến khía cạnh đa dạng của nghèo đói, như chính sách tín dụng, dạy nghề cho
người nghèo, chính sách chuyển đối cơ chế kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng,
chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục…Các chính sách này được tổ
chức tiến hành ở tất cả các địa phương trong cả nước, định kỳ có tiến hành
tổng kết đánh giá với sự tham gia của người dân.
Bộ LĐTBXH cũng nêu rõ vấn đề nghèo đói ở Việt Nam cũng do điều
kiện tự nhiên khó khăn, thường xuyên có bão lụt. Những tính nghèo nhất tập
trung ở vùng núi phía Bắc và ven biển Trung Bộ là những tỉnh có điều kiện
đất đai không thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp và thường xuyên gặp phải
hiện tại. Để phản ánh đặc điểm về sự khác biệt này giữa các địa phương trong
khi ước lượng, tỷ lệ hộ nghèo đói năm 1997 của 61 tỉnh thành phố, số trẻ em
dưới 10 tuổi trong 1 hộ gia đình của 61 tỉnh thành phố, tỉ lệ lao động kỹ thuật
trong tổng số lao động của 61 tỉnh thành phố sẽ được sử dụng. Các biến số
này được sử dụng nhằm xem xét đặc thù của các địa phương có ảnh hưởng
thế nào đến kết quả XĐGN bên cạnh các yếu tố chính sách về kinh tế.
2. Nguồn lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu về kinh tế và
các biện pháp chủ yếu.
a. Phương hướng chủ yếu.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đa dạng hoá về sử dụng lao động.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động – xoá đói giảm nghèo ở nông
thôn từ nay đến năm 2010 phải làm thay đổi chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm dần số hộ làm thuần nông, giải
phóng đất đai, khắc phục tình trạng bình quân diện tích đất đất nông nghiệp
đầu người quá thấp như hiện nay. Đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá về sử
8
dụng lao động, thực hiện người nào giỏi việc gì làm việc ấy trên cơ sở giao
đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, đồng thời bằng cơ chế chính sách và
luật pháp tập trung dần ruộng đất có điều kiện cho các hộ có khả năng sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp hàng hoá.
- Gắn lao động với đất đai và tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Hướng vào mục tiêu khai thác và sử dụng có hiệu quả những diện tích
còn bỏ trống, hoang hoá, đồi núi trọc, tiềm năng ven biển để tạo việc làm tăng
thu nhập. Hướng ưu tiên chủ yếu là trồng các loại cây nguyên liệu giấy và
trồng các cây công nghiệp dài ngày có khả năng xuất khẩu cao, khai thác các
nguồn lợi đặc sản xuất khẩu (như nuôi tôm, cua, ba ba, rong câu, nấm).
Chương trình tín dụng nông thôn phải gắn liền với chương trình đào tạo,
hướng dẫn hộ gia đình cách làm ăn, phát triển mạnh mẽ các cơ sở khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư các trung tâm áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật và chuyển giao công nghệ vào nông thôn.
- Nâng cao hiệu quả của lao động phi nông nghiệp ở nông thôn.
Đây là một trong những chương trình cơ bản chuyển đổi cơ cấu kinh tế
trong nông thôn, giải quyết việc làm tại chỗ.
- Khuyến khích tự do di chuuyển lao động và hành nghề.
Hiện nay đang có dòng người thôi việc từ khu vực Nhà nước ra trở về
nông thôn, cũng có dòng người tự do di chuyển từ nông thôn miền bắc vào
miền nam (đồng bào H’ Mông, Dao…) Song mấy năm trở lại đây dòng lao
động tự do di chuyển và hành nghề cũng tăng lên (đi làm nghề lưu động, đi
làm thuê, đi làm cửu vạn vùng khai thác sa khoáng, cửu vạn khuân vác vùng
cửu khẩu…). Số này gia đình vẫn ở nông thôn, họ chỉ đi làm ăn. Đây là
hướng ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của thị trường lao động.
Nhà nước cần phải có chương trình và chính sách khuyến khích dòng tự do di
chuyển lao động và hành nghề thông qua luật lao động, sửa đổi chính sách
đăng kí hộ khẩu, chính sách nhà ở, chính sách nghĩa vụ công dân…
- Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động phải gắn với các chương trình
kinh tế – xã hội khác.
Đó là chương trình giải quyết việc làm: chương trình phát triển kinh tế –
xã hội nông thôn toàn diện: chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc;
chương trình kế hoạch hoá gia đình, chương trình phóng chống tệ nạn xã hội.
9
Mỗi một chương trình đều nhằm đạt được mục tiêu riêng và đối tượng thụ
hưởng riêng, nhưng đều hướng vào mục tiêu chung là phát triển con người,
phát huy nhân tố con người, đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ
công dân.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động của người nghèo.
Để thực hiện việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, xoá đói giảm
nghèo, phải theo quan điểm phát triển không nên theo quan điểm cứu tế xã
hội, ban phát như trước đây, tức là có kế hoạch nâng cao hiệu quả sử dụng lao
động, trợ giúp người nghèo để họ tự vươn lên hoà nhập vào cộng đồng.
b. Các biện pháp
Để thực hiện chiến lược nâng cao hiệu quả sử dụng lao động tăng thu
nhập nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam cần phải:
- Nâng cao trình độ về kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng sản xuất cho
người lao động và hộ đói nghèo.
Hiện nay lao động có chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn rất thấp, chiếm
trên 5% tổng nguồn lao động nông thôn. Việc đào tạo lao động chuyên môn
kỹ thuật cho nông thôn rất hạn chế do các nguyên nhân: Giáo dục xuống cấp,
kinh tế nhiều vùng nông thôn thấp kém không có điều kiện để theo học, Nhà
nước chưa có chính sách quan tâm đào tạo, phân phối sức lao động kỹ thuật
cho nông thôn. Vì vậy sắp tới Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đào tạo
nghề, đào tạo lao động chuyên môn – kĩ thuật (sơ - trung - đại học), đào tạo,
bồi dưỡng chủ doanh nghiệp cho nông thôn. Cụ thể là hỗ trợ kinh phí đào tạo,
phân bố lao động kỹ thuật (những người do Nhà nước bỏ tiền đào tạo) về
phục vụ nông thôn, thực hiện rộng rãi chương trình khuyến nông, hướng
nghiệp trong nhà trường. Nên nghiên cứu thành lập các trung tâm khuyến
nông thông qua các hình thức đào tạo nghề và hướng dẫn áp dụng khoa học kĩ
thuật trong nông nghiệp và nông thôn. Đồng thời cần thực hiện tốt việc
chuyển giao công nghệ và đào tạo. Phát huy tốt hơn nữa các trung tâm đào tạo
và giới thiệu việc làm ở các địa phương, các trường chuyên nghiệp, các trung
tâm khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư, các hộ nghề nghiệp và cá nhân
có trình độ khoa học kỹ thuật tổ chức chuyển giao công nghệ hướng dẫn các
hộ làm ăn phù hợp với từng vùng sinh thái, chú trọng đặc biệt các công nghệ
mới, đơn giản (như công nghệ sinh học) đang có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
10
Khuyến khích các cơ sở dạy nghề đào tạo những hộ biết tổ chức sản xuất kinh
doanh giỏi ở nông thôn. Thu hút lực lượng cán bộ kỹ thuật xuống xã công tác
thông qua việc đổi mới các chính sách đãi ngộ.
- Thực hiện các chương trình kinh tế – xã hội có liên quan đến lao động
– việc làm – thu nhập – xoá đói giảm nghèo.
+ Chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình.
+ Chương trình cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
+ Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
c. Chương trình xoá đói giảm nghèo
Nhà nước phải có chương trình xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo
cho hộ và vùng nghèo là một quá trình, từ này đến năm 2010 mục tiêu chủ
yếu là giảm đi đến xoá bỏ hộ thiếu đói kinh niên giảm cơ bản số hộ nghèo, xã
nghèo theo chuẩn mực đã xác định, trước hết ở từng làng, xã, huyện, đặc biệt
là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng ven biển miền trung điều kiện tự
nhiên khí hậu khó khăn, khắc nghiệt, nhiều bão lụt, mất mùa, vùng chiêm
trũng, đồng thời tập trung cho đối tượng chính sách ưu đãi xã hội (gia đình
liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng), người bị tàn tật, người
già cô đơn, trẻ mồ côi. Trong thời gian trước mắt 2003 – 2004 đối với vùng
sâu, vùng cao, vùng xa, khu căn cứ cách mạng cũ, đồng bào dân tộc ít người
đảm bảo được lương thực cho nhu cầu ăn, giảm đến chấm dứt hộ thiếu đói
hàng tháng, dứt bữa, từng bước giảm số hộ nghèo, để các hộ có mức sống
trung bình.
Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo về nội dung bao gồm các
chương trình sau:
* Chương trình tín dụng cho người đói nghèo.
Thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là nguyên nhân trực tiếp của
đói nghèo trong các hộ gia đình và chiếm tỷ lệ cao. Cần phải có một sự hỗ trợ
vốn trực tiếp của Nhà nước (cả trung ương và địa phương), các tổ chức quốc
tế (cả chính phủ và phi chính phủ), của cộng đồng thông qua quỹ “xoá đói
giảm nghèo”. Quỹ này được hình thành cả 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và
xã, quỹ xoá đói giảm nghèo có một ý nghĩa nó là một phần của ngân sách
chuyển sang, của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, cá nhân trong cộng
đồng kể cả vốn góp của chính người nghèo.
11
*. Chương trình chuyển giao công nghệ – hướng dẫn cách làm ăn cho
hộ đối nghèo.
Không có nghề, không biết cách thức làm ăn là nguyên nhân cơ bản trực
tiếp đến đói nghèo của mỗi hộ. Phần lớn các hộ đói nghèo có trình độ văn
hoá thấp và ít được đào tạo về nghề nghiệp và do yếu kém về thể chất, hạn
chế về vốn, về tư liệu sản xuất nên hầu hết họ thiếu kém kiến thức kinh
doanh, sản xuất, dịch vụ kể cả kiến thức chi tiêu trong gia đình. Vì vậy cần
phải có chương trình hướng dẫn làm ăn cho họ trước hết là các nội dung mà
bản thân họ đang làm nhưng không biết làm nên không có hiệu quả và những
việc họ sẽ làm bằng vốn vay trong quỹ xoá đói giảm nghèo.
*. Chương trình đầu tư về phúc lợi xã hội cho người đói nghèo.
Trên thực tế ở các địa phương đang bộc lộ mỗi quan hệ giữa sự phát
triển vùng với giảm số lượng các hộ đói nghèo của vùng. Nhìn chung vùng
nghèo thì tỷ lệ đói nghèo cao, có vùng 70 – 80%, vùng giàu có trình độ phát
triển hơn thì tỉ lệ hộ đói nghèo thấp, có nơi chỉ 10 – 15%. Xét trên phạm vi cả
nước so sánh giữa nông thôn với thành thị, xét riêng giữa các vùng nông thôn
với nhau những tỉnh nghèo, huyện nghèo, xã nghèo có tỉ lệ hộ đói nghèo cao
hơn so với vùng giàu, tỉnh, huyện, xã giàu. Vì vậy phát triển vùng có ảnh
hưởng quan trọng tới xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Những biện pháp phát
triển vùng là đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống dân cư cho
nông thôn nói chung đặc biệt cho các vùng nghèo, tỉnh nghèo, huyện nghèo,
xã nghèo nói riêng; chủ yếu là đầu tư xây dựng thuỷ lợi, giao thông nông
thôn, trường học, bệnh viện, trạm xá, nhà trẻ, mẫu giáo, nước sạch nông thôn,
điện cho sản xuất và sinh hoạt. Muốn làm được Nhà nước cả trung ương và
địa phương cầnn hỗ trợ và khuyến khích các hợp tác xã, cộng đồng làng xã và
các nhóm dân cư xây dựng và thực hiện từng bước cơ sở hạ tầng nhỏ ở nông
thôn, đặc biệt là giao thông nội đồng, nội xã tạo điều kiện sử dụng công cụ cải
tiến, đưa tiến bộ công nghệ mới vào sản xuất; cấp điện để dân sử dụng trong
bảo quản chế biến nông sản, để mở mang ngành nghề, phát triển kinh tế gia
đình, hỗ trợ dịch vụ đời sống, dịch vụ gia đình, có ảnh hướng để học văn hoá,
nghiệp vụ, nuôi dạy con cái. Cần hoàn chỉnh công trình trung – tiểu nông của
làng xã, để chủ động công tác tưới tiêu theo khoa học, cải tạo đất, nâng cao
năng suất cây trồng – vật nuôi. Đây là một giải pháp căn bản phải đi trước
12
một bước trước khi thực hiện các chương trình khác hỗ trợ cho hộ đói nghèo
và vùng nghèo.
- Nhà nước cần ban hành một số chính sách giành riêng cho các hộ nông
thôn.
+ Chính sách vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
+ Chính sách miễn giảm các khoản đóng góp cho Nhà nước và địa
phương.
+ Chính sách sử dụng ruộng đất
+ Chính sách khuyến khích đầu tư vào vùng nghèo.
+ Chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã nghèo.
+ Chính sách thuế.
+ Chính sách tạo mở thị trường
+ Chính sách bảo trợ và bảo hiểm sản xuất.
+ Chính sách xã hội.
Bằng nhiều biện pháp, Nhà nước cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn tạo môi tưrờng kinh tế – xã hội cho các hộ gia đình có điều kiện
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo.
Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm hải sản (kể cả nông thôn và
thành thị) gắn với vùng nguyên liệu và phát triển vùng nguyên liệu ở nông
thôn gắn với các cụm công nghiệp làng tiêu dùng và xuất khẩu đã có.
Khuyến khích phát triển các hội, hiệp hội nghề nghiệp nhằm giúp nhau
cùng làm giàu, xoá đói giảm nghèo.
Khuyến khích các hộ nông dân phát triển các hình thức hợp tác tự
nguyện.
II. NGUYÊN NHÂN VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ CẦN THIẾT PHẢI XOÁ ĐÓI
GIẢM NGHÈO.
1. Vai trò, cơ cấu thị trường nông thôn.
a. Vai trò của nông thôn.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của phát triển kinh tế nông thôn, thị
trường nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, từ
đó, cần tập trung lực lượng của cả nước, của công nghiệp và thành thị, kể cả
quan hệ quốc tế vào việc phát triển mạnh mẽ kinh tế nông thôn, nhanh chóng
tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trên địa bàn nông thôn, để ngày
càng đáp ứng được nhiều hơn cho nhu cầu của xã hội, của thành phố, tạo ra
13
những tiền đề công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại hoá, từng bước
đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiến lên đuổi kịp các nước
công nghiệp mới.
b. Cơ cấu thị trường nông thôn
- Thị trường lương thực và lương thực chế biến từ các loại lúa và hoa
màu.
- Thị trường thực phẩm, chủ yếu là thực phẩm chế biến từ các nguyên
liệu trồng trọt và chăn nuôi, nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
- Thị trường sản phẩm hàng tiêu dùng từ nguyên liệu nông nghiệp như
vải, giày…và từ nguyên liệu công nghiệp như sản phẩm kim khí hoá chất.
- Thị trường các loại tư liệu sản xuất cung ứng cho nông nghiệp và nông
thôn.
- Thị trường hàng hoá cung ứng cho xuất khẩu, và hàng nhập khẩu cho
nông thôn.
- Thị trường vốn và kinh doanh tiền tệ.
- Thị trường sức lao động cung ứng cho nhu cầu trên địa bàn và cung
ứng cho nhu cầu công nghiệp và vùng kinh tế mới.
- Thị trường cung ứng các hoạt động dịch vụ cho nhu cầu sản xuất và đời
sống ở nông thôn.
Trong cơ cấu hàng hoá của thị trường nông thôn như trên bao gồm cả
đầu vào và đầu ra của thị trường.
Đầu ra của thị trường nông thôn là nông sản hàng hoá sản xuất và chế
biến trên địa bàn, một phần đáp ứng cho nhu cầu tại thị trường địa phương,
một phần đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp và thành phố, nhu cầu của cả
nước và xuất khẩu.
Đầu vào của thị trường nông thôn một phần do sự cung ứng tại chỗ
những tư liệu sinh hoạt và hàng công nghiệp tiêu dùng sản xuất trên địa bàn
nông thôn và một phần với khối lượng ngày càng lớn do sự cung ứng của các
ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, các ngànhh dịch vụ, kết cấu hạ
tầng và từ hàng nhập khẩu của nước ngoài.
Nói thị trường nông thôn bao gồm cả đầu ra và đầu vào như vậylà đặt thị
trường nông thôn trong cơ cấu nội tại của nó và trong cơ cấu thị trường
chung của cả nước và quốc tế. Thị trường nông thôn hình thành theo vùng,
14
trong đó cơ cấu thị trường trong vùng và quan hệ với thị trường các vùng
khác trong cả nước.
Mối quan hệ dọc và quan hệ ngang của thị trường nông thôn trên đây
được thực hiện thông qua cơ chế thị trường dựa theo quy luật cung – cầu và
giá cả, dưới sự hướng dẫn của kế hoạch và sự điều tiết của Nhà nước.
Trong quá trình phát triển sản xuất hàng hoá, thị trường nông thôn sẽ
phát triển và hình thành các thị trấn và thị tứ trên địa bàn nông thôn, trở thành
những chân rết của thị trường thành thị, gắn thị trường nông thôn với thị
trường thành thị.
2. Quy mô
a. Quy mô theo giới tính
Ở nông thôn Việt Nam cũng như cả nước phụ nữ không có lợi thế khi so
sánh với đàn ông, trong khi ở Việt Nam 23% dân số sống trong các hộ gia
đình do phụ nữ làm chủ hộ. Thực tế qua điều tra thì phụ nữ làm chủ hộ ít bị
đói nghèo hơn đàn ông làm chủ hộ. Trong số 23% chủ hộ phụ nữ nhưng họ
chỉ chiếm 9,5% số người nghèo hay nói một cách khác, nếu sử dụng mức tiêu
chuẩn thì khoảng 26,5% cá nhân sống trong các hộ gia đình do nam giới làm
chủ hộ thuộc diện đói nghèo, nhưng chỉ 21,5% cá nhân sống trong các hộ gia
đình do phụ nữ làm chủ hộ.
b. Quy mô theo dân tộc
Khoảng 85% dân số Việt Nam thuộc dân tộc kinh. Các dân tộc còn lại
nhỏ và không tập trung, lớn nhất là người hoa chiếm 2,5% dân số. Nhìn tổng
thể thì dân tộc kinh có tỉ lệ đói nghèo thấp hơn mức đói nghèo chung toàn
quốc. Bởi vì các dân tộc khác họ phải sống ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh
ở đó điều kiện tự nhiên – kinh tế – xã hội khó khăn. Chỉ có người hoa là bộ
tộc chiếm dưới 0,5% trong tổng số người nghèo mặc dù họ chiếm tới 2,5%
dân số, có 2 dân tộc chiếm tỉ lệ đói nghèo cao nhất là dân tộc H’ Mông và dân
tộc Dao.
c. Quy mô theo hoàn cảnh.
2/3 các hộ gia đình có người bị tàn tật phải nuôi dưỡng là đói nghèo,
63,83% người già cô đơn không nơi nương tựa lâm cảnh đói nghèo 21% trẻ
15
em mồ côi cả cha lẫn mẹ và 31% trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ sống lang thang
đói nghèo.
Đây là các đối tượng chiếm tỉ lệ đói nghèo cao nhất và dễ bị tổn thương
nhất khi rủi ro ập đến.
3. Nguyên nhân và hậu quả của đói nghèo
a. Nguyên nhân
Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc xác định nguyên nhân của
đói nghèo. Trên thực tế không có một nguyên nhân biệt lập, riêng rẽ dẫn tới
đói nghèo, nhất là đói nghèo trên diện rộng, có tính chất xã hội. Nó cũng
không phải là nguyên nhân thuần tuý về kinh tế hoặc do thiên tai, dịch hoạ. Ở
đây nguyên nhân của tình trạng đói nghèo là có sự đan xen, thâm nhập vào
nhau cả cái tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, cả cái cơ bản và tức thời, cả nguyên
nhân sâu xa lẫn nguyên nhân tưực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, tự nhiên
lẫn kinh tế – xã hội.
Ta nhìn thấy các nguyên nhân chủ yếu sau:
* Do trình độ sản xuất.
Do khác biệt về năng lực, kinh nghiệm, tài năng, nguồn lực (vốn, kỹ
thuật, quan hệ xã hội, môi trường sản xuất kinh doanh…) mà có sự phân hoá
giàu nghèo (ở người sản xuất kinh doanh, cộng đồng, khu vực, quốc gia, dân
tộc này so với quốc gia, dân tộc khác). Đây là hệ quả tự nhiên, hợp logic của
sự phát triển, tuy có phát sinh những hậu quả xã hội phải điều chỉnh. Hơn nữa
phân hoá giàu nghèo trong sản xuất kinh doanh, phân hoá thu nhập của kinh
tế thị trường mang tính chất tích cực vì nó dựa trên động lực lợi ích kinh tế và
khẳng định cá nhân, cá thể hướng tới phát triển xã hội bằng con đường sản
xuất.
Bên cạnh đó, ta cũng phải thấy hết mặt trái của sự phân hoá giàu nghèo
trong cơ chế thị trường để chủ động giải quyết những hậu quả tiêu cực về mặt
xã hội và kinh tế bằng vai trò, sức mạnh của Nhà nước trong quản lý, đó là:
- Coi xoá đói, giảm nghèo là lĩnh vực ưu tiên và quan tâm hàng đầu bằng
một tiềm lực vật chất và các giải pháp đủ mạnh để đồng thời với sự phát triển
kinh tế xã hội là tạo cho một bộ phận dân cư nghèo hoà nhập với cộng đồng
không thể xảy ra bần cùng hoá.
16
- Xoá đói, giảm nghèo bằng con đường phát triển và không làm triệt tiêu
động lực vươn lên tới sự giàu có, khuyến khích làm giàu chính đáng, đóng
góp vào tiềm lực xã hội để cùng Nhà nước giải quyết thành công xoá đói,
giảm nghèo cho người lao động, hộ nghèo, vùng nghèo.
* Do bản thân người nghèo.
Thiếu các điều kiện cơ bản của sản xuất kinh doanh như thiếu vốn, thiếu
ruộng đất, thiếu công cụ có chất lượng. Nguyên nhân này chiếm tới 70 – 90%
số hộ đói nghèo.
Sinh đẻ nhiều dẫn tới đông con, đông cháu, hậu quả là người ăn chơi thì
nhiều, người làm thì tí, thiếu lao động trong sản xuất. Nguyên nhân này chiếm
50 – 60%.
Nghề chính có hiệu quả thấp trong khi đó lại không có nghề phụ khác.
Kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm làm ăn, chiếm 40 – 50%.
Ốm đau, bệnh tật, tai nạn rủi ro, chiếm 10 – 15%.
Lười lao động, ăn tiêu không có kế hoạch, chiếm 5 – 6%.
Mắc các tệ nạn xã hội (cờ bạc, nghiện hút) chiếm 2 –3%.
Trong số nguyên nhân cơ bản kể trên, có người thuộc diện nguyên nhân
này nhưng cũng có người thuộc diện nhiều nguyên nhân.
Do thất nghiệp
Tình hình thất nghiệp ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng
biểu hiện với các hình thức đa dạng, phức tạp đặc biệt dưới dạng dư thừa lao
động và thất nghiệp trá hình lớn.
Hiện nay ở nước ta thất nghiệp chủ yếu là do tình trạng có quá nhiều
người làm việc trong tương quan với đất đai, trang thiết bị, tiền vốn để sản
xuất ra mức sản xuất hiện tại. Ở nông thôn thời gian lao động chưa được sử
dụng chiếm tới 27,1% trong khi đó khu vực nông thôn đang chiếm 80,2%
tổng số lao động cả nước, bình quân đất canh tác cho một lao động năm 1996
là 0,3 ha quá thấp nếu so sánh các nước trong khu vực (0,8 ha).
Đối với khu vực thành thị, tính đến thời điểm 1/7/1999 tính chung cho cả
nước, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi trở lên là 7,15%,
tăng 0,55% so với năm 2002; với lao động nữ là 7,9% khu vực thành thị có tỷ
lệ thất nghiệp cao nhất là Hà Nội: 10,31%; Quảng Ninh: 9,29%, TP Hồ Chí
Minh: 7,04%.
17
Trong khu vực doanh nghiệp quốc doanh với 1,7 triệu người đang làm
việc hiện nay, theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế có đến 30% trong
số họ là dư thừa do sản xuất thua lỗ kéo dài.
Như vậy thất nghiệp dưới mọi hình thức dang là một trong những
nguyên nhân quan trọng gây nên sự đói nghèo không chỉ ở Việt Nam mà còn
ở các nước khác.
* Do điều kiện tự nhiên và môi trường.
Các cuộc chiến tranh lớn nhỏ trên thế giới từ trước đến nay như chiến
tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, chiến tranh Việt Nam và hiện nay là
chiến tranh ở Nam Tư…đã gây thiệt hại và hậu quả to lớn cho các bên tham
chiến. Hàng trăm tỷ USD đã bị tiêu huỷ bởi các loại vũ khí, nhiều cơ sở hạ
tầng bị phá huỷ, hàng nghìn người bị thương vong, bị mất nhà cửa và lâm
vào cảnh đói nghèo cùng cục…Theo nhiều thông tin thì cuối năm 1998 số
người nghèo khổ trên thế giới đã là 1.300 triệu người, tăng tuyệt đối 175 triệu
so với năm 1985. Nếu không chấm dứt các cuộc chiến tranh phi nghĩa thì hết
năm 2003 số người nghèo khổ trên thế giới sẽ không dừng lại ở con số 1.300
triệu mà còn tăng lên nhiều cho dù ở các nước không còn chiến tranh có đạt
được thành tựu cao trong cuộc xoá đói giảm nghèo.
Phong tục tập quán ở nhiều vùng còn lạc hậu, nhiều hộ còn sống theo lối
du canh, du cư nên khó thay đổi phương thức truyền thống, năng suất và hiệu
quả sản xuất thấp.
Đất canh tác ít và xấu, thời tiết khắc nghiệt, không thuận lợi dẫn đến hạn
hán, lụt lội…Làm cho năng suất cây trồng, vật nuôi thấp, mất mùa. Đây là
nguyên nhân tiềm tàng gây ra nạn đói nghèo cấp tính.
Bất lợi về địa lý (xa xôi, hẻo lánh…), thiết hụt các công trình cơ sở hạ
tầng (đường giao thông, điện, y tế, trường học…) làm cho người dân không
có điều kiện trao đổi thông tin và trao đổi sản phẩm, không có điều kiện để
trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực sản xuất và hầu như ít có điều kiện để
tiếp cận với các phúc lợi xã hội trong việc chăm sóc sức khẻo. Nền kinh tế
chủ yếu là tự cung tự cấp, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Đây cũng là
nguyên nhân quan trọng dẫn tới đói nghèo.
Do cơ chế chính sách
18
Sự quan tâm và đầu tư cho các vùng chưa thoả đáng. Đặc biệt đầu tư cho
khu vực nông thôn và miền núi còn hạn chế so với yêu cầu đòi hỏi.
Chính sách ưu tiên, khuyến khích thực hiện chuyển giao công nghệ, hỗ
trợ làm ăn, khuyến nông khuyến lâm chưa tập trung cho các vùng nghèo.
Chưa có chính sách phù hợp để bao tiêu sản phẩm cho các vùng nghèo.
Nhiều chính sách vĩ mô của chính phủ còn cứng nhắc không thực hiện
chưa thực sự quan tâm để khuyến khích và phát triển vùng nghèo.
* Do thiếu thị trường để trao đổi thông tin và sản phẩm.
Thị trường là một nguyên nhân tiềm tàng có tầm quan trọng, là cơ sở để
khai thông nghèo đói, vượt qua đói nghèo. Đây là một xu hướng khách quan,
nó gắn liền với xu thế có tính quy luật: Muốn giảm bớt nghèo đói và vượt qua
đói nghèo phải chuyển kinh tế tự nhiên, độc canh thành phần kinh tế hàng
hoá, đa dạng cơ cấu, loại hình ngành nghề, loại hình sản phẩm, chuyển từ tư
duy hiện vật sang tư duy giá trị.
Đối với người nghèo tất cả mọi biện pháp cứu trợ chỉ có giá trị nhất thời,
không thể làm thay đổi hoàn cảnh đói nghèo kinh niên của họ và do đó cũng
không thể thay đổi thân phận của người nghèo được. Muốn vậy đòi hỏi phải
có thị trường để trao đổi thông tin, vật tư và các sản phẩm sản xuất được theo
đúng giá trị.
b. Hậu quả
- Về văn hoá giáo dục
Xoá mù chữ và giáo dục tại trường là các chỉ số quan trọng để định
hướng mức sống đồng thời cũng là nhân tố quyết định khả năng của người đói
nghèo trong việc nắm bắt các cơ hội tạo thu nhập. Ở Việt Nam đạt được mức
khá cao về xoá mù chữ cơ bản, bình quân là 88% của người trên 15 tuổi. Điều
đó nghĩa là mức xoá mù chữ trong số người đói nghèo là cao, phần phải xoá
mù chữ còn lại là không lớn lắm. Với tỉ lệ xoá mù chữ từ 79% trong số 20%
dân số nghèo nhất đến mức 94% trong số những người giàu nhất. Mức chênh
lệch về mù chữ theo giới tính cũng không lớn lắm mặc dù số phụ nữ được xoá
mù chữ thấp hơn (84%) so với nam giới (93%) số năm được đào tạo đối với
người trên 15 tuổi chỉ bình quân là 5 năm trong số 20% dân số nghèo nhất và
8 năm trong số 20% dân số giàu nhất. Ở đây cũng tồn tại mức chênh lệch lớn
theo giới tính, với số năm học bình quân của năm là 7,2 năm mà của nữ chỉ
5,7 năm.
19
Trình độ văn hoá ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghèo đói, vì nó đóng vai trò
then chốt trong sự tăng trưởng nền kinh tế và làm giảm mức đói nghèo. Người
có học vấn cao có thu nhập cao hơn và chiếm rất ít trong số người nghèo. Ở
nông thôn những gia đình không được học hành trong diện nghèo đói là 34%.
Những người trong gia đình chủ hộ có trình độ văn hoá cấp I trong diện nghèo
đói là cao hơn mức trung bình về nghèo đói của cả nước. Người sống ở những
gia đình có chủ gia đình trình độ văn hoá cấp II có tỉ lệ nghèo đói xấp xỉ mức
trung bình cả nước. Tỉ lệ nghèo đói của những người trong gia đình có học vấn
cao thì thấp rõ rệt, thường ở mức 6%, xem số liệu biểu 1 dưới đây.
Biểu 1: Mức nghèo đói theo trình độ học vấn của chủ hộ ở nông thôn Việt
Nam
TT
Học vấn của chủ hộ
Tỷ lệ đói nghèo (%)
1
Không đi học
32,5
2
Cấp I
27,0
3
Cấp II
26,0
4
Cấp III
20,5
5
Trung học chuyên nghiệp
16,5
6
Đại học
5,5
Nguồn: Chương trình xoá đói giảm nghèo
- Về y tế, dinh dưỡng và tỉ lệ sinh đẻ.
Tiến bộ trong giáo dục, y tế, hạn chế sinh để củng cố thêm trong việc
đầu tư kiến thức cho người đói nghèo nhằm trực tiếp nâng cao chất lượng
cuộc sống của họ. Việt Nam đã có sự tiến bộ trong việc cải tiến điều kiện y tế
nói chung trong hơn 30 năm qua. Tỉ lệ trẻ em tử vong sau khi đẻ giảm từ 156
trong 1.000 ca trong năm 1960 xuống còn 80 vào năm 1979 và 45 vào năm
1989 và 35 vào năm 2003. Sự giảm 60% này có lợi cho tất cả thu nhập của
các nhóm nhưng khác nhau giữa người nghèo và người khá giả. Hơn nữa, qua
điều tra đã thu được số liệu về những đứa trẻ sinh ra quá nhẹ cân, đó cũng là
chỉ số quan trọng về sức khoẻ của người mẹ và qui định dinh dưỡng. Các con
số này cho thấy những người mẹ nghèo đói thường là có sức khoẻ kém. Sự
phổ biến ở các trường hợp đẻ con cân nhẹ (nhỏ hơn 2,5 kg) là vào khoảng 7%
trong số nhóm 20% những người nghèo nhất trong cả nước, trong khi nhóm
người giàu nhất chỉ có 4%. Những đứa trẻ không đủ cân, không đủ thức ăn lại
càng làm tăng thêm căn bệnh suy dinh dưỡng kinh niêm ở tuổi mới lớn. Nói
tóm lại trẻ em suy dinh dưỡng ở Việt Nam cao, đặc biệt những người nghèo
đói. Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở 25 – 30 tháng tuổi là 70%, trong nhóm
20
những người nghèo nhất gấp đôi số trẻ em suy dinh dưỡng ở nhóm người giàu
nhất chỉ chiếm có 20% dân số. Con cái nhiều đã đẩy người mẹ vào nguy cơ
thiếu dinh dưỡng, suy sụp sức khẻo tạo thêm vấn đề nghèo đói. Mặc dù ở
nông thôn Việt Nam tỉ lệ sinh đẻ đã giảm đáng kể từ 5,1 con vào năm 1979
xuống còn 3,8 vào năm 1980 còn vào năm 2003 xuống còn 2,18. Nhưng trong
các gia đình nghèo hộ đông con vẫn nhiều theo số liệu điều tra, trong số các
hộ nghèo nhất con số này là 4,9 gần gấp 3 lần số con trong nhóm các hộ giàu
nhất chỉ chiếm có 20% dân số. (xem biểu 2)
Biểu 2: Phân chia chỉ số xã hội theo nhóm ở nông thôn Việt Nam [43].
Nghèo
nhất
5,3
2,5
0,4
42
79,2
- Số khẩu
- Trẻ em ( 0 – 14 tuổi)
- Trên 60 tuổi
- Tuổi chủ hộ
- Trình độ văn hoá
(% ở độ tuổi trên 15)
- Thời gian học ở trường (trung 5,1
bình cho 1 người trên 15 tuổi)
- Trẻ đẻ non (% sinh < 2,5 kg)
6,9
- Tỉ lệ sinh chung
4,9
(số con của 1 phụ nữ)
- Dùng nước công cộng
0,7
(% được sử dụng)
- Nhà vệ sinh dội nước
1,2
(% sử dụng)
- Điện năng (% sử dụng)
28,7
- Xe đạp (% sử dụng)
48,9
- Xe máy (% sử dụng)
0,6
II
III
IV
4,9
1,6
0,5
48
89,7
Giàu
nhất
4,5
1,3
0,5
48
94,2
Việt
Nam
5,04
1,9
0,4
45
88,1
5,1
2,2
0,4
43
86,8
5,1
1,9
0,4
45
88,8
5,7
6,1
6,5
8,0
6,4
7,5
3,8
5,3
3,5
3,8
2,4
3,8
1,8
5,6
3,3
0,7
4,0
10,5
36,8
10,6
1,0
3,3
10,5
39,1
11,0
39,0
62,4
2,0
44,2
68,0
3,5
54,7
70,0
8,3
73,0
73,0
35,3
47,9
64,9
10,7
Nguồn: Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo
- Về tình trạng nhà ở và tài sản
Nhà ở là yếu tố quan trọng trong hệ thống của những mối quan hệ qua lại
trong số các khía cạnh khác nhau của phúc lợi xã hội. Nguồn nước và vệ sinh
có ảnh hưởng quan trọng đến sức khoẻ và chế độ uống. Qua điều tra thấy
nhiều người nghèo phải chịu sự lạc hậu trong việc sử dụng nguồn nước. Chưa
đến 1% nhóm người nghèo nhất được sử dụng nguồn nước công cộng, trong
khi ở nhóm người giàu nhất số người được dùng là 1/3. Chỉ có rất ít trong đa
số người nghèo (khoảng 2%) có mối quan hệ nào đó được sử dụng nguồn
21
nước bơm từ giếng lên, so với tỉ lệ 10% ở nhóm người già nhất. Còn lại đa số
người nghèo dựa vào nguồn nước không sạch múc từ các giếng đào, các dòng
sông hoặc hồ nước (khoảng 23%). Vệ sinh nguồn nước cũng tương tự như
trong việc cung cấp nước theo các nhóm phân loại trên. Hầu như không có
một người nghèo nào ở nông thôn được dùng nhà vệ sinh dội nước trong khi
đó ở nhóm người giàu có được sử dụng chiếm 1/3. Còn lại đa số 41% người
nghèo trong nhóm người nghèo nhất dùng hố xí hai ngăn hoặc không dùng hố
xí. Chiếm chỉ số khác về nhà ở là việc sử dụng về điện năng. Ở đây người
nghèo có mức sử dụng rất thấp. Mức này tăng đột biến theo mức thu nhập, ở
nhóm người nghèo số người được dùng điện chiếm 1/4 còn ở nhóm người
giàu có số này chiếm 3/4. Đa số người nghèo còn lại dùng đèn dầu hoả để
thắp sáng. Bảng phân chia chỉ số xã hội trên chỉ ra số phần trăm hộ gia đình
có xe đạp, xe máy. Sự chuyển đổi từ đi bộ sang xe đạp, rồi từ xe đạp sang xe
máy cho thấy sự tăng thu nhập từng bước và khẳng định rằng những gia đình
khá giả là những gia đình có được sử dụng các dạng dịch vụ và phương tiện đi
lại tốt nhất.
Nguyên nhân nghèo đói của hộ ở nông thôn: Nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo có nhiều, song ở Việt Nam có thể hiểu các nguyên nhân chính sau đây:
Nguyên nhân do chính bản thân hộ gia đình tạo ra, nhóm này do sự khác
biệt về trí tuệ cấu thành, đây là nhóm nguyên nhân cơ bản nhất và khách quan
nhất. Nó bao gồm.
Thiếu kiến thức làm ăn
Thiếu hoặc không có vốn
Đông con, neo đơn, thiếu sức lao động
Rủi ro, ốm đau, tai nạn
Lười nhác, ăn tiêu không có kế hoạch
Mắc tệ nạn xã hội
Trình độ dân trí thấp
Trong đó nguyên nhân quan trọng là thiếu vốn, thiếu kiến thức sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, chi tiêu trong gia đình.
+ Nguyên nhân do cơ chế, chính sách Nhà nước chưa phù hợp, đó là
chưa có chính sách đầu tư hạ tầng thoả đáng, nhất là ở vùng núi cao, vùng
22
sâu, vùng căn cứ kháng chiến: Nhà nước thiếu chính sách đồng bộ, ưu đãi,
khuyến khích sản xuất, tạo việc làm, thiếu y tế – văn hoá - giáo dục.
+ Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên, môi trường gây nên, đó là thời tiết
khí hậu khắc nghiệt thường bị thiên tai, bão, lũ lụt, sâu bệnh, hạn hán…, đất
đai canh tác cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa dư rộng, địa hình phức tạp, xa
xôi hẻo lánh, giao thông đi lại không thuận tiện, quan hệ thị trường chưa phát
triển, cơ sở hạ tầng thiếu, kém.
+ Nguyên nhân do rủi ro gây nên: Trong gia đình có người bị ốm đau lâu
ngày, tai nạn, tàn tật, sản xuất bị thất thu…đây là nguyên nhân khách quan mà
gia đình gặp phải.
+ Nguyên nhân do tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu chè,…) chủ hộ hoặc trong
gia đình có người mắc phải, người mắc không những không tham gia hoặc
tham gia ít vào làm ra của cải vật chất cho gia đình và xã hội mà còn bán tài
sản, nhà cửa, thậm chí còn bán cả ruộng đất. Đây là nguyên nhân khó xử lý
nhất.
+ Nguyên nhân do tàn phá của chiến tranh để lại.
Nói chung các nhóm nguyên nhân trên thường đan xen, quan hệ nhân
quả với nhau, làm cho tình trạng đói nghèo trong từng vùng càng thêm trầm
trọng và gay gắt.
Về thực trạng đói nghèo có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản là:
* Tình trạng đói nghèo ở Việt Nam phần lớn tập trung ở nông thôn và
thường rơi vào nhóm gia đình làm thuần nông độc canh lúa và tự cung tự cấp,
ruộng đất ít, thiếu việc làm nghiêm trọng, việc làm kém hiệu quả, thu nhập
quá thấp, không có khả năng tích luỹ để tái sản xuất giản đơn, chịu nhiều
thiếu thốn trong cuộc sống.
* Đói nghèo do hậu quả trực tiếp, thường xuyên của thiên tai gây mất
mùa (hàng năm có hơn 10 cơn bão lớn đi qua) và hậu quả chiến tranh, môi
trường bị phá hoại nặng nề; của điều kiện địa lý bất lợi (kinh tế thị trường ở
đó chưa phát triển); của điều kiện lịch sử phát triển không đều.
* Mặc dù số hộ đói nghèo ở Việt Nam còn lớn, song về cơ bản đa số các
hộ vẫn còn tư liệu sản xuất (trước hết là đất). Do là điều kiện cực kỳ quan
trọng để thực hiện hiệu quả chính sách xoá đói giảm nghèo. Nhà nước đã có
23
chính sách về vay vốn, hỗ trợ khuyến nông, dạy nghề, kinh nghiệm làm ăn để
hộ nghèo có cơ hội tự mình vươn lên thoát khỏi tình trạng đói nghèo.
Điều thuận lợi hơn nữa là cơ sở chính quyền, cấp, uỷ, đoàn thể và cộng
đồng thường xuyên chăm lo người đói nghèo.
4. Ảnh hưởng của đói nghèo và sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo.
a. Đói nghèo với tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định. Tăng trưởng kinh tế thường được đánh giá bằng chỉ tieu
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Hai chỉ
tiêu này đều phản ánh toàn bộ giá trị sản phẩm cuối cùng và dịch vụ do các
hoạt động của nền kinh tế tạo ra, chúng chỉ khác nhau về phạm vi tính toán.
Đói nghèo có ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tăng trưởng kinh tế. Đói
nghèo vừa làm giảm mức thu nhập quốc dân, vừa làm giảm tích luỹ vì phải
tăng các khoản chi về mặt xã hội. Xét về tuyệt đối, mức thu nhập của người
nghèo luôn ở mức thấp hơn mức trung bình của xã hội, vì vậy tỷ lệ đói nghèo
càng cao, càng ảnh hưởng nhiều tới mức thu nhập trong nước. Để tăng trưởng
kinh tế, mỗi quốc gia phải có thu nhập và thu nhập đó ngày càng phải tăng lên
để có tích luỹ cho giai đoạn sau:
Đói nghèo còn ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế qua việc các quốc gia
phải đầu tư nguồn vốn vào việc trợ cấp xã hội cho dân số đói nghèo. Ngoài ra,
đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo như Việt Nam,
do cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, thấp kém và thiếu thốn, tỷ lệ dân đói nghèo còn
cao cho nên Nhà nước phải chi khoản ngân sách khá lớn để đầu tư cho xây
dựng cơ sở hạ tầng như y tế, giáo dục và các loại phúc lợi xã hội khác. Nguồn
vốn tích luỹ cho mục tiêu phát triển sẽ bị hạn chế, dẫn tới đầu tư trực tiếp cho
khu vực sản xuất thấp, hậu quả là sản xuất tăng chậm. Vấn đề này càng được
thể hiện rõ hơn trong bối cảnh hiện nay, do khủng hoảng tài chính tiền tệ
trong khu vực và thế giới trầm trọng, có xu hướng kéo dài sẽ làm giảm nguồn
đầu tư nước ngoài. Điều này sẽ dẫn đến việc mọi nỗ lực nhằm gia tăng vốn
đầu tư của nền kinh tế để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh sẽ lại càng khó khăn
hơn.
Để tăng trưởng kinh tế, các nhà khoa học còn nhận thấy cùng một sự đầu
tư trang bị kỹ thuật và công nghệ như nhau, nhưng ở nước nào có trình độ văn
24
hoá trong nhân dân cao hơn sẽ đưa lại năng suất lao động cao hơn và sự tăng
trưởng cao hơn. Điều đó đã cho thấy nhân tố con người có ảnh hưởng rất lớn
đối với sự tăng trưởng kinh tế. Để đạt được sự tăng trưởng cao, thì phải có
đầu tư cao trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và phải có thời gian, điều này sẽ rất
khó khăn đối với người nghèo bởi lẽ khi đã đói nghèo thì việc tiếp cận các
dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế…bị hạn chế, kết quả người nghèo thường là
thất học, trình độ văn hoá bị hạn chế, sức khoẻ không đảm bảo. Mặt khác đói
nghèo thường đi đôi với năng suất lao động thấp do lao động thường bị giản
đơn, thủ công, ít có điều kiện để trau dồi kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động sản
xuất. Đây cũng là hạn chế rất lớn của đói nghèo đối với tăng trưởng kinh tế.
b. Đói nghèo với chất lượng nguồn nhân lực.
Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của
mỗi quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò con người trong sự phát triển. Con
người vừa là động lực vừa là mục tiêu mà nếu thiếu một trong hai điều kiện
đó sẽ không có sự phát triển. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phát huy được vai trò
của nó không phải ở ưu thế về số lượng mà ở chất lượng. Bởi lẽ nguồn nhân
lực quy mô lớn trong khi đó chất lượng thấp thì nó lại trở thành nhân tố hạn
chế sự phát triển. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là thường
xuyên chăm lo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu,
trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu gồm:
- Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khẻo
- Trình độ văn hoá của người lao động
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật
- Chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện thông qua chỉ số phát
triển con người HDH. Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người
về mặt kinh tế mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống. Và sự công
bằng, tiến bộ xã hội.
- Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hoá được như trên, người ta còn xem
xét chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động. Chỉ tiêu này phản ánh
mặt định tính mà có thể định lượng được. Nội dung của chỉ tiêu này được
25