M U
Để thực hiện mục tiêu tiến nhanh và chắc lên nền lên nền sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa và để phù hợp với xu hớng kinh tế toàn cầu trong thời đại
mới, đất nớc Việt Nam đã và đang tiếp tục quá trình chuyển đổi nền kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng. Cơ chế kế hoạch
hoá tập trung với tính chất quan liêu, bao cấp đã phủ nhận các quy luạt
kinh tế khách quan nên đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
trong một thời gian dài. Khi chuyển sang cơ chế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa, các hoạt động kinh tế không bị ràng buộc bởi các hàng rào kế
hoạch hoá pháp lệnh, sự vận động của nền kinh tế tuân theo các quy luật
kinh tế khách quan: quy luật kinh tế thị trờng. Sự chuyển đổi đó đã ảnh hởng tới các quan hệ sản xuất, phân phối bên trong nền kinh tế Việt Nam,
trong đó có phạm trù tài chính.
Toàn nhân loại đang bớc vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của khoa
học kỹ thuật, của nền kinh tế tri thức, của sự giao lu và hội nhập về các mặt
của đời sống xã hội, trong đó có kinh tế. Việt Nam là một thành viên của
nền kinh tế thế giới, nên cũng chịu ảnh hởng sâu sắc của xu hớng toàn cầu
hoá. Do đó, việc xây dựng một nền tài chính tích cực, năng động, có hiệu
quả và giao lu tài chính quốc tế mở rộng là hết sức quan trọng và cần thiết
để đa đất nớc tiến nhanh, tiến mạnh trên con đờng lên chủ nghĩa cộng sản.
Để thực hiện đợc việc xây dựng một nền tài chính ổn định, vững mạnh
và phù hợp với hoàn cảnh cũng nh định hớng của quốc gia thì vấn đề tìm
hiểu và nhận thức đúng cơ sở lý luận của tài chính trong kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, mở đờng cho việc đề ra các
quan điểm và chính sách để Nhà nớc sử dụng các công cụ tài chính vào
việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, cũng nh xây dựng một nền tài chính tích
cực, hội nhập vào nền tài chính quốc tế.
Bài tiểu luận này đợcthực hiện dới sự hớng dẫn của GS.TS Phạm quang
Phan. Do đó, em xin chân thành cảm ơn GS.TS.
nội dung
I.Bản chất và chức năng
1. Bn cht ca ti chớnh.
Vic xỏc nh ỳng bn cht ca ti chớnh cú ý ngha khỏ quan trng, to
c s cho vic phõn bit phm trự ny vi phm trự khỏc, giỳp cho vic s
dng tt phm trự ti chớnh trong phỏt trin kinh t - xó hi.
Trờn b mt ca hin tng xó hi, ti chớnh c cm nhn nh nhng
ngun lc ti chớnh, nhng qu tin t khỏc nhau, i din cho nhng sc
mua nht nh ca cỏc ch th trong xó hi. Hn th na, núi n ti chớnh
ngi ta khụng ch thy tin t trng thỏi tnh, m thy nhng lng tin
t nht nh ang vn ng to nờn nhng th nng v sc mua hay
chuyn th nng ú thnh hin thc. Cú th thy rt rừ nhng biu hin b
ngoi ca ti chớnh liờn quan n dõn c, cỏc doanh nghip, cỏc t chc xó
hi v nh nc : dõn c, doanh nghip np thu cho nh nc ; dõn c
mua c phiu, trỏi phiu, tớn phiu ca cỏc doanh nghip, ca ngõn hng,
ca kho bc nh nc, ngi lm cụngv cỏc doanh nghip np tin vo
qu bo him xó hi, mua bo him ri ro ( np phớ bo him ) ; nh nc
cp phỏt tựe ngõn sỏch ca mỡnh cho cỏc trng hc, bnh vin cụng, ti tr
cho vic nghiờn cu khoa hc,
nhng hin tng trờn, cú th thy tin t xut hin khụng phi trc
ht vi chc nng thc o giỏ tr, m trc ht vi thc o thanh toỏn chi
tr v phng tin ct tr - tin t xut hin i din cho mt lng giỏ tr,
c trng cho mt th nng ca sc mua nht nh. Nh vy, trong cỏc hin
tng gi l ti chớnh cú th thy s xut hin ca nhng ngun lc - ngun
ti lc (hay ngun ti chớnh ). Trong xó hi cú sn xut hng hoỏ, cỏc ch
th trong xó hi luụn gp phi vn s dng cỏc ngun nhõn lc, vt lc,
ti lc hin cú trong tay mỡnh mt cỏch hiu qu cao. Trong nn kinh t th
trng, mi ch th trong xó hi khi ó nm trong tay nhng ngun ti lc
nht nh l ó nm trong tay mt sc mua cú th nm c nhng
ngun vt lc hay s dng c nhng ngun nhõn lc nht nh, phc
v cho mc ớch tớch lu hay tiờu dựng.
Trong thc t, ngun ti chớnh c núi n di nhiu tờn gi : vn tin
t, vn bng tin, tin vn v nhng tờn gi riờng rong cỏc trng hp c
th : vn trong dõn, vn tớn dng, vn ngõn sỏch,
S khỏi quỏt hoỏ thc t ú cho phộp xỏc nh : ngun ti chớnh l mt
khớa cnh, l yu t c bn trong khỏi nim ti chớnh. Ngun ti chớnh l
tin t khụng phi ch yu vi t cỏch vt ngang giỏ chung, khụng phi ch
yu vi chc nng c trng l thc o giỏ tr m trc ht l tin t ang
v ng c lp vi chc nng ch yu l phng tin thanh toỏn v
phng tin ct tr trong quỏ trỡnh phõn phi to lp v s dng cỏc qu
tin t. S vn ng ca ngun ti chớnh phn ỏnh s vn ng ca nhng
lượng giá trị nhất định. Những lượng giá trị này phản ánh những bộ phận
của của cải xã hội. Sự vận động độc lập tương đối của của cải xã hội dưới
hình thức tiền tệ đã hình thành một lĩnh vực đặc biệt – lĩnh vực tài chính.
Trong điều kiện sản xuất hàng hoá - tiền tệ, khâu phân phối của quá trình
tái sản xuất luôn luôn và trước hết được thực hiện dưới hình thức giá trị
bằng con đường t¹o lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Những quỹ vạt tư, hàng
hoá cho các mục đích tích luỹ hay tiêu dùng, đều được hình thành sau khi
tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ - một đặc trưng quan trọng của tài chính.
Các quỹ tiền tệ bao giờ còng thể hiện tính mục đích của nguồn tài chính.
Đây là tiêu thức chính của cá quỹ tiền tệ. Nói một cách khác, các quỹ tiền tệ
là một lượng nhất định nguồn lực tài chính được dành cho một mục đích
nhất đinh. Ví dụ : ngân sách Nhà nước là quỹ tiền tệ đặc biệt của Nhà nước
để phục vụ việc thực hiện các chức năng của Nhà nước ; vốn điều lệ của
doanh nghiệp - một loại quỹ tiền tÖ đặc biÖt của các doanh nghiệp để phục
vụ cho các hoạt động kinh doanh ; quỹ khấu hao tài sản cố định trong các
doanh nghiệp để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định trong các doanh
nghiệp ; ngân sách gia đình - quỹ tiền tệ để phục vụ mục đích tiêu dùng của
mỗi gia đình…
Tất cả các quỹ tiền tệ đều vận động thường xuyên tức là chúng luôn luôn
được tạo lập (hoặc bổ sung ) và được sử dụng. Là một dạng khác của sự vận
động đó và nhằm các mục đích cụ thể nào đó, các quỹ lớn được chia thành
các quỹ nhỏ hơn hoặc có thể được khuyếch trương nhờ tập trung các quỹ
nhỏ tương ứng. Ví dụ : Ngân sách Nhà nước được chia thành quỹ chi tiêu
thường xuyên và chi cho phát triển ; quỹ chi tiêu thường xuyên đó lại được
chia thành quỹ cấp phát cho quản lý hành chính, quốc phòng, an ninh, văn
hoá, xã hội,… Các quỹ tập trung của các tổ chức, tổng công ty, liên hiệp xí
nghiệp được tạo nên từ các quỹ tương ứng của các xí nghiệp trực thuộc
hạch toán kinh tế độc lập… Phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục đích sử
dụng cuối cùng – tích luỹ hay tiêu dùng. Tuy nhiên, với sự vận động phức
tạp trong nền kinh tế thị trường, có cả những quỹ tiền tệ trung gian như quỹ
kinh doanh của các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính và sử dụng có
thời hạn cho việc hình thành các quỹ tiền tệ có mục đích cuối cùng khác.
Sự phát triển kinh tế thị trường làm nảy sinh cả thị trường tài chính và
làm cho việc tạo lập các quỹ tiền tệ ttrong xã hội có thể trực tiếp và cũng có
thể gián tiếp thông qua thị trường tài chính.
Sự tạo lập các quỹ tiền tệ, dù dưới hình thức nào, cũng đặc trưng cho sự
tích góp của các nguồn lực tài chính ở những chủ thể trong xã hội ; sự tích
góp đó phản ánh kết quả của các quá trình phân phối, mà các quá trình đó
chịu sự chi phối của quyền sở hữu - một yếu tố cơ bản của quan hệ sản xuất
rất đa dạng trong xã hội. Việc sử dụng các quỹ tiền tệ cũng phụ thuộc vào
quan hệ sở hữu, đồng thời, phụ thuộc tính môch đích của quỹ tiền tệ cũng
như tuỳ thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của
người sở hữu trong việc phân phối. Như vậy, những hiện tượng bên ngoài,
sự vận động của các nguồn tài chính, sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
là thể hiện rõ các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị - một bộ phận
quan trọng của quan hệ kinh tế trong xã hội. Cũng như các quan hệ xã hội
trong phân phối dưới một thể chế chính trị nhất định, sự vận động của các
nguồn lực tài chính luôn thể hiện rõ việc giải quyết các quan hệ về lợi ích
kinh tế thông qua phân phối bị chi phối bởi các quan hệ sở hữu trong kinh
tế hoặc các quan hệ chính trị, xã hội.
Với sự phân tích như trên, có thể xác định bản chất tài chính trên những
khía cạnh :
1. Sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính để trực tiếp
(hay thông qua thị trường ) tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ như mặt
trực quan của tài chính.
2. Đằng sau những hiện tượng bề mặt đó là các quan hệ kinh tế trong
phân phối của cải xã hội dưới hình thức phân phối các nguồn tài chính.
3. Việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ là phương thức phân phối
đặc thù giúp phân biệt phạm trù tài chính với các phạm trù phân phối
khác như giá cả, tiền lương,…
Từ đó có thể xác định nội dung kinh tế của phạm trù tài chính : Tài chính
được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức
năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất tr÷ trong quá trình tạo lập
hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở các
chủ thể kinh tế - xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh
tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng
các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ hay tiêu dùng của các chñ
thể ( pháp nhân hay thể nhân ) trong xã hội.
Về bản chất của tài chính :
1. Tài chính không phải là bản thân tiền tệ mà là quan hệ kinh tế biểu
hiện dưới hình thức tiền tệ. Cần phân biệt giữa tài chính và tiền tệ.
Trong đời sống thực tế, thật khó phân biệt tài chính và tiền tệ. Trong
trừu tượng hoá khoa học, tài chính rất gắn với tiền tệ, song chúng vẫn là
những phạm trù khác nhau. Tiền tệ, về bản chất là vật ngang giá chung
trong trao đổi với nhũng chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu
thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ. Tài chính không phải
là tiền tệ với bản chất và chức năng như vậy, mà là phương thức vận
động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng thanh toán và phương
tiện cất trữ của nó, mà tính đặc trưng riêng có của nó trong lĩnh vực phân
phối là tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau cho các mục đích
tích luỹ hay tiêu dùng khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, tài
chính còng chịu sự chi phối của các quy luật của thị trường và có liên hệ
chặt chẽ với thị trường tài chính.
2. Tài chính không phải toàn bộ các quan hệ kinh tế nói chung mà chỉ
bao gồm những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối hay
là quan hệ phân phối. Nhưng tài chính không phải là toàn bộ các quan hê
phân phối mà chỉ bao gồm những quan hệ phân phối trong việc tạo lập và
sử dụng các quỹ tiền tệ. Cần phải phân biệt phạm trù tài chính với hai
phạm trù giá cả và tiền lương.
Giá cả là một phạm trù liên quan đến phân phối dưới hình thức giá trị.
Nhưng sự phân phối dưới hình thức giá trị thông qua giá cả được tiến
hành thông qua sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả trong trao đổi hàng
hoá. Khi trao đổi không ngang giá do giá cả cao hoặc thấp hơn giá trị
hàng hoá thì cũng xảy ra sự chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ
thể khác nhưng gắn liền với hoạt động trao đổi. Còn tài chính là phạm trù
phân phối phản ánh sự chuyển dịch giá trị - sự vận động độc lập tương
đối của giá trị - thông qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ ( kể cả
thực hiện việc đó thông qua thị trường tài chính ).
Tiền lương cũng là một phạm trù phân phối. Tiền lương là một hình
thức phân phối gắn liền với quá trình lao động theo nguyên tắc phân phối
theo lao động. Tiền lương muốn được thực hiện, tức là trả lương, phải
thông qua tài chính - sự vận động độc lập của giá trị với sự hình thành
quỹ tiền lương trong các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội hay cơ quan
Nhà nước. Tiền lương đã được trả cho người lao động với biểu hiện một
số tiền nhất định cũng là một bộ phận của nguồn tài chính hình thành nên
ngân sách gia đình, tài chính của dân cư. Vì thế tiền lương và tài chính là
hai phạm trù gắn bó chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn trùng
nhau và có sự khác nhau. Trong lĩnh vực bù đắp sức lao động, tài chính
là phương tiện để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
3. Tài chính là phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hoá và sự vận
động của tài chính chịu sự tác động chi phối của cơ chế thị trường với
những quy luật nội tại của sản xuất hàng hoá.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, từ cơ chế tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, đã kéo
theo sự đổi mới căn bản trong lĩnh vực tài chính cả về nhận thức bản chất
của tài chính với tư cách là phạm trù kinh tế, lẫn hoạt động tài chính với
tư cách là công cụ điều tiết vĩ mô.
Tài chính trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ, chịu sự tác
động và ảnh hưởng nặng nề của tính chất đơn nhất hoá Nhà nước, nhận
thức quan niệm về bản chất, chức năng, vai trò vị trí của tài chính bị gắn
chặt vào tính chất Nhà nước, bị bó hẹp phạm vi trong các hoạt động kinh
tế của khu vực có tầm bao quát của Nhà nước. Vì thế đã dẫn đến nhận
thức cho rằng tài chính chỉ là các quan hệ phân phối nảy sinh trong các
quá trình phân chia tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân hình
thành các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung. Quan niệm về hệ
thống tài chính theo hình thức phân chia thành tài chính tập trung và tài
chính phi tập trung đã toát lên hình ảnh của hệ thống tài chính gắn chặt
vào hệ thống Nhà nước, tách rời với sự vận động của các quy luật kinh tế
diễn ra ở cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Do đó, giá trị của cải
xã hội và tài sản quốc gia trở nên nằm ngoài phạm vi phân phối của tài
chính. Vai trò của tài chính thụ động trong việc thực hiện các mệnh lệnh
hnh chớnh ca Nh nc, cỏc cụng c hnh chớnh b xp vo hng th
yu, thm chớ b lóng quờn khi Nh nc thc hin qun lý nn kinh t xó hi. S vn ng ca cỏc mi quan h phõn phi ca ti chớnh hỡnh
thnh nờn cỏc qu tin t thng khụng tuõn th s vn ng khỏch quan
ca cỏc quy lut giỏ tr, trỏi li nú ph thuc v b khộp li trong gii hn
cỏc mnh lnh hnh chớnh v ch tiờu k hoch.
Chuyn sang c ch kinh t th trng, cỏc hot ng kinh t khụng
b rng buc bi cỏc hng ro k hoch hoỏ phỏp lnh, s vn ng ca
cỏc qu tin t tr nờn a dng, vai trũ v tớnh cht Nh nc hoỏ ó
c dung ho bi tớnh cht xó hi hoỏ, di nhiu hỡnh thc s hu,
hot động kinh t din ra mi lnh vc theo s vn ng ca cỏc quy
lut th trng tỏc ng n cỏc quỏ trỡnh chu chuyn cỏc ngun lc ti
chớnh. Trong nn kinh t th trng, ngun ti chớnh khụng ch bao gm
giỏ tr tng sn phm xó hi, m cũn giỏ tr ca ti sn quc gia. Vỡ vy,
lnh vc ti chớnh khụng bú hp trong phm vi phõn phi tng sn phm
xó hi v thu nhp quc dõn, m c m rng trong quỏ trỡnh phõn phi
giỏ tr di hỡnh thc ca ci xó hi v ti sn quc gia. Nu nh trc
õy cỏc doanh nghip Nh nc hot ng di s cp phỏt vn khụng
hon tr li ca Nh nc v nu thua l thỡ li c Ngõn sỏch Nh
nc bự l, thỡ nay trong c ch th trng cỏc doanh nghip phi t lo
liu cỏc hot ng sn xut kinh doanh ca mỡnh t vic u t vn, t
chc kinh doanh n tiờu th sn phm. Do ú, ti chớnh ng thi va l
phng tin va l mc ớch ca cỏc hnh vi kinh t.
2. Chức năng ca ti chớnh
Bản chất ca tài chính còn đợc thể hiện qua các chức năng của nó. Do đó
để hiểu rõ hơn về bản chất của tài chính cần phải tìm hiểu về các chức năng
của tài chính..
Nói đến chức năng của tài chính là nói đến khả năng khách quan phát
huy tác dụng xã hội của nó. Trong đời sống xã hội tài chính có hai chức
năng: phân phối và giám đốc
Chức năng phân phối
Chức năng phân phối là cái vốn có, nằm sẵn trong phạm trù tài chính và
biểu hiện bản chất của tài chính trong đời sống kinh tế xã hội khi phân phối
của cải vật chất dới hình thức giá trị. Chính nhờ vào chức năng này mà các
nguồn lực đại diện cho các bộ phận của cải xã hội đợc đa vào những mục
đích sử dụng khác nhau, đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi
ích khác nhau của đời sống xã hội.
Đối tợng phân phối ở đây là của cải xã hội dới hình thức giá trị, là các
nguồn tài chính, là tiền tệ đang vận động một cách độc lập với t cách phơng
tiện thanh toán và phơng tiện cất trữ trong quá trình tạo lập và sử dụng các
quỹ tiền tệ.
Chủ thể phân phối có thể khác nhau : Nhà nớc ( các cơ quan và tổ chức
của nó ), các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, hộ gia đình hay cá nhân dân
c. Việc phân phối các nguồn tài chính bị chi phối bởi quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng của các chủ thể đối với các nguồn tài chính trong lĩnh vực
kinh tế, hoặc bởi các quan hệ xã hội nh quyền lực chính trị của Nhà nớc,
quan hệ xã hội trong các tổ chức xã hội, trong cộng đồng dân tộc và quốc
tế.
Kết quả của quá trình phân phối bằng việc sử dụng công cụ tài chính là
sự hình thành và sử dụng những thế năng về sức mua nhất định dới dạng
các quỹ tiền tệ dành cho một mục đích nhất định tích luỹ hoặc tiêu dùng
ở các chủ thể trong xã hội.
Đối tợng phân phối của tài chính là tổng thể các nguồn tài chính có trong
xã hội. Hơn nữa, các nguồn tài chính trong nớc không chỉ bao hàm các
nguồn tài chính dới hình thức tiền dân tộc, tiền giấy mà còn bao hàm cả
hình thức tiền tệ lịch sử của nó là vàng với chức năng phơng tiện cất trữ hay
tiền tệ thế giới. Trong điều kiện nền kinh tế mở và sự quốc tế hoá đời sống
kinh tế, các nguồn tài chính hiện có trong nớc bao gồm cả các nguồn tài
chính khác vào hình thức ngoại tệ do quan hệ kinh tế tài chính đối ngoại
đợc sử dụng ở trong nớc.
Phân phối của tài chính, nh đã biết, mang đặc điểm chủ yếu là luôn luôn
gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Cùng với
đặc điểm đó, phân phối của tài chính còn mang những đặc điểm sau:
- Phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dới hình thức giá trị,
nó không kèm theo với sự thay đổi hình thái giá trị. Nói khác đi, phân phối
của tài chính là sự phân phối dới hình thức giá trị, không đi kèm sự vận
động ngợc chiều của hai hình thái giá trị nh trong mua bán hàng hoá.
Thông qua chức năng phân phối của tài chính, các quỹ tiền tệ đợc hình
thành hoặc đợc sử dụng, nhng chính trong các quá trình đó, bản chất của
tài chính phân phối dới hình thức giá trị vẫn không thay đổi. Các quỹ
tiền tệ đợc hình thành, đợc khuyếch trơng, đợc sử dụng, đợc chia nhỏ vì
những mục đích, theo tác dụng hẹp hơn hay rộng hơn nhng đó vẫn là một
quá trình phân phối với sự vận động của các nguồn tài chính. Trong mối
quan hệ kế tiếp giữa lĩnh vực phân phối và trao đổi, hay phân phối và tiêu
dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội, sự phân phối của tài chính diễn ra
ở chính ngay điểm tiếp giáp của các lĩnh vực đó. Đó là khi việc thanh toán
tiền mua, bán hàng hoá hay dịch vụ đợc thực hiện và việc đó biểu lộ việc sử
dụng hay hình thành các quỹ tiền tệ khác nhau.
- Phân phối của tài chính bao gồm cả quá trình phân phối lần đầu ( giữa
những ngời tạo ra sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân ) và quá trình phân
phối lại, trong đó bao trùm rộng lớn có tính đặc trng là phân phối lại.
Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là sự phân phối đợc tiến hành trong
lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của
cải vật chất hay thực hiện các dịch vụ. Phân phối lần đầu đợc thực hiện trớc
hết và chủ yếu trong các khâu cơ sở của hệ thống tài chính. Trong phân
phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội trong khu vực sản xuất sẽ hình thành
những bộ phận của các quỹ tiền tệ nh sau :
+ Một phần để bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình
sản xuất, tiến hành dịch vụ. Phần này hình thành quỹ khấu hao tài sản cố
định và quỹ bù đắp ( khôi phục lại ) vốn lu động đã ứng ra.
+ Một phần hình thành quỹ tiền lơng để trả lơng cho ngời lao động.
+ Một phần góp vào hình thành các quỹ bảo hiểm: bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm rủi ro.
+ Một phần là thu nhập cho các chủ sở hữu về vốn hay tài nguyên : cho
các cổ đông nắm giữ cổ phần ( bao gồm cả phần tập trung vào ngân sách
nhà nớc do cổ phần nhà nớc hay do ngời đại điện cho quyền sở hữu toàn
dân đối với các nguồn tài nguyên ) hoặc cho các trái chủ, các ngân hàng
đã cho các doanh nghiệp hay những ngời sản xuất kinh doanh vay vốn.
Nh vậy, thông qua phân phối lần u sn phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân đới hình thức giá trị chỉ mới hình thành nên những những phần thu
nhập cơ bản. Dừng lại ở đó cha thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của toàn xã
hội. Do đó nảy sinh nhu cầu khách quan của xã hội đối với tái phân phối
( phân phối lại ).
- Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, sử
dụng những quỹ tiền tệ chứa đựng những nguồn lực tài chính đã đợc hình
thành trong phân phối lần đầu ra phạm vi xã hội rộng hơn hoặc theo nhng
chi tiết cụ thể hơn trong mục đích của các quỹ tiền tệ. Sự chuyên môn hoá
và phân công lao động xã hội trong khu vực sản xuất vật chất và sự tồn tại
và phát triển của khu vực không sản xuất vật chất đã ràng buộc quy mô
rộng lớn của quá trình phân phối lại của cải xã hội dới hình thức giá trị.
Bản thân quá trình sử dụng các quỹ tiền tệ đã đặc trng hoàn toàn là quá
trình phân phối lạ, bên cạnh đó sự hình thành hàng lot quỹ tiền tệ mới
cũng mang lại nhiều đặc trng đó. Vì thế tính chất phân phối lại là tính chất
chủ yếu bao trùm của chức năng phân phối của tài chính.
Chức năng giám đốc của tài chính
Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra,
giám đốc băng đồng tiền với việc sử dụng chức năng thớc đo giá trị và phơng
tiện thanh toán của tiền tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực
hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dới dạng: xem xét tính
cần thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc
phân phối qua các quỹ tiền tệ ( tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ ).
Chủ thể của giám đốc, kiểm tra cũng là các chủ thể phân phối. Đối tợng
kim tra ở đây là các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, các quá
trình vận động của các nguồn tài chính. Đó cũng là đối tợng của chức năng
phân phối. Kết quả của kiểm tra là phát hiện và giúp cho việc hiệu chỉnh các
quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải xã hội
dới hình thức giá trị theo tính mục tiờu đợc đặt ra theo yêu cầu hiệu quả của
việc sử dụng các quỹ tiền tệ.
Vì các nguồn tài chính là của cải dới hình thức giá trị nên kiểm tra, giám
đốc tài chính là kiểm tra, giám đốc bằng tiền. Chức năng giám đốc của tài
chính là chức năng mà nhờ vào đó có thể kiểm tra quá trình vận động của các
nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo những mục
đích đã định. Chức năng giám đốc của tài chính luôn luôn gắn liền với chức
năng phân phối. Ngay trong quá trình phân phối băng việc sử dụng tài chính
quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập, để sử dụngcác quỹ
tiền tệ - đã luôn có sự cần thiết và khả năng kiểm tra sát sao các quá trình đó.
Chẳng hạn, trong khi hình thành Ngân sách Nhà nớc, cần thiết và có khả
năng kiểm tra việc nộp thuế của mỗi doanh nghiệp, mỗi công dân có nghĩa vụ
nộp đúng, nộp đủ, kịp thời tiền thuế theo các luật thuế không. Trong khi cấp
phát kinh phí ngân sách cho các cơ quan sự nghiệp y tế, văn hoá, giáo dục,
đào tạo, cần thiết và có thể kiểm tra tính cần thiết, đúng đắn của việc cấp số
kinh phí đó, tính đúng đắn, hợp lý của việc sử dụng số kinh phí đợc cấp phát.
Hoặc là, trong khi góp vốn để tạo vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ phần,
cần thiết và có thể kiểm tra tính luận cứ, tính hiệu quả của phơng án tổ chức
và kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm tra tính đầy đủ, kịp thời của việc góp
vốn theo điều lệ Khi nói đến chức năng giám đốc của tài chính, cần phải nói
đến tính chất, đặc điểm của nó.
Thứ nhất, giám đốc tài chính nh một chức năng của tài chính, không đồng
nhất với mọi khả năng giám đốc bằng đồng tiền khác. Giám đốc tài chính là
khả năng giám đốc khi sử dụng tài chính nh một công cụ phân phối, tức là khi
tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ, khi diễn ra các quá trình vận động của
nguồn tài chính của tiền tệ với chức năng chủ yếu là phơng tiện thanh toán
và phơng tiện cất trữ.
Thứ hai, trong điều kiện kinh tế thị trờng, sự vận động tơng đối độc lập của
các nguồn tài chính luôn là điều kiện tiền đề cho các hoạt động kinh tế xã hội.
Do đó, giám đốc tài chính, nh một chức năng của phạm trù kinh tế, là một khả
năng có tính toán diện, thờng xuyên, liên tục, rộng rãi, kịp thời trong khi tài
chính đợc con ngời sử dụng nh một công cụ, biện pháp tài chính.
Nhận thức đợc chức năng kiểm tra, giám đốc - một khả năng khách quan
của tài chính con ngời, các chủ thể kinh tế xã hội vận dụng và tổ chức
công tác kiểm tra, thanh tra tài chính trong thực tiễn. Công tác này có ý nghĩa
khá quan trọng. Công tác kiểm tra tài chính có thể diễn ra đồng thời với công
tác phân phối công việc tổ chức sự vận động của các nguồn tài chính để tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ và cũng có thể diễn ra một cách độc lập tơng
đối không đi liền ngay với hoạt động phân phối.
Việc phân định các chức năng của tài chính là quá trình nhận thức chủ quan
của con ngời về các khả năng khách quan phát huy tác dụng xã hội của phạm
trù kinh tế. Việc nhận thức chủ quan đó không tránh khỏi đa đến những sự
khái quát khác nhau những ý kiến khác nhau về các chức năng của tài
chính. Có ý kiến cho rằng tài chính còn có chức năng tổ chức chu chuyển vốn.
Tuy nhiên nội dung của chức năng phân phối đẫ bao trùm việc tổ chức chu
chuyển vố, không cần tách rời nó là một chức năng độc lập của tài chính. Lại
có ý kiến cho rằng tài chính còn có chức năng kích thích kinh tế và có ý kiến
về chức năng điều tiết hoạt động kinh tế xã hội của tài chính. Tuy nhiên đó là
kết quả tổng hợp của việc vận dụng chức năng phân phối và chức năng giám
đốc của tài chính.
Tóm lại, tài chính có hai chức năng phân phối và giám đốc gắn chặt với
nhau, không thể có chức năng này mà thiếu chức năng kia và ngợc lại.
3. Vai trũ ca ti chớnh trong iu chnh v mụ.
Xut phỏt t tớnh cht v c im ca ti chớnh l va gn lin vi tớnh
cht v c im ca Nh nc li va ny sinh t kinh t hng hoỏ nờn trong
iu hnh v mụ, nú cú 2 vai trũ c bn :
a. Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Trước hết, Nhà nước thông qua quan hệ tài chính để xây dựng một chính
sách tài chính quốc gia có tính chiến lược, thể hiện ở các mặt sau :
Thứ nhất : Thông qua các quan hệ tài chính cho phép để tạo vốn, huy đọng
vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả các nguồn tài nguyên và giá trị tài
sản quốc gia. Của cải quốc gia xét về mặt hiện vật như máy móc thiết bị, dây
chuyền công nghệ có thể vẫn hoạt động ở một chỗ cố định… trái lại, xÐt về
mặt tiền tệ của mọi của cải thì nó có thể tuần hoàn di động nhanh hơn, linh
hoạt hơn, tạo ra những khả năng mới to lớn hơn thông qua quỹ khấu hao, quỹ
bảo hiểm, quỹ cổ phần v.v… Chẳng hạn thiết bị máy móc nhà máy xi măng A
vẫn hoạt động ở địa điểm A. Nhưng vốn bằng tiền của thiết bị máy móc thông
qua quỹ khấu hao, quỹ bảo hiểm đã tái hiện lại dưới hình thức đổi mới tiên
tiến và hiện đại ở nhiều nơi khác. Nhà nước có thể thông qua tài chính để đầu
tư thiết bị Nhà máy ở tỉnh B, nhưng thông qua cổ phần hoá Nhà nước có thể
duy trì nhà máy cũ hoạt động và rút vốn ra xây dựng một nhà máy mới với
hai tác dụng :
- Gây áp lực cạnh tranh để thúc ®Èy nhà máy cũ, nhà máy tương tự phải
không ngừng vươn lên.
- Tạo lập những dây chuyền công nghệ mới, nhà máy mới ở địa điểm mới,
v.v…
Tóm lại, thông qua đầu tư của tài chính nhằm giữ thế cân bằng động cho
toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, thông qua công ty di chuyển và mới ra đời tạo
động lực cạnh tranh lành mạnh trong nề kinh tế. Nhà nước vừa là tài trợ cứu
nguy « những bàn thua trông thấy » cho một số xí nghiệp, nhà máy công ty cả
trong và ngoài kinh tế quốc doanh. Mặt khác, thông qua đầu tư tài chính mà
Nhà nước góp phần làm cho cạnh tranh luôn sống đọng và có tác dụng tích
cực. Có thể nói, thông qua quan hệ tài chính mà Nhà nước trở thành « nhà
buôn sỉ chính cống » không bao giờ phải phá sản.
Thứ hai : Thông qua chính sách tài chính quốc gia như tính ổn định tiền tệ,
tính sinh lãi của các bất động sản, của vốn nhàn rỗi, của các vị trí lợi thế so
sánh… mà làm cho mọi người dân có ý thức bảo vệ, sử dụng và đưa nhanh
các tài sản đó vào kinh doanh. Như vậy, nhờ chính sách sinh lợi của tài chính
mà biến bất động sản thành vốn kinh doanh, biến tiền nằm im thành tiền kinh
doanh v.v… Điều này ở nước ta đã thể hiện một phần ở mối liên hệ kinh
doanh với nước ngoài như : đất, đồi trọc, sông suối,… trở thành vốn kinh
doanh. Các lợi thế so sánh trở thành lực lượng kinh doanh, một số tư liệu sinh
hoạt ttrở thành vốn kinh doanh, chẳng hạn nhiều gia đình đã bỏ tiền ra tân
trang lại nhà ở, thu hẹp phòng ở của gia đình để biến nhà ở thành khách sạn
kinh doanh v.v…
Thứ ba : Tài chính góp phần điều hành thực hiện mục tiêu : tiết kiệm, tích
luỹ tăng vốn đầu tư đi đến tăng việc làm chống thất nghiệp và góp phần tăng
thu nhập, tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra chính sách tài chính còn có vai trò tích cực trong điều hành mục
tiêu chống lạm phát
b. Vai trò tài chính có trọng lượng trong điều hành cơ chế thị trường
đi theo các mục tiêu kinh tế - xã hội đã được xác định.
Tài chính vừa là công cụ để góp phần điều hành kinh tế vĩ mô, vừa là lĩnh
vực kinh tế hoạt động theo các yêu cầu của kinh tế. Chẳng hạn, trong kinh tế
thị trường thì tài chính vừa là người mua có trọng lượng, vừa là người bán có
vai trò quyết định điều hành thị trường để diều tiết vĩ mô.
Ví dụ, tài chính bỏ tiền ra mua thóc tăng dự trữ quốc gia. Việc làm đó có
hai tác dụng :
- Nhà nước là người mua chủ yếu cho nông dân, giữ giá nông sản, bảo vệ
lợi ích cho nông dân.
- Nhà nước là người bán lương thực chủ yếu để ổn định thị trường, chặn
đứng những cơn sốt gạo
Hay như trong các quan hệ giữ vững giá vàng và đôla có lúc đòi hỏi tài
chính phải tung quỹ dự trữ ra bán để giữ giá thị trường.
Như vậy, ta có thể đi đến kết luận :
- Nhà nước có vai trò quyết định trong việc điều hành kinh tế vĩ mô thực
hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội.
- Tài chính có vị trí 2 mặt :
+ Vừa là công cụ trọng yếu để Nhà nước điều hành vĩ mô có hiệu quả.
+ Vừa là sức mạnh với các quỹ tiền tệ hoạt động sinh lời, hoạt động theo
quy luật thông qua ngân sách Nhà nước, thuế, bảo hiểm, kho bạc với tư
cách người mua, người bán trong thị trường để thực hiện kiểm kê, kiểm
soát bằng đồng tiền.
II. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Sự cần thiết phải chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị
trường.
Sau khi miền Nam được giải phóng (1975), trong vòng 10 năm (19761985), mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà miền Bắc đã xây dựng
trước đây được áp dụng trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên trong điều kiện
mới, những nhược điểm của mô hình kinh tế này đã trở thành sức cản đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
trở nên gay gắt :
Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần
thứ hai và ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm
1976 – 1985 đều không đạt được, thậm chí tỷ lệ hoàn thành ở mức rất thấp :
7 chỉ tiêu đạt 50 – 80% so với kế hoạch, 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25 – 48%.
Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng :
nông nghiệp luôn chiếm xấp xỉ 50% trong cơ cấu thu nhập quốc dân ( năm
1976, nông nghiệp chiếm 44,8% ; năm 1980 là 51,9% ; năm 1985 là
47,8%). Sản xuất phát triển chậm, không tương ứng với sức lao động và
vốn đầu tư bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa
vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn.Trong 10 năm này, thu nhập quốc dân
sản xuất trong nước chỉ bằng 80 – 90% thu nhập quốc dân sử dụng. Toàn
bộ quỹ tích luỹ ( rất nhỏ bé ) và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào
nguồn nước ngoài. Năm 1985, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ rúp – USD. Cái
hố ngăn cách giữa nhu cầu và năng lự sản xuất ngày càng sâu.
Phân phối lưu thông bị rối ren. Thị trường, tài chính, tiền tệ không ổn
định. Ngân sách Nhà nước bị bội chi liên tục và ngày càng lớn. Từ năm
1976, trên phạm vi cả nước, lạm phát đã xuất hiện và ngày càng nghiêm
trọn, giá cả tăng nhanh, đặc biệt là sau đổi tiền ( tháng 9/1985 ), làm vô
hiệu hoá ngay tác dụng đổi tiền và làm rối loạn điều hành kinh tế của Nhà
nước trên bình diện vĩ mô và hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Tiêu cực và bất công xã hội
tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút.
Trước tình hình đó, việc sửa chữa những sai lầm chủ quan duy ý chí là
vô cùng cần thiết và phải được tiến hành càng sớm càng tốt. Thêm vào đó,
làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp ở các nước trên thế giới từ cuối thập
niên 70 đã tạo nên áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trong bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, Đại hội VI ( tháng
12/1986 ) của Đảng đã diễn ra, là một mốc lịch sử quan trọng trên con
đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta, trong đó có đổi mới kinh tế.
Đảng ta nêu rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
theo hướng « xoá bỏ cơ chÕ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ».
Chủ trương chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường của Đảng là hết sức đúng đắn. Bởi vì, phát
triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng , đặc biệt
là đối với nước ta, khi muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Mặc dù chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường nhưng để phù hợp
với con đường chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang đi, Đảng ta đã nhấn mạnh
nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế được thể hiện ở các mặt
sau : Thứ nhất, phát triển kinh tÕ hàng hoá, kinh tế thị trường với sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng các hình thức sở hữu và
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế Nhà nước
chiếm vai trò chủ đạo. Thứ hai, phát triển nền kinh tế hàng hoá vận động
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nuớc đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã héi. Thứ ba, xây dựng một nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường
hội nhập vào nền kinh tế thị trường khu vực và thÕ giới với nhiều hình thức
quan hệ và liên kết phong phú đa phương, đa dạng.
Với định hướng trên, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là: tạo ra sự phát triển năng ®éng,
hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm,
tăng tích luỹ và đầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao…để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước
nghèo và kém phát triển.
Theo mục tiêu đó, có thể xác định những đặc trưng bản chất của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Một là, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn kém phát triển. Kiểu tổ chức nền kinh tÕ
này nhằm nhanh chóng đưa nước ta đạt được mục tiêu «dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ».
Hai là, nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước và
kinh tế hîp tác phải giữ trở thành nền tảng và kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều vận đông theo định hướng chung và
theo khuôn khổ pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc
và quy luật của kinh tế hàng hoá, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế « mở » cả với bên trong và với bên ngoài. Tồn tại
trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội, hoạt động của cơ chế thị trường
không chỉ chịu sự tác động của các quy luật kinh tế hàng hoá nói chung, mà
còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù của các phương thức
sản xuất chủ đạo.
Ở nước ta phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo các yêu cầu sau : tăng trưởng kinh tế phải
gắn chặt với những tiến bộ về công bằng xã hội, thực hiện mục tiêu « mọi
lợi ích đều vì dân », giải phóng con người, phát triển toµn diện con người.
Phát triển kinh tế cao trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Thành phần kinh tế Nhà nước là chủ đạo,
cùng kinh tế hợp tác là nền tảng của kinh tế quốc dân. Kinh tế tư bản tư
nhân, cá thể phát triển theo sự quản lý của Nhà nước. Tính năng động của
cơ chế thị trường phải gắn với sự quản lý của Nhà nước. Đa dạng hoá các
hình thức phân phối, phân phối theo lao đọng ngày càng mở rộng và đóng
vai trò chi phối. Không ngừng đổi mới và hoàn thiện quan hệ giữa các
thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước, nhằm phát huy sức
mạnh tổng thể quốc gia. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo nguyên tắc
ngày càng tăng nhanh sức sống nội sinh của dân tộc, biến yếu tố ngoại sinh
thành yếu tố nội sinh.
Để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần
thực hiện những giải pháp sau : Một là, thực hiện nhất quán chính sách kinh
t nhiu thnh phn. Hai l, m rng phõn cụng lao ng, phõn b li lao
ng v dõn c trong phm vi c nc cng nh tng a phng, tng
vựng theo hng cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ. Ba l, to lp v phỏt trin
ng b cỏc yu t th trng. Bn l, y mnh cỏch mng khoa hc
cụng ngh, nhm phỏt trin kinh t theo hng cụng nghip hoỏ, hin i
hoỏ. Nm l, gi vng n nh chớnh tr, hon thin h thng phỏp lut, i
mi cỏc chớnh sỏch ti chớnh, tin t, giỏ c. Sỏu l, o to i ng cỏn b
qun lý kinh t v cỏc nh kinh doanh gii, phự hp vi yờu cu ca kinh t
hng hoỏ nh hng xó hi ch ngha. By l, m rng quan h kinh t i
ngoi phỏt trin kinh t hng hoỏ.
III. Cỏc cụng c ti chớnh trong iu chnh v mụ nn kinh t th
trng nh hng xó hi ch ngha.
1. Ngõn sỏch Nh nc.
a. Khỏi nim và vai trò của NSNN trong điều chỉnh vĩ mô.
Xung quanh khỏi nin ngõn sỏch cú nhiu quan im v ý kin nhng
phn ln cỏc quan iểm v ý kin u xoay quanh cỏc ni dung sau :
u cho ngõn sỏch l bng lit kờ cỏc khon chi tiờu v thu nhp ca
mt c quan, B, Nh nc trong mt thi gian nht nh. T nhng ý kin
ny ta cú th rỳt ra mt s nột c trng ca ngõn sỏch nh sau : Ngõn sỏch
l mt bng lit kờ, trong ú d kin v cho phộp thc hin cỏc khon thu,
chi bng tin ca mt ch th no ú (nh nc, B, xớ nghip, ).
Ngõn sỏch tn ti trong mt khong thi gian nht nh, thng l mt
nm. Nh vy v mt khỏi nim cú th hiu ngõn sỏch Nh nc ( NSNN )
l d toỏn thu chi bng tin ca Nh nc trong khong thi gian mt
nm. Nhng nhng khon thu, chi NSNN khỏc vi bt k hỡnh thc thu-chi
ca cỏc ch th khỏc. Mt mt, Nh nc da vo quyn lc ca mỡnh
huy ng úng gúp ca xó hi m bo hi ho gia li ớch kinh t ca Nh
nc v cỏc thnh viờn trong xó hi. Nu Nh nc huy ng quỏ cao thỡ
sn xut ỡnh tr, nn kinh t khụng phỏt trin, nu thp thỡ khụng ỏp ng
c nhu cu v ti chớnh thc hin chc nng qun lýv nn kinh t xó
hi ó c giao phú. Mt khỏc cỏc khon thu, chi do Nh nc ban hnh,
c thc hin bng lut phỏp v do lut nh ( v thu cú cỏc lut thu v
cỏc vn bn khỏc, v chi cú cỏc tiờu chun nh mc ) phc v trc tip
cho yờu cu thc hin chc nng ca Nh nc trong tng giai on lch s
nht nh. Nh vy mi c ch kinh t cú mt nột c thự riờng, t ú tỏc
ng v nh hng ca nú ti c ch, chớnh sỏch thu, chi NSNN cng khỏc
nhau.
NSNN l mt khõu rt quan trng trong h thng ti chớnh ca mi
nc, c c trng bng mt qu tin t gn lin vi vic thc hin chc
nng ca Nh nc, cơ quan chớnh quyn cỏc cp trong qun lý Nh nc
i vi cỏc hot ng kinh t - xó hi.
Trong iu kin ca nn kinh t th trng, Nh nc ta cn s dng
NSNN to hnh lang v mụi trng cho s phỏt trin kinh t - xó hi :
duy trỡ b mỏy qun lý Nh nc, t chc an ninh, quc phũng, ngoi giao,
xõy dng kt cu h tng cho kinh t - xó hi (ng giao thụng, liờn lc,
giỏo dc ph cp, o to cỏn b ) cng nh gii quyt mt s vn xó
hi.
b. Thực trạng của NSNN trong thời gian qua.
Cơ chế quản lý NSNN có thể đợc hiểu là tổng hợp các hình thức và phơng thức điều hành Ngân sách trong toàn bộ hệ thống NSNN. Cơ chế này
bao gồm các bộ phận chủ yếu là: thu, chi, phân cấp, lập quyết định phân
bổ, chấp hành quyết toán và tổ chức bộ máy quản lý NSNN. Quá trình vận
hành của cơ chế quản lý NSNN rất phức tạp, xuất hiện và tồn tại nhiều mối
quan hệ, những mối quan hệ này phụ thuộc chặt chẽ vào nội dung và tính
chất của cơ chế. Cơ chế thay đổi tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của những
mối quan hệ trong cơ chế. Vì vậy, việc nghiên cứu xử lý các mối quan hệ
này phải đợc xem xét, đánh giá kỹ để có biện pháp khắc phục và hoàn thiện
nhằm đáp ứng yêu cầu cơ chế quản lý NSNN phải phù hợp với nền kinh tế
hớng theo thị trờng.
Thực trạng cơ chế thu Ngân sách
Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang chủ trơng
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc, thì cơ chế về thu nh trớc đây là không còn phù hợp và
bộc lộ những nhợc điểm lớn là:
+ Chính sách chế độ thu có nhiều, nhng vẫn sơ hở, chồng chéo, chắp vá
và cha bao quát hết các nguồn thu trong điều kiện nền kinh tế thị trờng, cha
tạo môi trờng thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển.
+ Hệ thống chính sách thu ban hành không đồng nhất, chủ yếu ban
hành bằng các văn bản pháp quy dới luật, cha đúng với Hiến pháp nên tính
pháp lý không cao, hiệu lực thi hành bị hạn chế.
Cụ thể: các sắc thuế cha bám sát đợc những đặc thù trong kinh doanh,
cha phản ánh hết và cha thể lờng hết đợc những diễn biến phức tạp của nền
kinh tế thị trờng. Ngoài ra, một tồn tại lớn nhất về chính sách thu: Chính
phủ và các cơ quan chức năng cha tập trung hệ thống hoá đợc các chế độ
thu khác có tính chất thuế nh các loại lệ phí vẫn còn tình trạng các địa
phơng, các ngành tự đặt ra các chế độ thu rất tuỳ tiện. Về thuế suất của một
số luật thuế đối với một số ngành nghề, mặt hàng kinh doanh cũng còn bất
hợp lý, cha phù hợp với thực tế hoạt động của các doanh nghiệp và các
thành phần kinh tế.
Trong quá trình thực thi các sắc thuế mới cha bảo đảm tính công bằng,
bình đằng giữa các thành phần kinh tế. Bởi kinh tế ngoài quốc doanh không
có sổ sách, chứng từ công khai theo luật định, thậm chí cố tình tìm cách lợi
dụng những sơ hở của cơ chế chính sách để trốn tránh thuế. Trong khi đó
kinh tế Nhà nớc có sổ sách kế toán đầy đủ và đóng thuế tơng đối đúng luật.
Rõ ràng về sức và điều kiện cạnh tranh giữa thành phần kinh tế Nhà nớc và
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cha đồng nhất càng làm cho kinh
tế Nhà nớc gặp nhiều khó khăn.
Thực trạng cơ chế chi Ngân sách
Do quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và việc hoàn thiện các cơ chế
chính sách còn chậm, thiếu đồng bộ, mang nặng tính chắp vá. Vì vậy chính
sách phân phối, quản lý chi tiêu tiền của NSNN cũng thiếu tính hệ thống,
nhất quán và còn không công bằng giữa các đối tợng, thực tế đã tạo nhiều
sơ hở gây thất thoát vốn Ngân sách rất lớn.
+ Việc cấp phát vốn và quản lý chi NSNN không dựa vào định mức tiêu
chuẩn cho từng đối tợng, gây khó khăn cho công tác quản lý và tạo điều
kiện cho việc chi tiêu tự do vợt quá xa định mức tiêu chuẩn của Nhà nớc.
+ Cha gắn trách nhiệm và quyền hạn của thủ trởng đơn vị với việc quản
lý vốn Ngân sách. Thực chất lâu nay Nhà nớc giao cho đơn vị một khoản
tiền, dới hình thức khoán trắng cho đơn vị, đơn vị tự do sử dụng vốn và
cũng do cơ quan tài chính không kiểm tra ( kiểm tra không hết ) việc chi
tiêu dẫn đến kỷ cơng kỷ luật tài chính bị vi phạm nghiêm trọng, tiền vốn
của NSNN thất thoát nhiều.
+ Do cơ chế phân cấp quản lý NSNN hiện hành nên hệ thống quỹ
NSNN bị cắt khúc quá nhiều tầng nấc, trung ơng không điều khiển đợc, tạo
nên những khó khăn căng thẳng giả tạo trong quản lý và điều hành Ngân
sách, làm cho NSNN bị động và Nhà nớc rất lúng túng khi phải xử lý mâu
thuẫn giữa khă năng tài chính và nhu cầu chi tiêu.
Thực trạng của cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách
Theo Hiến pháp thì mỗi cấp chính quyền có một cấp Ngân sách riêng đã
làm cho NSNN có quá nhiều cấp . Và mỗi cấp chính quyền địa phơng do
nhận thức không đầy đủ vai trò tham gia với chính quyền trung ơng về
quản lý NSNN, nhiều nơi đã coi Ngân sách của cấp mình là một cấp độc
lập tách khỏi sự quản lý tập trung thống nhất của trung ơng dẫn đến NSNN
bị chia cắt và làm yếu đi khả năng kiểm soát chi tiêu của Nhà nớc, tính địa
phơng cục bộ nảy sinh gây nên sự tuỳ tiện trong việc đề ra một số chính
sách thu, chi riêng. Vì vậy cơ chế phân cấp hiện nay đang tạo ra sự không
công bằng rất lớn giữa các địa phơng, nh chính quyền trung ơng không
điều hoà đợc đó là tình trạng một số địa phơng có bội thu đợc u tiên rộng
rãi hơn, trong khi nhiều địa phơng khác nguồn thu không đủ để chi tiêu cho
các nhu cầu thiết yếu nhất đợc phân cấp. Tình trạng NSNN nói chung luôn
luôn bội chi và Ngân sách một số địa phơng lại bội thu do cơ chế phân cấp
không đợc điều chỉnh kịp thời đã gây khó khăn vớng mắc trong quản lý
NSNN. Đồng thời việc phân cấp quản lý Ngân sách cho huyện xã cha phù
hợp với trình độ cán bộ và tổ chức bộ máy đã phát sinh nhiều lúng túng tiêu
cực trong tạo nguồn và sử dụng Ngân sách, tạo thêm gánh nặng cho NSNN.
Thực trạng của cơ chế lập và quyết định phân bổ Ngân sách
Trình tự lập NSNN tuy đã đợc quy định khá cụ thể, song việc thực hiện
lại rất tuỳ tiện, phổ biến là các ngành địa phơng không chấp hành nghiêm
chỉnh trình tự và thời gian lập dự toán thu chi.
+ Lập dự toán cha xuất phát từ cơ sở nên xa rời thực tế và thiếu căn cứ.
Mặt khác dự toán không đợc lập chi tiết cho từng đối tợng nộp cũng nh đối
tợng đợc sử dụng kinh phí của NSNN gây khó khăn cho công tác điều hành
và quản lý NSNN.
+ Chính sách chế độ cha hoàn chỉnh, cha có định hớng dứt điểm nên thờng xảy ra tình trạng thay đổi quá nhanh cơ cấu thu chi, làm cho việc lập
Ngân sách rơi vào tình trạng bị động, con số kế hoạch khác con số cần thiết
thực tế dẫn đến tính hình thức, tuỳ tiện của lập Ngân sách. Vì vậy khi dự án
Ngân sách đợc tổng hợp và trình ra Quốc hội để quyết định phân bổ Ngân
sách cũng mang nặng tính hình thức và chung chung. ở đây vai trò của
Quốc hội trong việc quyết định và phân bổ Ngân sách cha đợc thể hiện đầy
đủ, thời gian để thảo luận NSNN và các thông tin cho các đại biểu Quốc
hội quá ít và với rất nhiều nội dung thảo luận khác nhau, các đại biểu Quốc
hội không có đủ điều kiện để kiểm tra xem xét những vấn đề cụ thể của
NSNN để có ý kiến chính xác.
Khi quyết định phân bổ Ngân sách, Quốc hội không bàn cụ thể khối lợng chi cho từng Bộ, địa phơng, khi tăng hay giảm chi không quyết định cụ
thể tăng hay giảm chi của Bộ và địa phơng nào và không chỉ rõ nguồn thu
bù đắp. Điều này dẫn đến khó khăn lớn trong quá trình chỉ đạo chấp hành
Ngân sách của chính phủ.
Thực trạng của chấp hành Ngân sách
Theo điều lệ "luật chấp hành Ngân sách" quy định, khi dự án NSNN đã
đợc Quốc hội phê chuẩn, nó trở thành luật buộc mọi pháp nhân và thể nhân
phải nghiêm chỉnh chấp hành. Tiếc rằng trong thực tế điều này ít đợc chú
ý, các cơ quan hành pháp đã phạm sai sót trong việc tự ý cho thay đổi
nhiệm vụ kế hoạch Ngân sách ( cho giảm mức thu và bổ sung các khoản
chi ). Các hiện tợng phổ biến nh trốn thuế, lậu thuế, dây da không nộp,
dùng quỹ Ngân sách sai mục đích, các cơ quan sử dụng kinh phí từ NSNN
đều cố gắng để đợc duyệt chi nhiều hơn nhng không xem xét và phân tích
tình hình thực tế và nhu cầu thực tế của đơn vị nhng không bị xử lý
nghiêm, kịp thời. Kết quả là NSNN đã bội chi trong thiết kế dự án, lại bội
chi thêm trong thực tế thực hiện, thất thu ngày càng trầm trọng, bội chi
Ngân sách rất lớn. Sơ hở lớn trong quá trịnh chấp hành NSNN là thiếu mối
liên kết giữa các khâu: cấp phất Ngân sách, quản lý tiền mặt cấp ra và tiến
độ thực hiện chơng trình đã hoạch định, các chế độ báo cáo tài chính không
đảm bảo chính xác ( mỗi bộ phận có một số liệu khác nhau ) cho nên các
điều chỉnh về chính sách không kịp thời trớc những thay đổi của nền kinh
tế - xã hội.
Thực trạng của quyết toán NSNN
Trong tất cả các giai đoạn của chu trình Ngân sách thì khâu quyết toán
là giai đoạn ít đợc quan tâm nhất, đặc biệt là khâu hạch toán kế toán còn
quá yếu, nhiều đơn vị, địa phơng cha làm đầy đủ sổ sách, chứng từ, còn
nhiều nhầm lẫn sai sót. Do đó dẫn đến công tác quyết toán bị trì trệ, không
phản ánh đầy đủ và chính xác những hiện tợng phát sinh trong nền kinh tế
nên không htể xuất toán đợc những khoản chi tiêu sai chế độ, sai mục đích
và cha uốn nắn kịp thời những sai lầm của các đơn vị, địa phơng. Do báo
cáo quyết toán của các đơn vị, địa phơng không đầy đủ, không chính xác,
phần lớn dựa vào số thực tế đã cấp phát ra, khôngcăn cứ vào số thực chi của
đơn vị cơ sở nên việc duyệt quyết toán NSNN của Quốc hội cũng chỉ mang
tính chất hình thức, chung chung. Nh vậy công tác quyết toán NSNN về
thực chất không có ý nghĩa thiết thực đối với yêu cầu quản lý nền kinh tế
của đất nớc.
Thực trạng của công tác tổ chức bộ máy
Trong thực tế nhiều năm qua, công tác quản lý NSNN chỉ tập trung vào
một số ngành chức năng, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý NSNN có nhiều
tồn tại không phù hợp với cơ chế mới, vừa chồng chéo, trùng lặp không
làm hết chức năng vốn có nhng lại bao biện công việc của cơ quan khác,
quản lý vừa phiền hà vừa không chặt chẽ làm cho công tác quản lý NSNN
kém hiệu quả, NSNN bị cắt khúc không phát huy đợc vai trò điều điết vĩ
mô, làm cho NSNN luôn luôn trong tình trạng bị động, căng thẳng, dẫn đến
chi tiêu vợt quá sức chịu đựng của nền kinh tế, thâm hụt ngày càng lớn và
trầm trọng.
Về phía các đơn vị thì phát triển không theo một quy hoạch thống nhất,
phát triển và yêu cầu chi tiêu vợt quá khả năng tài chính Nhà nớc, nhiều
đơn vị hoạt động không chịu sự quản lý thống nhất của nhà nớc chỉ một
chiều đòi hỏi vốn.
Về phía NSNN hầu nh chỉ biết tìm cách đáp ứng, thiếu sự tác động trở
lại hoặc hớng dẫn tiêu dùng hợp lý. NSNN trở thành nơi bao cấp cho mọi
sự chi tiêu lãng phí kém hiệu quả của các hoạt động kinh tế - xã hội. Nhất
là trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay khi nền kinh tế xã hội còn trong
giai đoạn kém phát triển, Ngân sách không thể bao cấp tràn lan nh trớc
đây, nhng cũng không thể bỏ qua các nhu cầu chi mang tính chất định hớng, tạo môi trờng cho sự phát triển và các nhu cầu chi khác nhằm ổn định
thị trờng và xã hội, hớng các hoạt của thị trờng đi vào quỹ đạo mong muốn
của Nhà nớc... Vấn đề này không đơn giản nhng nhất thiết phải đợc thể
hiện trong cơ chế mới
c. Yêu cầu và phơng hớng mới
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nớc không cho phép Nhà
nớc sử dụng NSNN nh một công cụ để cấp phất kinh phí cho tất cả các hoạt
động kinh tế xã hội. Hoạt động của NSNN phải gắn với nền kinh tế xã hội,
gắn với thị trờng và điều tiết trở lại nền kinh tế xã hội và thị trờng, tránh
tình trạng cứng nhắc đồng thời không thể tồn tại ngân sách tuỳ tiện. Vì vậy
cơ chế quản lý Ngân sách nh trớc đây không còn phù hợp và không đáp
ứng đợc yêu cầu của nền kinh tế thị trờng.
Đối với cơ chế quản lý thu NSNN
Phơng hớng đổi mới cơ chế quản lý thu NSNN cần tập trung vào một số
vấn đề sau:
+ Thờng xuyên nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi các sắc thuế cho phù
hợp với thực tế. Tiến hành hệ thống hoá các loại thu khác nh các loại phí, lệ
phí... nhằm thống nhất mức thu và phơng pháp quản lý. Thực hiện cỡng chế
thu nộp đối với cá nhân cố tình dây da chậm nộp thuế cho Nhà nớc.
+ Tiếp tục nâng cao công tác hạch toán, kế toán theo đúng quy định của
pháp lệnh kế toán thống kê, phải coi đây là cơ sở quan trọng số một đối với
công tác quản lý thu.
Cần bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật và thuế, thể hiện ở khâu thời
điểm ban hành luật, pháp lệnh, nghị định và các văn bản hớng dẫn thi hành
về thuế phải đợc thực hiện nghiêm túc.
+ Tiến tới phải thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu và ban hành
chế độ chính sách thu nằm ngoài tổng cục thuế, tổng cục thuế chỉ làm
nhiệm vụ thu.
+ Cải cách phơng thức và quy trình thu nộp để các hộ kinh doanh nộp
thuế trực tiếp vào kho bạc Nhà nớc để tránh tình trạng xâm tiêu tiền thuế.
Đối với cơ chế chi Ngân sách
Trong bất kỳ một cơ chế nào thì nội dung chi của NSNN cũng rất
phong phú và đa dạng, các khoản chi đều có phạm vi ảnh hởng rộng lớn.
Trong cơ chế mới đòi hỏi phải cải cách triệt để nội dung chi tiêu của NSNN
theo hớng vừa kiên quyết xoá bỏ các khoản chi bao biện, bao cấp vừa thực
hiện nguyên tắc chi tập trung cho những lĩnh vực cần thiết và cấp bách
nhất, nhằm đảm bảo vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội của Nhà nớc.
+ Trớc hết phải tập trung hoàn thiện cơ chế chính sách chi tiêu của
chính phủ cho các đối tợng đúng mục đích, có hiệu quả và phù hợp với khả
năng của nền kinh tế.
+ Tiến hành khẩn trơng việc rà soát và xây dựng lại các định mức tiêu
chuẩn chi tiêu cho các đối tợng, các ngành, phấn đấu mở rộng diện định
mức trong chi Ngân sách để có cơ sở pháp lý cho công tác quản lý đợc
thuận lợi.
+ Phải đa các đơn vị, các địa phơng vào khuôn phép của luật pháp, phải
chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, định mức chi tiêu của Nhà nớc, nhất
thiết phải xử lý nghiêm minh những trờng hợp sai phạm: dấu nguồn thu, tự
động chi tiêu sai chế độ, định mức nhà nớc quy định.
Đối với cơ chế phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp Ngân sách không chỉ giới hạn ở việc phân giao nhiệm vụ chi
và các nguồn thu, mà phảibao quát tất cả các lĩnh vực hoạt động NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN phải đảm bảo nguyên tắc Ngân sách Trung ơng
đảm nhận phần lớn các nhiệm vụ chi của Nhà nớc và đợc sử dụng các
nguồn thu lớn đảm bảo trong mọi trờng hợp, vai trò của Ngân sách trung ơng phải chủ đạo, đủ sức thực hiện các chức năng của chính quyền Nhà nớc trung ơng, đảm bảo tính công bằng giữa các địa phơng.
Cơ chế này đảm bảo nguyên tắc độc lập của mỗi cấp Ngân sách, mỗi
cấp tự lập duyệt và tổ chức thực hịênNgân sách của mình không có sự can
thiệp của cấp trên và phải tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền địa phơng các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ đợc giao. Tức là phải xác định nhiệm
chi cho các địa phơng nh nhau rồi mới tiến hành phân định nguồn thu cho
địa phơng. Do vậy đối với địa phơng có nguồn thu dồi dào nhất thì các
nguồn thu đó cũng không vợt quá nhiệm vụ chi. Điều này không chỉ đảm
bảo vai trò chỉ đạo của chính quyền trung ơng đối với hoạt động của NSNN
trên phạm vi cả nớc mà còn thực hiện đợc vai trò điều hoà giữa địa phơng
giàu và nghèo về nguồn thu ( thông qua cơ chế tài trợ từ Ngân sách trung ơng cho Ngân sách địa phơng ).
Đối với lập và quyết định phân bổ NSNN
Việc lập và quyết định phân bổ NSNN đợc thực hiện ở cơ quan đại biểu
cao nhất là Quốc hội. việc lập dự toán Ngân sách đợc lập ở các cơ sở, các
tổ chức kinh tế và hành chính, chính phủ chịu trách nhiệm tổng hợp và lập
dự toán chung về NSNN trình ra Quốc hội với đầy đủ căn cứ tài liệu thuyết
minh. Quốc hội sẽ xem xét thảo luận và quyết định không chỉ tổng số thu,
chi NSNN mà còn quyết định rõ số thu chi Ngân sách địa phơng và số phân
bổ cho từng địa phơng.
Nh vậy quyền định ra các khoản thu chi Ngân sách là thẩm quyền của
Quốc hội, Uỷ ba thờng vụ Quốc hội và chính phủ ( sau khi đợc Quốc hội
cho phép ). Nghiêm cấm mọi tổ chức cá nhân tự đặt ra các khoản thu, chi
NSNN cho ngành, địa phơng, đơn vị.
Đối với chấp hành NSNN
Nội dung của quá trình này là tổ chức thu NSNN và bố trí cấp phát kinh
phí của NSNN cho các nhu cầu đã dợc phê chuẩn. Một vấn đề hết sức quan
trọng cần đề cập là trong công tác chấp hành Ngân sách cần nhận thức đợc
các mối liên kết giữa nền kinh tế chung với NSNN bằng cách tiến hành
phân tích tác động của những thay đổi về chính sách lên Ngân sách và việc
điều hành để thực hiện các mục tiêu chính ghi trong kế hoạch nhằm đa ra
đợc các điều chỉnh Ngân sách kịp thời khi có biến động lớn về thu chi. Bởi
vì do nguồn thu không đồng thời với chi tiêu của Ngân sách, nên cần có bộ
phận chuyên chuẩn bị dự toán hàng tháng cho ít nhất ba tháng sau về tính
chu kỳ, thời gian các nguồn thu và thanh toán thực tế. Trên cơ sở này mà
có định hớng thích hợp để hạn chế chi tiêu, nhằm đảm bảo chi tiêu không
vợt quá nguồn thu định trớc trong từng giai đoạn. Muốn vậy phải phân định
rõ trách nhiệm cho các cơ quan thu nộp và quản lý chặt chẽ các nguồn thu,
phải cải cách phơng thức và nâng cao chất lợng các báo cáo tháng, quý về
thu Ngân sách một mặt để theo dõi nguồn thu, mặt khác kịp thời phát hiện
những đơn vị còn nợ tồn đọng thuế thiếu tự giác về nghĩa vụ đóng thuế cho
Nhà nớc để cơ quan thuế có hớng và biện pháp giải quyết kịp thời. Đồng
thời cần áp dụng triệt để cơ chế lập duyệt và cấp phát kinh phí hàng quý.
Để làm đợc việc này cần phải có hệ thống báo cáo những khoản chi tiêu đã
thực hiện trên tài khoản để xem xét lại việc chi tiêu của đơn vị theo đúng
những khoản chi và nội dung đã đợc duyệt. Mặt khác những báo cáo này sẽ
giúp Bộ Tài chính dự toán về nhu cầu về vốn sắp tới trong mối tơng quan
với khả năng đáp ứng của Ngân sách để chủ động xử lý khi có hiện tợng
nguồn thu không đủ theo dự kiến và nhu cầu chi đột ngột tăng lên.
Tuy nhiên, trong quá trình chấp hành NSNN còn nảy sinh nhiều mối
quan hệ khác nhau giữa các cơ quan chức năng nh Kho bạc Nhà nớc, Ngân
hàng Nhà nớc,... những mối quan hệ này nếu tốt đẹp sẽ tạo điều kiện để
công tác quản lý thu chi đi vào nề nếp và phát huy tác dụng của công cụ
điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Đối với quyết toán NSNN
Sau khi tổng hợp quyết toán của các đơn vị, cơ quan tài chính lập quyết
toán chung về NSNN trình chính phủ. Ngoài báo cáo quyết toán tổng quát
trình thủ tớng chính phủ còn phải có một báo cáo chi tiết theo sát khoản
mục Ngân sách cần thực hiện quyết toán Ngân sách theo số thực thu, thực
chi có so sánh với kế hoach đợc duyệt, kế hoạch điều chỉnh. Việc quyết
toán ngân sách phải đợc thực hiện từ dới lên để đảm bảo độ chính xác của
số liệu.
Với vị trí và điều kiện hoạt động của mình, cơ quan Kho bạc Nhà nớc
cần đảm nhận trách nhiệm tổng hợp và lập quyết toán NSNN. Bởi lẽ, công
tác quyết toán của Kho bạc Nhà nớc sẽ đảm bảo các con số đợc lập trên cơ
sở tiền cấp bằng hạn mức kinh phí cho cơ quan đợc hởng. Bên cạnh đó hệ
thống Kho bạc Nhà nớc phải đợc củng cố về chất lợng và số lợng để có thể
đảm nhận đợc công tác thanh toán trực tiếp mọi khoản chi trả từ kinh phí
của Ngân sách.
Về phê chuẩn quyết toán NSNN, để khắc phục tình trạng phê chuẩn
quyết toán một cách chiếu lệ, hình thức cần thành lập cơ quan tổng kiểm
toán quốc gia trực thuộc Quốc hội, có nhiệm vụ giúp Quốc hội thẩm tra
quyết toán NSNN và báo cáo cho Quốc hội trớc khi Quốc hội xem xét phê
chuẩn. Ngoài ra cơ quan này còn giúp Quốc hội giám sát việc điều hành và
quản lý NSNN của chính phủ. Vai trò của cơ quan này là rất cần thiết và
quan trọng nhằm tăng cờng sự giám sát của Quốc hội đối với chính phủ và
nâng cao hiệu quả của NSNN.
Đối với tổ chức bộ máy.
Tăng cờng vai trò quản lý theo ngành kết hợp với sự quản lý theo vùng
và lãnh thổ, củng cố vị trí và vai trò của các Bộ, các ngành chủ quản trong
việc phân giao nhiệm vụ thu, chi và quản lý tài chính đối với các đơn vị
trực thuộc. Trong nội bộ ngành tài chính phải có sự kết hợp chật chẽ phân
công quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan thuế, Kho bạc, các tài vụ, vụ
Ngân sách. Hệ thống tài vụ nên sắp xếp lại theo hớng tập trung đầu mối
quản lý theo chuyên ngành để quản lý toàn bộ vốn tài sản của Nhà nớc.
Thành lập một bộ phận ( nằm trong vụ chính sách ) chuyên nghiên cứu về
cơ chế chính sách định mức trong các lĩnh vực.
Ngân sách địa phơng các cấp đợc phân cấp gọn một số nguồn thu để
đảm bảo nhiệm vụ chi cho bộ máy quản lý Nhà nớc ở địa phơng. Trong nội
bộ các cấp Ngân sách ở địa phơng, nhiệm vụ thu chi của Ngân sách Huyện
đợc thu hẹp. Tuy nhiên việc phân định nhiệm vụ thu chi cụ thể cho từng
cấp NSNN đang là vấn đề rất phức tạp và hiện có nhiều ý kiến, quan điểm
khác nhau.
2. Thuế
a. Khái niệm
Thuế là một hình thức phân phối lại đợc Nhà nớc sử dụng để động viên
một phần thu nhập của các pháp nhân và thể nhân, là khoản đóng góp nang
tính chất pháp lệnh mà Nhà nớc bắt buộc mọi ngời dân hoặc các tổ chức
kinh tế phải nộp cho Ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình.
Khoản nộp về thuế mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, một phần đợc hoàn trả dới dạng gián tiếp thông qua các trợ cấp xã hội, phúc lợi công
cộng.
Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan, xuất hiện và tồn tại cùng với
sự hình thành và tồn tại của Nhà nớc và sự xuất hiện của sản phẩm thặng d.
Để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của mình và của xã hội, Nhà nớc phải dùng
quyền lực để tham dự vào việc phân phối một phần sản phẩm xã hội, đặt ra
chế độ thuế buộc mọi ngời dân phải đóng góp. Phơng thức vận động tài
chính đầu tiên xuất hiện trong lịch sử, đó là thuế.
Ngày nay để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn của mình, Nhà nớc
còn phải phát hành công trái hoặc phát hành thêm giấy bạc, nhng thuế vẫn
là phơng thức động viên tài chính chủ yếu của nhà nớc thuộc các chế độ xã
hội khác nhau.
Đối với nhà nớc ta, thuế là nguồn thu chủ yếu chiếm phần lớn trong
tổng số thu Ngân sách, đảm bảo đợc các khoản chi thờng xuyên và trả nợ
của NSNN. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trờng, sự điều
chỉnh vĩ mô của Nhà nớc phải phù hợp với yêu cầu khách quan, không thể
là sự can thiệp tuỳ tiện bằng mệnh lệnh hành chính, mà là tìm tòi những
phơng thức và công cụ có hiệu quả để quy luật giá trị và các quy luật khác
của nền sản xuất hàng hoá có điều kiện phát huy đầy đủ tác dụng, khắc
phục tính tự phát của thị trờng. Và thuế đã trở thành một trong các công cụ
điều chỉnh vĩ mô có tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nớc.
b. Vai trò của thuế trong điều chỉnh vĩ mô
Thuế là công cụ để huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN
Huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN là vai trò chủ yếu của nhiều
chính sách thuế. Bất kỳ Nhà nớc nào cũng phải thu thuế để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của mình. Thuế là nguồn vật chất quan trọng đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của bộ máy quyền lực Nhà nớc.
Thuế góp phần điều chỉnh kinh tế
Ngoài việc huy động nguồn thu cho NSNN, thuế còn có vai trò quan
trọng trong việc điều chỉnh kinh tế. chính sách thuế có ảnh hởng trực tiếp
đến giá cả, đến quan hệ cung cầu, đến cơ cấu đầu t và sự phát triển hoặc
suy thoái của nền kinh tế. Căn cứ vào tình huống cụ thể, Nhà nớc có thể
chủ động điều hành về thuế. Lúc hoàn cảnh kinh tế quá thịnh thì việc gia
tăng thuế sẽ có tác dụng ức chế sự tăng trởng của tổng cầu, làm giảm bớt sự
phát triển của kinh tế. Lúc hoàn cảnh kinh tế sa sút, sản xuất suy thoái thì
việc hạ thấp thuế sẽ có tác dụng nâng cao nhu cầu tổng thể, từ đó xúc tiến
phục hng tình trạng kinh tế.
Thuế có tác động trực tiếp đến giá cả, thu nhập. Vì vậy dựa vào công cụ
thuế, Nhà nớc có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích luỹ và đầu t. Khi ban
hành một sắc thuế, do những yêu cầu về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, Nhà
nớc ta đều có những quy định về đối tợng, phạm vi đánh thuế, thuế suất,
điều kiện miễn giảm thuế. Các quy định này thực chất là nhằm mục đích
điều chỉnh những quan hệ kinh tế - xã hội nhất định. Việc phân biệt thuế
suất đối với các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hoặc các ngành nghề sản xuất
kinh doanh, những quy định u đãi thuế đối với một số ngành, vùng lãnh
thổ, tự nó đã góp phần điều chỉnh việc bỏ vốn kinh doanh vào ngành nghề
này hay ngành nghề khác, khu vực này hay địa phơng khác của các doanh
nghiệp mà không cần phải có sự hô hào vận động của Nhà nớc. Bởi vì ngời
nộp thuế tự họ sẽ phải tính toán nên đầu t vốn vào đâu sẽ có lợi và ngợc
lại.
Thông qua áp dụng thuế suất thấp đối với các mặt hàng, dịch vụ thiết
yếu, phổ thông Nhà nớc tác động làm cho giá cả hạ, tiêu dùng tăng lên
đáng kể, cũng qua đố cho phếp doanh nghiệp đạt đợc hiệu quả kinh tế cao.
áp dụng thuế suất cao đối với hàng hoá xa xỉ, dịch vụ cao cấp sẽ tác động
làm cho giá cả tăng, giảm mức tiêu dùng và sản xuất. Nh vậy thuế không
những có ảnh hởng đến quan hệ cung cầu mà còn góp phần điều chỉnh cơ
cấu kinh tế theo ý muốn của Nhà nớc.
Thuế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
trong phân phối.
Trong nền kinh tế thị trờng, nếu không có sự can thiệp của Nhà nớc, để
tự thị trờng điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập
trung, tạo ra hai cực đối lập nhau, một số ít ngời sẽ giàu có lên nhanh
chóng và đa số ngời nghèo cuộc sống không đợc cải thiện. Chính vì vậy
cần phải có sự can thiệp của Nhà nớc trong sự phân phối thu nhập trong xã
hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế.
Việc điều hoà thu nhập đợc thể hiện thông qua thuế doanh thu, thuế tiêu
thụ đặc biệt: thuế đánh cao vào những mặt hàng dịch vụ cao cấp nhằm điều
tiết bớt thu nhập của ngời giàu, hoặc đánh thuế trực tiếp vào thu nhập của
công ty hoặc cá nhân có thu nhập. Nhìn chung, ngời có thu nhập cao thì
phải nộp thuế nhiều, có thu nhập thấp thì nộp ít, thu nhập chỉ bảo đảm cuộc
sống bình thờng thì không phải nộp thuế. Số tiền Nhà nớc thu đợc sẽ đợc sử
dụng để trợ cấp cho các đối tợng xã hội nh trẻ mồ côi, ngời già không nơi
nơng tựa, ngời tàn tật,... Cơ chế thuế nh vậy sẽ tạo điều kiện để chuyển
dịch thu nhập từ ngời có thu nhập cao sang ngời có thu nhập thấp, rút ngắn
khoảng cách giữa ngời giàu và ngời nghèo.
c. Thực trạng trong thời gian qua
Trong việc huy động nguồn thu cho NSNN: Hệ thống thuế còn bộc lộ
một số tồn tại là: cha bao quát đợc hết nguồn thu, chính sách thuế còn phức
tạp cha tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động về thuế, còn nhiều kẽ hở
tạo cho các đối tợng có thể trồn tránh nghĩa vụ nộp thuế, tình trạng thất thu
còn phổ biến, cụ thể:
+ Hệ thống thuế cha có chính sách thu hoặc cha nghiên cứu định hớng
thu cho phù hợp đối với các loại hình sản xuất kinh doanh mới nh hoạt
động kinh doanh bất động sản, dịch vụ môi giới đầu t,... Động viên về thuế
hiện hành cũng cha đề cập đến việc phân phối lại một phần vào tích luỹ của
quá khứ nh thuế tài sản, thuế thừa kế.... Hoặc ngay trong từng sắc thuế,
diện thu thuế cũng còn bị hạn chế cha đợc mở rộng, nh cha thực hiện thu
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các dịch vụ cao cấp nh tắm hơi, matxa...hoặc
một số mặt hàng nhập khẩu cần hạn chế để bảo vệ sản xuất nội địa và thúc
đẩy công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu.
+ Chính sách thuế còn phức tạp, cha rõ ràng và cha phù hợp với điều
kiện và trình độ của ngời thu và nộp thuế. Tính chất gián thu và trực thu
còn lẫn lộn trong các sắc thuế, cha có sự phân biệt rõ ràng. Nội dung luật
thuế và các văn bản hớng dẫn không xác định rõ những phạm trù kinh tế
mà theo đó áp dụng các mức thuế khác nhau nên đã gây khó khăn cho việc
thu và nộp thuế, tạo sơ hở trong chính sách, dễ gây tuỳ tiện và tiêu cực khi
thực hiện. Việc phân biệt quá chi li về thuế vừa gây chậm trễ, khó khăn cho
việc tra cứu để tính và nộp thuế, vừa phải chi phí tốn kém cho việc quản lý
thuế mà cuối cùng vẫn không đạt đợc những mục tiêu ban đầu đề ra. Phạm
vi miễn, giảm thuế còn quá rộng và cha theo một nguyên tắc nhất quán nên
đã khiến cho nguồn thu về thuế bị ăn mòn, tạo kẽ hở trốn tránh thuế, tỉ lệ
thuế đặt ra do đó không phát huy đợc trọn vẹn.
+ Việc ban hành luật pháp về thuế cha đồng bộ, thời điểm ban hành
giữa luật, pháp lệnh thuế và các nghị định, thông t hớng dẫn thi hành chi
tiết chính sách thuế còn cách xa nhau làm cho ngời thi hành phải chờ đợi
lâu, làm cho việc thu thuế bị chậm trễ, tác dụng của pháp luật bị hạn chế.
+ Sự thống nhất của pháp luật không đợc thực hiện nghiêm chỉnh, vẫn
còn tình trạng ngành chủ quản tự hớng dẫn các đơn vị trực thuộc thi hành
nộp thuế khác với quy định làm rối trong việc thực hiện chính sách ở cơ sở.
Trong thực hiện vai trò điều chỉnh kinh tế, chính sách thuế hiện hành
cũng còn bộc lộ một số tồn tại:
+ Về cơ bản, chính sách thuế vẫn cha khắc phục đợc hiện tợng thu thuế
chồng chéo, trùng lắp qua các khâu nên đã gây áp lực đẩy giá lên cao làm
ảnh hởng đến sản xuất và tiêu dùng.
+ Thuế suất của một số sắc thuế hiện nay còn cao, cha hợp lý nên đã
gây cản trở cho sản xuất kinh doanh.
+ Nội dung một số luật thuế hiện nay còn cha rõ ràng, chắc chắn và có
một số điểm cha phù hợp với thực tiễn khách quan. Ví dụ: Các nhà đầu t nớc ngoài cho rằng nhìn vào luật thuế đối với các xí nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài, ngời ta không thể tự tính toán đợc các khoản thuế phải nộp một cách
chắc chắn và từ đó tìm ra hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ thu đợc qua hoạt
động đầu t vào Việt nam. Đây là một vấn đề đang làm cản trở việc khuyến
khích thu hút đầu t vốn nớc ngoài vào nớc ta.
Trong việc thực hiện công bằng xã hội trong phân phối, chính sách
thuế nẫn còn một số bất cập:
+ Việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quôc doanh và ngoài quốc
doanh.
+ Việc đánh thuế có phân biệt giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài và doanh nghiệp trong nớc nh hiện nay đã tạo ra những chênh lệch
lớn trong cạnh tranh kinh tế, thúc đẩy doanh nghiệp trong nớc tìm cách liên
doanh với nớc ngoài để đợc hởng u đãi về thuế, tránh thuế hợp pháp.
+ Trong các sắc thuế còn đẻ ra nhiều trờng hợp u đãi miễn giảm thuế,
nội dungmiễn giảm không đợc quy định rõ ràng nên dễ gây tình trạng tuỳ
tiện trong việc thực hiện luật thuế, không đảm bảo công bằng, vì ngời này
xin đợc giảm thuế thì ngời khác cũng tìm mọi cách để đợc u đãi.
d. Yêu cầu và phơng hớng đổi mới
Trong việc huy động nguồn thu cho NSNN, để khắc phục những
khuyết điểm, chính sách thuế cần tiếp tục đợc hoàn thiện theo phơng hớng
sau :
+ Cần xây dựng một hệ thống thuế tơng đối hoàn chỉnh, bao quát đợc
hết các đối tợng và các nguồn phải thu, phải sử dụng các hình thức đa dạng
để có thể thu đợc thuế ở những lĩnh vự, những đối tợng có thể điều tiết.
+ Thực hiện cơ cấu thuế suất đơn giản, với mức thuế suất vừa phải và
mở rộng diện thu thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nên tập trung vào một hoặc hai
mục tiêu chủ yếu, không nên buộc cho mỗi sắc thuế phải đáp ứng nhiều
mục tiêu cùng một lúc.
+ Trong thời gian tới vẫn cần coi trong thuế gián thu hơn thuế trực thu.
Muốn có hệ thống thuế ổn định về cơ cấu cần coi trọng thúe gián thu, lấy
thuế gián thu làm trụ cột cho cả hệ thống thuế.
+ Pháp luật về thuế cần đợc ban hành đồng bộ, thống nhất từ trên
xuống. Đề cao vai trò Nhà nớc trong việc xử lý và cỡng chế thi hành chính
sách thuế, chống thất thu có hiệu quả.
Trong điều chỉnh kinh tế, phơng hớng hoàn thiện chính sách thuế đợc
kiến nghị là:
+ Cần xem xét lại việc quy định về thuế suất, cách tính thuế của một số
sắc thuế . Trong điều kiện sản xuất kinh doanh có nhiều biến động nh hiện
nay, chính sách thuế cần phải đợc điều chỉnh linh hoạ, không nên cứng
nhắc.
+ Chính sách thuế đặt ra phải rõ ràng, chắc chắn, làm cho ngời có vốn
đầu t có thể nhanh chống tính toán đợc hiệu quả thu đợc sau khi đã hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nớc. Không nên tạo cho chính sách
thuế mang đặc tính thoả hiệp, thơng lợng, có thể vận dụng theo nhiều cách
khác nhau.
+ Kinh tế thị trờng có u điểm kích thích cạnh tranh, thúc đẩy kinh tế
phát triển. Nhng nó cũng có khuyết điểm, đó là cạnh tranh về lợi nhuận tối
đa dễ dẫn đến độc quyền, đầu cơ và sự phá sản của những ngời sản xuất
nhỏ. Bởi vậy, chính sách thuế cũng cần phải có tác động nhất định trong
việc hạn chế khuyết tật này.
Trong thực hiện công bằng xã hội trong phân phối, một số phơng hớng hoàn thiện là:
+ Cần có chính sách thuế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nừu
giữa các doanh nghiệp có sự khác biệt về điều kiện thuận lợi sản xuất kinh
doanh thì cần phân biệt về mức thuế phải nộp.
+ Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút vốn trong nớc và nớc ngoài nhằm
đầu t phát triển kinh tế đòi hỏi cần áp dụng một chính sách thuế thống nhất
đối với doanh nghiệp trong nớc và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
Nếu có u đãi thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài thì cũng
nên thực hiện đối với cả các doanh nghiệp trong nớc.
+ Cần thu hẹp phạm vi u đãi miễn giảm thuế và cần quy định rõ ràng
tiêu chuẩn các trờng hợp đợc miễn giảm.
3. Tiền tê - tín dụng
a. Khái niệm
Kinh tế hàng hoá - tiền tệ phát triển cũng tạo nên một loại hình vận
động đặc biệt của các nguồn tài chính. Các nguồn tài chính tạm thời nhàn
rỗi đợc tập hợp thành các quỹ tín dụng, sau đó đợc sử dụng theo nguyên tắc
hoàn trả và có lợi tức. Sự chuyên môn hoá của phơng thức vận động của
các nguồn tài chính kiểu này làm cho nó trở thành một dịch vụ tài chính
đặc biệt - tín dụng.
Tín dụng là quan hệ kinh tế dới hình thức quan hệ tiền tệ mà ngời chủ
sở hữu tiền tệ cho ngời khác vay trong thời gian nhất điịnh để thu món lời
gọi là lợi tức.
b. Vai trò của tiền tệ- tín dụng trong điều chỉnh vĩ mô