3. Phát triển bền vững
Thuật ngữ "bền vững" ở đây không phải là duy trì tốc độ tăng
trưởng cao và lâu dài về thời gian như một số người nghĩ (điều này
cũng giúp lý giải vì sao nền kinh tế Việt Nam từ những năm đổi mới
đến nay tuy đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định nhưng cũng
không được coi là bền vững).PTBV xuất hiện đầu tiên bắt nguồn từ quá
trình phát triển kinh tế từ trước thập niên 1970
do các quốc gia chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh,
sử dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên,
bất bình đẳng giữa các nước và trong từng nước tăng trưởng nhanh,
vi phạm quyền con người và truyền thống văn hóa.
Tại hội nghị thượng đỉnh Trái đất 1992 tại Rio De Janero và hội nghị
thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johanesburg đều thống
nhất khẳng định: “ Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển là phát
triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, nhằm đáp ứng
nhu cầu đời sống con người trong hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.”
a. Phát triển bền vững về kinh tế:
Theo quan niệm như trên thì tăng trưởng kinh tế không nhất
thiết phải đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng
bền vững.
Phải cân nhắc đến hiệu quả sử sụng các nguồn lực phát triển
kinh tế. Điều đó cũng chỉ ra rằng, để tăng trưởng có hiệu quả
kinh tế cao trong điều kiện hiện nay, cần đầu tư nâng cao chất
lượng ngành giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, nghiên cứu
và triển khai.
b. Phát triển bền vững về xã hội: gắn TTKT với thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Một số quốc gia thực hiện chính sách xã hội đi sau chính sách kinh tế (các
nước tư bản phát triển trước đây), họ làm mọi cách để đạt mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và hy sinh các vấn đề xã hội. Hậu quả là
xung đột xã hội, bất công, sự chênh lệch giàu nghèo, giữa thành
thị và nông thôn. Sau đó họ đã phải chi ra số tiền khổng lồ để giải
quyết các vấn đề xã hội đó.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây thì ngược lại: gắn với thể chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, thực hiện chính sách xã
hội đi trước chính sách kinh tế. Nhà nước tổ chức sản xuất, phân
phối, cung ứng các dịch vụ xã hội. Khi nền kinh tế rơi vào suy
thoái khủng hoảng thì chính nhà nước không đủ năng lực cung
ứng các dịch vụ xã hội thiết yếu, vì vậy xã hội cũng rơi vào khủng
hoảng.
Như vậy, nếu quá quan tâm đến tăng trưởng mà ít chú ý đến công
bằng xã hội sẽ dẫn đến bất ổn xã hội và tăng trưởng không thể
bền vững, ngược lại, nếu quá đề cao công bằng xã hội thì sẽ
không có động lực để thúc đẩy tăng trưởng. Sự kết hợp hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội sẽ tạo ra chất lượng
của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là nguồn gốc tạo
thêm của cải cho xã hội. Tăng trưởng gắn liền với việc sử dụng
của cải cho phúc lợi xã hội như thế nào. Phúc lợi không chỉ thể
hiện ở thu nhập bình quân đầu người mà còn là chất lượng cuộc
sống, môi trường xã hội, môi trường tự nhiên, cơ hội học tập và
chăm lo sức khoẻ,v.v… Mỗi thành quả của kinh tế phải được cân
nhắc tính toán hợp lý để vừa đầu tư vào tái sản xuất, vừa đầu tư
cho phát triển xã hội.
c. Phát triển bền vững về môi trường
Các nghiên cứu của WB về chất lượng tăng trưởng cho thấy trên thế
giới đã hình thành những chiến lược phát triển như sau:
- Các nước công nghiệp đặt mục tiêu nâng cao thu nhập bình
quân đầu người cùng với mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái. Các
quốc gia Tây Âu và Nhật Bản đã đạt được cả hai mục tiêu, nhưng Hoa
Kỳ lại thất bại trước mục tiêu bảo vệ môi trường. Chính vì vậy mà
Hoa Kỳ chưa tham gia Nghị định thư Kyôtô về bảo vệ môi trường.
- Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á như Hàn Quốc,
Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan đã và đang kinh qua thời kỳ công
nghiệp hoá tăng trưởng cao nhưng phải trả giá đắt cho môi trường bị
huỷ hoại.
- Các quốc gia Nam Á và Châu Phi tuy tăng trưởng kinh tế
chậm, thậm chí tăng trưởng âm (thập kỷ 80 - thập kỷ mất mát của
Châu Phi) nhưng môi trường vẫn bị tổn thất lớn do khai thác nguồn
tài nguyên vô tổ chức và quản lý lỏng lẻo.
Như vậy, quan điểm tăng trưởng kinh tế trước, khắc phục hậu
quả môi trường sau là không hợp lý. Phải tạo ra sự cân bằng giữa
tăng trưởng và bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững về môi trường không chỉ là chất lượng môi
trường tự nhiên, mà còn là môi trường xã hội (tình trạng tội phạm,
tham nhũng), chất lượng của người lao động (vốn nhân lực) và chất
lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế (vốn vật chất), trong
đó quan trọng nhất là hệ thống giao thông vận tải, viễn thông liên
lạc, điện, nước.
Việt Nam chúng ta đã ký cam kết thực hiện chương trình nghị sự 21
(1992), là chương trình về phát triển bền vững toàn cầu, bao gồm
2500 khuyến nghị hành động, và chúng ta đang từng bước thực hiện
các nội dung trong chương trình này: giảm các mô hình sản xuất và
tiêu dùng gây nhiều lãng phí, chống đói nghèo, bảo vệ chất lượng
nước, không khí, công nghiệp hóa sạch,…