Các
Cáckhía
khíacạnh
cạnhpháp
pháplýlývềvềtập
tậptrung
trungkinh
kinhtếtế- -thực
thựctrạng
trạngvàvàkiến
kiếnnghị
nghị
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÀN THƠ
KHÒA LUẬT
Bộ MÔN LUẬT KINHDOÂNH & THƯƠNG MẠI
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP cử NHÂN LUẬT
KHÓA 33 (2007-2011)
CÁC KHÍ A CẠNH PHÁP LÝ VỀ TẬP TRUNG
KINH TẾ - THƯC TRẠNG VÀ KIẾN NGHI
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Ths. Nguyễn Mai Hân
Nguyễn Phước Quan Thái
MSSV: 5075143
GVHD:
GVHD:Ths.
Ths.Nguyên
NguyênMai
MaiHân
Hân
12
SVTH:
SVTH:Nguyễn
Nguyễnphước
phướcQuan
QuanThải
Thải
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
3
SVTH: Nguyễn phước Quan Thải
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
MỤC LỤC
PHÀN MỞ ĐÀU............................................................................... .............................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ.............................3
1.1..................................................................................................................................... T
ập trung kinh tế và nhu cầu kiểm soát tập trung kinh tế..................................................3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tập trung kinh tế....................................................3
1.1.1.1........................................................................................................................ K
hái niệm về tập trung kinh tế....................................................................................3
1.1.1.2........................................................................................................................ N
hững đặc điểm mang tính bản chất của tập trung kinh tế........................................6
1.1.2. Nguyên nhân và những tác động của tập trung kinh tế....................................8
1.1.2.1........................................................................................................................ N
guyên nhân dẫn đến tập trung kinh tế......................................................................8
1.1.2.2. Những tác động của tập trung kinh tế........................................................10
1.1.3. Các hình thức tập trung kinh tế.........................................................................12
1.1.3.1........................................................................................................................ D
ựa vào mức độ liên kết..............................................................................................12
1.1.3.2. Dựa vào vị trí của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong các
cấp độ
kinh doanh của ngành kinh tế - kỹ thuật..................................................................12
1.1.3.3........................................................................................................................ C
ác hình thức tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh................................................14
1.1.4. Nhu cầu kiểm soát tập trung kinh tế.................................................................15
1.2. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế trên thế giới và quá trình phát triển pháp luật
CHƯƠNG 2. QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ..............................24
2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về tập trung kinh tế................................24
2.1.1.Những chế định pháp luật liên quan đến tập trung kinh tế trong Bộ luật Dân sự
năm
2005..........7........!....„...7.... ..........!.... ........ .........7....................... .... ........... ........24
2.1.2.Những
kinh
tế tế
trong
Luật
Cạnh
tranhkhoán
năm 2004............25
2.1.5. Nhữngquy
quyđịnh
địnhvềvểtậptậptrung
trung
kinh
trong
Luật
Chứng
năm 2006, Luật
sửa đối,
bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010. .Error! Bookmark not deíĩned.
2.1.6. Những quy định về tập trung kinh tế trong Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010Error!
Bookmark not deíìned.
2.1.7. Nhận xét về mối liên hệ giữa các Luật về tập trung kinh tế.............................42
2.2. Kiểm soát tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh.......Error! Bookmark not deíìned.
2.2.1. Các hình thức tập trung kinh tế bị cấm.............................................................44
2.2.2. Các hình thức tập trung kinh tế cần kiểm soát và thủ tục thông báo tập trung
kinh
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
4
SVTH: Nguyễn phước Quan Thải
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
2.2.3. Tập trung kinh tế được tự do thực hiện............................................................49
2.2.4. Tập trung kinh tế được miễn trừ và thủ tục miễn trừ ...Error! Bookmark not
deíìned.
2.2.4.1. Các trường hợp tập trung kinh tế được miễn trừ ...Error! Bookmark not
deíìned.
2.2.4.2. Thủ tục thực hiện các trường họp miễn trừ...Error! Bookmark not deíĩned.
2.2.5. Quy định về xử lý vi phạm quy định về tập trung kinh tế Error! Bookmark not
deíìned.
2.2.5.1. Chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm Error! Bookmark not deíìned.
2.2.5.2. Cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm quy định về tập trung kinh tế
Error!
Bookmark not deíìned.
CHƯƠNG 3. THựC TRẠNG VÈ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TÉ TẠI VIỆT
NAM-KIẾN NGHỊ..............................................................Error!
Bookmark
not
deíĩned.
3.1........................................................................................ Thực trạng về tập trung kinh
tế tại Việt Nam.................................................................... Error! Bookmark not deíĩned.
3.1.1. Các điều kiện khách quan tác động đến xu thế tập trung kinh tế Error!
Bookmark
deíĩned.
not
3.1.2. Tình hình tập trung kinh tể trên thế giới và tại Việt Nam...............................61
3.1.2.1. Một số giao dịchM&A điển hình..................Error! Bookmark not deíìned.
3.1.2.2. Một số vụ sáp nhập điển hình của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.3...........................................................................................................................Ki
ến nghị về chính sách và môi trường pháp lý..................................................75
3.4...........................................................................................................................Ki
KẾT LUẬN............................................................................Error! Bookmark not deíĩned.
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
5
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
MỤC LỤC BIỂU BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Minh họa doanh nghiệp nhỏ và vừa.......................................................................51
Bảng 3.1 Một số giao dịch M&A điển hình............................................................................64
Bảng 3.2 Một số vụ sáp nhập điển hình..................................................................................66
Bảng 3.3 Một số vụ thâu tóm điển hình..................................................................................67
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
6
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự vận hành và phát hiển của vạn vật trong đời sống nhân loại là những quy tự
nhiên. Sự xuất hiện của một hình thái kinh tế mói nhu là một xu huớng tất yếu trong sự
vận hành đó. Trong quy luật này, hình thái kinh tế thị trường ra đời, nó được xem là sự
phát triển vĩ đại trong lịch sử phát triển văn minh của nhân loại. Cho đến nay chúng ta
chưa tìm ra được một hình thái kinh tế nào hiệu quả hơn kinh tế thị trường. Bởi lẽ nó luôn
hàm chứa trong mình những thách thức đối với sự nhạy bén và sáng tạo của con người,
thông qua môi trường cạnh tranh.
Trong quá hình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, Việt Nam đang dần
khẳng định mình là bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thế giới trước xu hướng toàn
cầu hóa. Thị trường ngày càng phát hiển thịnh vượng thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Sự gia tăng các hoạt động tập trung kinh tế như một đòi hỏi khách quan. Để thực hiện tập
trung kinh tế cần phải có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp khác nhau trên thị trường. Sau
khi tập trung lại thì thị phần của doanh nghiệp cũng như số cơ cấu cạnh tranh cũng sẽ thay
đổi. Có thể các nguồn lực thị trường sẽ được sử dụng tập trung và hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, hoạt động tập trung kinh tế cũng tiềm ẩn những yếu tố hình thành các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh hên thị trường. Neu trường họp này xảy ra sẽ dẫn đến việc gây
hạn chế cạnh tranh và nếu tồn tại doanh nghiệp có vị trí độc quyền thì chắc chắn sẽ đi đến
thủ tiêu cạnh tranh. Rõ ràng việc tập trung kinh tế sẽ ảnh hưởng không nhỏ đối với cạnh
tranh và nền kinh tế thị trường.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, sự gia tăng của
các tập đoàn đa quốc gia tại các nước đang phát triển và nhiều tiềm năng như Việt Nam là
một xu thế tất yếu. Thêm vào đó là thực trạng của nền kinh tế với khoảng 90% là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ mà áp lực mở cửa nền kinh tế buộc các doanh nghiệp Việt Nam
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
7
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
phải cạnh tranh ngang bằng với các đối thủ quốc tế mạnh hơn về nhiều phuơng diện.
Chính vì không ngang sức trên cùng một sân chơi nhu vậy mà các doanh nghiệp đã thực
hiện nhiều phuơng cách khác nhau để tiếp tục đứng vững. Đôi khi phuơng cách đó làm
ảnh huởng xấu tới môi trường cạnh tranh như gây hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh
không lành mạnh. Vì thế mà cần có sự điều chỉnh của pháp luật và pháp luật cạnh tranh
đã ra đời. Nhằm tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh
tranh minh bạch, lành mạnh, công bằng, tuân thủ các cam kết của Việt Nam khi gia nhập
Tổ chức Thương mại quốc tế. Đồng thời cũng phù họp với các thông lệ quốc tế theo
nguyên tắc bảo vệ được cơ cấu cạnh tranh hiệu quả của thị trường vừa không xâm phạm
đến quyền tự do kinh doanh. Chính vì sự cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật để
tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, xây dựng nên cái nhìn tổng quát hơn về môi
trường pháp lý cho hành vi tập trung kinh tế mà người viết đã chọn đề tài “Các khía cạnh
pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Phạm vỉ nghiên cứu
Pháp luật cạnh tranh được hợp thành từ hai yếu tố: pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh. Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ
tập trung vào vấn đề các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - một trong ba bộ phận cấu
thành nên pháp luật chống hạn chế cạnh tranh. Trong phạm vi này, đề tài nhấn mạnh một
số vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi tập trung kinh tế và
thực hạng vấn đề này tại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm hướng tới một cái nhìn tổng quát hơn về môi trường pháp lý xung quanh vấn
đề tập trung kinh tế, người viết tập trung vào các hoạt động tập trung kinh tế cần được
điều chỉnh bởi khuôn khổ pháp lý về cạnh tranh và có sự giám sát, kiểm soát của cơ quan
quản lý nhà nước. Từ đó làm rõ các vấn đề lý luận cũng như cơ sở pháp lý nhằm tạo nên
một bức tranh tổng thể về tập trung kinh tế và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động này tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng
như phân tích những quy định của luật viết, thống kê, phân tích và tổng hợp các số liệu về
tập trung kinh tế. Để từ đó phân tích và tổng họp lại các vấn đề về lý luận, pháp lý cũng
như thực trạng tập trung kinh tế tại Việt Nam.
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
8
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
- Chương 1. Khái quát chung về tập trung kinh tế.
- Chương 2. Quy chế pháp lý về tập trung kinh tế.
- Chương 3. Thực trạng tập trung kinh tể tại Việt Nam, kiến nghị.
Luận văn được hoàn thành với cố gắng của bản thân và sự hướng dẫn tận tình của
giáo viên hướng dẫn Nguyễn Mai Hân. Xin gửi đến cô lời cám ơn chân thành và sâu sắc!
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh và có những biến chuyển
sâu sắc. Nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức Thương mại quốc tế WTO
cùng với xu hướng xây dựng một cộng đồng kinh tế các nước Đông Nam Á (ASEAN).
Với tốc độ phát triển kinh tế nhanh và sự gia tăng của các dự án đầu tư trong một nền
kinh tế thị trường mở thì sự cạnh tranh của tất cả các doanh nghiệp lẫn trong và ngoài
nước là rất lớn. Nhằm khẳng định vị thế vững chắc của mình hoặc tìm một cơ hội tồn tại
trên thương trường thì tập trung kinh tế là một trong số những hình thức được các doanh
nghiệp lựa chọn thực hiện để đáp ứng cho nhu cầu trên. Hành vi tập trung kinh tế có thể
giúp các doanh nghiệp giải quyết được các vấn đề về tài chính khi sắp lâm vào tình trạng
phá sản, giải thể và tạo ra vị thế cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, có
trường hợp các doanh nghiệp có thế lực kinh tế mạnh tranh thủ thâu tóm và thống lĩnh thị
trường bằng hình thức này và gây ra hạnh chế cạnh tranh. Hành vi tập trung kinh tế tuy đã
được nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh nhưng nó vẫn được xem là khá mới so với Việt
Nam nhất là khi các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm. Trước các vấn
đề xảy ra như vậy, thì trong chương 1 người viết đề cập đến các vấn đề mang tính khái
quát chung về tập trung kinh tế để có một cái nhìn tổng quan và một cách hiểu cụ thể về
hành vi này. Từ đó làm cơ sở cho việc phân tích các vấn đề liên quan đến hành vi này
như: hành lang pháp lý hay thực trạng tập trung kinh tế tại Việt Nam ở các chương tiếp
theo.
1.1. Tập trung kỉnh tế và nhu cầu kiểm soát tập trung kỉnh tế
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm cửa tập trung kinh tế
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
9
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
1
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, tr.230.
Lê Viết Thái,
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị Chuyên đề nghiên cứu về hành vi tập trung kinh tế,
đề
tài
nghiên cứu về thể chế cạnh tranh tại Việt
Nam ừong
điều kiện
phát triển
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường và xu hướng gia nhập kinh tế toàn kinh tế
thị trường
tại Việt
Nam, Việncầu đã tạo ra sự thu hút và lôi cuốn các quốc gia giao lưu kinh tế với quốc gia mình. nghiên
cứu thương
Chính sự giao lưu đó mà thị trường trong nước đã đón nhận thêm nhiều doanh nghiệp, mại - Bộ
Thương
mại,
3
Ở đây tư bảncông ty, nhà đầu tư nước ngoài...Từ đây ngoài việc cạnh tranh với các đối thủ sẵn có lúc được
hiểu là các
giá
trị
kinh tế ữênbấy giờ, các doanh nghiệp còn phải cạnh tranh vói các doanh nghiệp, công ty nước ngoài. thị
trường
trường
Môi trường cạnh tranh cũng từ đó mà trở nên gay gắt hơn.
dùng để tìm
kiếm giá
ữị thặng dư
Dưới sức ép của cạnh tranh, nhà kinh doanh luôn tìm mọi cách để nâng cao năng lực như vốn,
công
nghệ, trìnhkinh doanh của mình trước đối thủ và thị trường nhằm tìm kiếm cơ hội tồn tại và phát độ quản
lý,...
hiển. Lịch sử hình thành của các loại công ty đã cho thấy phương cách ngắn nhất để các
4
Viện ngôn ngữ
học, Từ
điển tiếngthương nhân thời trung cổ nâng cao năng lực cạnh tranh là liên kết về vốn và khả năng Việt,
Nxb. Khoa
học
xã
1
hội, 1994,quản lý trong quá trình kinh doanh . Từ đó trở đi với nhu cầu tìm kiếm một năng lực kinh tr.870.
2
doanh mới, các nhà kinh doanh đã biết tập trung các nguồn lực kinh tế từ thời kỳ phôi thai
của thị trường. Ngày nay, hình thức tập trung nguồn lực kinh doanh đã diễn ra khá phổ
biến với những mức độ khác nhau và trở thành một phần quan họng của quyền tự do kinh
doanh.
Hình thức này được nhìn nhận như một quá trình gắn liền với việc hình thành và
thay đổi cấu trúc thị trường, tập trung kinh tế được hiểu là quá trình mà số lượng các
doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập
(theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp hên cơ sở mở
rộng năng lực sản xuất2. Với cách tiếp cận này giúp làm rõ được nguyên nhân và hậu quả
của tập trung kinh tế đối với cấu trúc thị trường và cũng coi tích tụ là một phần của tập
trung kinh tế. Theo học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác-Lênin thì tích tụ tư bản
là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư trong một
xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
Với tư cách là hành vi của các doanh nghiệp, tập trung kinh tế còn được hiểu là tăng
thêm tư bản3 do hợp nhất nhiều tư bản lại hay một tư bản này thu hút một tư bản khác 4 mà
có thể gọi nôm na là tập trung tư bản. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin tập trung tư bản là sự
tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản có sẵn trong xã hội
thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẫy mạnh
2005.
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
10
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
5
Bộ
Giáo dục
2010, tr.257.
và đào tạo, Giáo trinh
Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Nxb.
Chính trị quốc gia,
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sáp
nhập các tư bản cá biệt. Và tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn, sử
dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Bởi lẽ tập trung tư bản và tích tụ là hai quá
trình có mối quan hệ mật thiết và gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên quá trình tích lũy tư
bản. Cả hai quá trình này đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, nhưng giữa chúng có
những điểm khác nhau cơ bản: một là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó
tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư bản
xã hội. Còn nguồn của tập trung tư bản là những tư bản cá biệt sẵn có trong xã hội, do đó
tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt mà không làm tăng quy mô của tư
bản xã hội. Hai là, do nguồn của tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, nó phản
ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động; nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động
làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn nguồn của tập trung tư bản là những tư
bản cá biệt sẵn có trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn tới liên kết hay sáp nhập. Tích tụ và
tập trung tư bản có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô
và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn tới tập trung gay gắt
hơn5.
Dưới góc độ của pháp luật, Luật Cạnh tranh năm 2004 không định nghĩa thế nào là
tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là tập trung kinh tế. Theo đó khoản 3
điều 3 khẳng định tập trung kinh tế là hành vi hạn chế cạnh tranh. “Hành vi hạn chế cạnh
tranh” là hành vi tác động xấu đến cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thông qua việc
làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh như các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Hành vi
hạn chế cạnh tranh được thực hiện bởi một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp này đã có sức mạnh nhất định trên thị trường hoặc hướng đến việc hình
thành nên sức mạnh thị trường bằng cách thức thỏa thuận tập trung kinh tế. Các doanh
nghiệp này tận dụng sức mạnh mà mình nắm giữ để nhằm thực hiện mục tiêu làm biến
dạng cạnh tranh. Sự biến dạng đó có thể làm thay đổi cấu trúc thị trường, thay đổi mối
quan hệ tương quan giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ cạnh tranh, ngăn cản đối thủ
tiềm năng để làm giảm sức ép cạnh tranh hiện có hoặc sẽ có trong tương lai, bóc lột khách
hàng,... Đối với hành vi tập trung kinh tế thì chỉ có các trường hợp tập trung kinh tế tạo ra
trên 50% thị phần kết hợp trên thị trường liên quan mới tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
11
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
6
7
Khoản 1 điều 4 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính Phủ quy đinh chi tiết thi hành
Luật Cạnh
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị tranh.
Khoản lđiều 7
Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm
2005
của
Chính
Phủ
quytranh, tương ứng với quy định tại Điểm 2.a - Điều 11 về doanh nghiệp, nhóm doanh định chi
tiết thi hành
Luật Cạnhnghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Như vậy, không phải trường hợp tập trung kinh tế ừanh.
nào cũng gây hạn chế cạnh tranh.
Điều 16 quy định tập trung kinh tể là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: sáp nhập
doanh nghiệp; họp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh
nghiệp; các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Điều luật quy định
cụ thể các dạng tập trung kinh tế và các hình thức tập trung kinh tế khác. Theo đó “Tập
trung kinh tế” là là khái niệm dùng để chỉ cách thức tích tụ, tập trung của doanh nghiệp
hên thị trường nhằm hình thành các doanh nghiệp lớn hơn.
1.1.1.2. Những đặc điểm mang tính bản chất của tập trung kinh tế
Từ những khái niệm được phân tích ở hên, có thể đưa ra vài dấu hiệu cơ bản của
hành vi tập trung kinh tế như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị
trường. Các doanh nghiệp đó có thể là các doanh nghiệp đang cùng hoặc không cùng hoạt
động trên thị trường liên quan. Theo Nghị định 116/2005/NĐ của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, thi Mục 1 chương II hướng dẫn xác định thị
trường liên quan. Có hai loại thị trường liên quan là: thị trường sản phẩm liên quan và thị
trường địa lý liên quan. Theo đó, thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những
hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả 6.
Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có các hàng hóa, dịch vụ
có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tụ và có sự khác biệt đáng kể
với các khu vực địa lý lân cận 7. Mặt khác, từ dấu hiệu này, có thể phân biệt hành vi tập
trung kinh tế của các doanh nghiệp với hoạt động đầu tư vào những doanh nghiệp của các
nhà đầu tư không phải là doanh nghiệp. Hiểu rằng các cá nhân cũng có thể là các nhà đầu
tư. Với vai trò là nhà đầu tư, các cá nhân có thể góp vốn vào nhiều doanh nghiệp và lúc
đó các cá nhân này trở thành những đồng chủ sở hữu của các đơn vị kinh doanh. Rõ ràng
những doanh nghiệp được góp vốn theo kiểu như vậy cho dù có chung chủ sở hữu nhưng
cũng không thuộc phạm vi của khái niệm tập trung kinh tế. Luật Cạnh tranh năm 2004
quy định phạm vi của khái niệm doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế và hộ kinh doanh cá thể. Song điều đó không có nghĩa là chủ thể của
hoạt động tập trung kinh tế bao gồm toàn bộ những chủ thể nói hên. Mà với mỗi hình
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
12
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
8
Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, 1994, tr.948.
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
thức tập trung kinh tế khác nhau sẽ có giới hạn khác nhau về chủ thể tham gia nhất định.
Khi đối chiếu các hành vi tập hung kinh tế: hợp nhất, sáp nhập, mua lại và liên doanh với
các quy định có liên quan đến chúng trong pháp luật về doanh nghiệp có thể thấy rằng:
chủ thể của hành vi sáp nhập, họp nhất chỉ có thể là các doanh nghiệp.
Thứ hai, hình thức tập trung kinh tế bao gồm sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên
doanh giữa các doanh nghiệp. Đe thực hiện tập trung kinh tế đòi hỏi phải có sự tồn tại của
nhiều doanh nghiệp khác nhau trên thị trường. Các doanh nghiệp đó đã liên kết khả năng
kinh doanh bằng cách tích tụ các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực
quản lý, tổ chức kinh doanh mà chúng đang nắm giữ riêng lẻ để hình thành để hình thành
một khối thống nhất. Dấu hiệu này giúp khoa học pháp lý phân biệt tập trung kinh tế với
việc tích tụ tư bản trong kinh tế học. Tích tụ tư bản là tăng thêm tư bản dựa vào tích lũy
giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản 8. Có thể thấy rằng, tích tụ tư
bản là quá trình phát hiển nội sinh của một doanh nghiệp theo thời gian bằng kết quả kinh
doanh. Một doanh nghiệp có thể tích tụ tư bản để có được vị trí đáng kể trên thị trường,
song để điều đó xảy ra đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, tập trung kinh
tế cũng có dấu hiệu của sự tích tụ nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi của
doanh nghiệp.
Thứ ba, về hậu quả của tập trung kinh tế. Cũng như những hành vi kinh tế khác,
hành vi tập trung kinh tế mang lại những hậu quả riêng cho nó. Đó chính là hình thành
nên các tập đoàn kinh tế, thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị
trường. Cụ thể như sau: hành vi này sẽ hình thành nên các tập đoàn kinh tế. Thông qua
việc mua lại hoặc liên doanh sẽ hình thành các liên kết giữa các doanh nghiệp độc lập
theo mô hình sở hữu để tạo ra nhóm kinh doanh theo kiểu tập đoàn, một kết quả rất quan
họng mà nền kinh tế phải kể đến. Sự hình thành nên tập đoàn như vậy có tác động rất lớn
đến nền kinh tế. Sau khi được hình thành và đi vào hoạt động, các tập đoàn kinh tế đã tích
cực đầu tư, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động; cơ cấu lại và đa dạng hóa sở hữu các
đơn vị thành viên; kinh doanh đa ngành, trong đó tập trung vào ngành nghề chính; huy
động được các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu họng điểm, các chiến lược phát triển
quan trọng; tích cực nghiên cứu, hiển khai ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới vào
sản xuất, kinh doanh, chú họng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ
quản lý, kỹ thuật, tay nghề của đội ngũ công nhân kỹ thuật và người lao động trong các
doanh nghiệp, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng thành tập đoàn
kinh tế mạnh, có tầm cỡ trong khu vực. Với Việt Nam, sự hình thành các tập đoàn kinh tế
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
13
SVTH: Nguyễn phước Quan Thải
9
Ts. Lê Danh Vũủi - Ths. Nguyễn Ngọc Sơn - Hoàng Xuân Bắc, Pháp luật canh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư Pháp,
2006,
tr.
412.
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
làm nòng cốt để Việt Nam chủ động và thực hiện có hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Tập đoàn kinh tế có vai trò tích cực không những có đối với sự phát hiển kinh tế mà nó
còn tác động thúc đẩy sự tiến bộ trong các lĩnh vực khác nhu vãn hóa, xã hội, kỹ thuật
công nghệ lẫn an ninh quốc phòng. Bên cạnh những tác động tích cực, tập đoàn kinh tế
cũng mang lại cho thị truờng nhiều tiêu cực. Sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp
làm hạn chế cạnh tranh trong nội bộ một ngành. Và quá trình liên kết kinh tế ở giai đoạn
liên hợp hoá diễn ra liên tục nếu không bị giói hạn bởi những điều kiện chính trị, kinh tế,
xã hội nào đó ràng buộc, sẽ có xu huớng liên hợp hoá theo ngành rất cao hình thành
những tập đoàn, công ty, liên hiệp có tính độc quyền trong một ngành, một lĩnh vực nào
đó. Từ đây làm ảnh huởng đến môi truờng cạnh tranh khi các tập đoàn đó lạm dụng sự
độc quyền để thống lĩnh thị truờng, chèn ép các đối thủ khác.
Ngoài ra, các hình thức sáp nhập hay hợp nhất giữa các doanh nghiệp còn làm cho
cấu trúc thị truờng thay đổi. Biểu hiện cho sự thay đổi đó chính là sự giảm đi của các
doanh nghiệp đang hoạt động bằng cách dồn tất cả các năng lực vào một doanh nghiệp
duy nhất. Và doanh nghiệp đó đuợc gọi là doanh nghiệp đuợc sáp nhập hoặc doanh
nghiệp mới hình thành. Điều đó dẫn đến kết quả là làm giảm số luợng các doanh nghiệp
hên thị trường. Bên cạnh đó, thì việc sáp nhập, họp nhất, mua lại hay liên doanh giữa các
doanh nghiệp cũng làm thay đổi vai trò hiện có của các doanh nghiệp. Từ chỗ là đối thủ
cạnh tranh của nhau, nay do các hành vi ứên mà họ đã không còn cạnh tranh với nhau nữa
mà trở thành một khối thống nhất hay liên minh của nhau. Và dù tập trung được thực hiện
theo mô hình tích tụ hay liên kết năng lực kinh doanh thì cuối cùng đều dẫn đến hậu quả
là thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường9.
1.1.2. Nguyên nhân và những tác động của tập trung kinh tế
1.1.2.1. Nguyên nhân dẫn đến tập trung kinh
tế
a) Từ góc độ kinh tế
Được nhìn nhận dưới góc độ kinh tế, có thể nói tập trung kinh tế ra đời từ các
nguyên nhân cơ bản sau:
Một là do sức ép của cạnh tranh trong đời sống kinh doanh. Quá trình chuyển đổi
nền kinh tế sang cơ chế thị trường và kinh tế Việt Nam đang dần khẳng định mình là bộ
phận không thể thiếu của nền kinh tế thế giới trước xu hướng toàn cầu hóa. Việt Nam lại
trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và xu thế xây dựng một cộng
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
14
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
10
Ts. Lê Danh Vĩnh - Ths. Nguyễn Ngọc Sơn - Hoàng Xuân Bắc, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư Pháp,
2006, ừ. 417.
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
phát triển thịnh vượng và đồng hành với nó là sự khốc liệt của cạnh tranh. Trong một
cuộc cạnh tranh tất yếu sẽ có sự chênh lệch về các nguồn lực kinh tế giữa các doanh
nghiệp. Và doanh nghiệp nào nắm trong tay nhiều lợi thể hơn về nguồn lực sẽ ở vào vị trí
ưu thể hơn so với các đối thủ còn lại. Chính vì vậy mà trong môi trường cạnh tranh sẽ có
hai khả năng xảy ra là: các nhà kinh doanh tìm mọi cách làm sao với thời gian ngắn nhất
để họ có được vị trí cạnh tranh tối ưu trên thị trường; còn các doanh nghiệp đang ở vào vị
trí yếu thế hơn cần tập họp thành liên minh hay những đơn vị to lớn nhằm tìm kiếm cơ
hội tồn tại trước những đối thủ lớn hơn đang chèn ép họ. Cả hai trường họp nói trên đều
dẫn đến kết quả là các doanh nghiệp đang từ đối đầu trở thành những đơn vị liên kết và
không còn cạnh tranh với nhau nữa. Thành ra, sự tập trung kinh tế bắt nguồn ở cạnh tranh
nhưng kết quả của nó lại là tiêu diệt cạnh tranh.
Hai là do sức ép của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong đời sống kinh doanh, các
doanh nghiệp không chỉ đối mặt với các đối thủ cạnh tranh mà còn phải cùng nhau đương
đầu với những khó khăn mà thị trường mang lại cho họ. Quá trình phát hiển kinh tế quốc
tế đã không ít lần gặp phải những khó khăn trầm trọng, những cuộc khủng hoảng với sức
ảnh hưởng to lớn. Nó tác động không những ở diện rộng trên toàn thế giới mà còn lẫn
chiều sâu khi để lại những hậu quả nghiêm họng. Lịch sử đã chứng minh rằng mỗi khi thị
trường xảy ra khủng hoảng thì một trong những giải pháp đối với doanh nghiệp là tập
trung lại để nương tựa vào nhau hòng tìm kiếm cơ hội tồn tại. Các doanh nghiệp đã phải
liên kết, tập trung lại với nhau để tổng họp các khả năng kinh tế nhằm có thể vượt qua
những khó khăn mà cuộc khủng hoảng mang lại. Và tập trung kinh tế xuất phát từ nhu cầu
cấp thiết đó.
Ba là do nhu cầu phát hiển kinh doanh từ thị trường. Sự xuất hiện nhiều ngành nghề
kinh doanh mới và nhu cầu đầu tư phát hiển khoa học kỹ thuật luôn đặt ra nhu cầu hợp
tác trong kinh doanh. Ngoài ra, thực tế phát hiển thị trường đã nảy sinh nhiều nhu cầu
nghiên cứu phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Mà từng doanh nghiệp riêng lẻ khó
có thể giải quyết được nhu cầu đó. Chính vì vượt quá khả năng của một doanh nghiệp nên
phương cách để các doanh nghiệp giải quyết đó là tập trung các nguồn lực giữa họ với
nhau bằng những hình thức như sáp nhập, hợp nhất...10
b) Dưới góc độ pháp lý
Trong khuôn khổ của pháp luật thì các doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế dựa
hên những nguyên tắc sau:
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
15
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
11
Ts. Lê Danh Vĩnh - Ths. Nguyễn Ngọc Sơn - Hoàng Xuân Bắc, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư Pháp,
2006, ừ. 419.
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
Thứ nhất, chính là quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp đã được thừa nhận
trong Hiến pháp. Biểu hiện cho quyền này là doanh nghiệp tự định đoạt các vấn đề phát
sinh trong nội bộ doanh nghiệp mình. Chẳng hạn như quyết định ngành nghề kinh doanh,
kể hoạch và phương hướng kinh doanh.. .Ngoài ra doanh nghiệp còn có quyền tự do liên
kết trong kinh doanh. Bằng việc một doanh nghiệp có quyền tự chủ trong liên kết đầu tư
hoặc là liên minh góp vốn để thành lập các chủ thể kinh doanh mới.
Thứ hai, pháp luật về thương mại của hầu hết các nước cũng đã thừa nhận doanh
nghiệp có quyền tự thay đổi quy mô theo nhu cầu kinh doanh. Pháp luật về doanh nghiệp
của Việt Nam cũng quy định khá rõ các quyền này. Thông qua các biện pháp nhằm tổ
chức lại như sáp nhập, họp nhất, chuyển đổi hình thức kinh doanh... được xem như các
biện pháp căn bản để doanh nhân thích ứng với các biến động của thị trường. Trên cơ sở
đó họ tự tạo cho mình một năng lực kinh doanh phù họp.
1.1.2.2. Những tác động của tập trung kinh tế11
Lịch sử phát hiển của thị trường đã nói lên rằng tập trung kinh tế từng diễn ra như
một hiện tượng, một trào lưu. Nó đồng thời mang theo những tác động đáng kể đối với
nền kinh tế. Và những tác động đó được phân tích dưới hai góc độ như sau: từ lợi ích của
các doanh nghiệp tham gia và từ thị trường cạnh tranh.
Thứ nhất, từ góc độ lợi ích cửa các doanh nghiệp tham gia. Các doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế đã tiến hành hợp nhất, sáp nhập, mua lại hay liên doanh với
nhau. Bởi lẽ hình thức này mang lại cho họ nhiều lợi ích. Một là, đây là con đường ngắn
nhất để giải quyết cho nhu cầu tích tụ các nguồn lực kinh doanh của các doanh nghiệp
nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp đã tập trung các nguồn
lực mà từng doanh nghiệp nắm giữ riêng lẻ thành một khối thống nhất hoặc do một tập
đoàn quản lý chung. Hình thức này đã tạo ra khả năng đầu tư lớn hơn với sức mạnh tổng
hợp để có thể giải quyết nhiều vấn đề được đặt ra từ thị trường mà mỗi doanh nghiệp khó
có thể giải quyết hiệt để. Các vấn đề đó như là: tập trung vốn để nâng cao khả năng đầu
tư kinh doanh, mở rộng thị trường, tập trung khả năng về chất xám để đầu tư phát triển
khoa học kỹ thuật,...Vì vậy mà tập trung kinh tế được coi là cách thức không tốn nhiều
thời gian để hình thành nên quyền lực thị trường. Hai là, tập trung kinh tể tạo ra khả năng
hợp tác sâu sắc trong kinh doanh. Các hành vi mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp
đã hình thành nên các liên minh hoặc nhóm doanh nghiệp có mối quan hệ sở hữu hoặc
đầu tư với nhau. Các doanh nghiệp này phối hợp với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Và sự tồn tại
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
16
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
của nhóm doanh nghiệp đã tạo ra các hình thức họp tác khép kín nếu như sự tập trung
diễn ra theo chiều dọc (giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành kinh tế - kỹ thuật
nhưng ở những công đoạn khác nhau của quá trình kinh doanh); hoặc hỗ trợ trong quản
lý, hoặc giúp các doanh nghiệp chia sẻ rủi ro khi thị trường có biển động cũng như tìm co
hội dựa vào nhau vượt qua những khó khăn. Ba là, việc tập trung kinh tế giữa các doanh
nghiệp đưa đến một kết quả là các doanh nghiệp không còn cạnh tranh với nhau nữa. Từ
vai trò là đối thủ cạnh tranh của nhau, các doanh nghiệp tham gia vào việc sáp nhập, hợp
nhất, mua lại hay liên doanh đã không còn cơ hội cạnh tranh với nhau. Bởi lẻ sau khi tiến
hành hợp nhất, sáp nhập các doanh nghiệp đã hợp lại với nhau để hình thành nên một chủ
thể duy nhất. Hay tạo ra mối quan hệ một nhà bằng hành vi mua lại hoặc liên doanh. Bốn
là, tập trung kinh tế cũng là một trong số các giải pháp hiệu quả cho các doanh nghiệp
trong việc cơ cấu lại hoạt động kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp
không tránh khỏi tác động của thị trường và các yếu tố khách quan cũng như chủ quan
khác. Đôi khi các doanh nghiệp phải tiến hành thay đổi hình thức kinh doanh, hay vì nhu
cầu kinh doanh thay đổi. Những biến động đó tạo cho doanh nghiệp nhiều khó khăn trong
kinh doanh, đòi hỏi họ cần phải tiến hành các chiến lược cơ cấu lại cho phù hợp với thị
trường kinh doanh. Và tập trung kinh tế là một giải pháp tốt cho các tình huống như vậy.
Thứ hai, dưới góc độ của thị trường cạnh tranh. Chính môi trường cạnh tranh
trong kinh doanh đã khiến các doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện hành vi tập trung
kinh tế. Hành vi này cũng tác động ngược lại đối với thị trường. Tập trung kinh tế tạo ra
nhiều thay đổi trong cơ cấu và tương quan cạnh tranh hên thị trường. Một là, tập trung
kinh tế làm thay đổi số lượng doanh nghiệp hiện có trên thị trường. Sự sáp nhập hay hợp
nhất giữa các doanh nghiệp đã làm cho doanh nghiệp bị sáp nhập hay họp nhất chấm dứt
tồn tại để chuyển giao toàn bộ năng lực kinh doanh vào một chủ thể duy nhất. Từ đó làm
giảm số lượng các doanh nghiệp trên thị trường. Và sự thay đổi đó có tác động theo hai
hướng: hoặc là các nguồn lực được tập trung và sử dụng hiệu quả, tránh tình trạng manh
mún nhỏ lẻ và hiệu quả chung cho xã hội cũng sẽ lớn hơn; hoặc là các nguồn lực cũng
được tập trung sang mô hình độc quyền nhóm hay doanh nghiệp có quyền lực thị trường.
Sự thay đổi số lượng các doanh nghiệp theo phương thức tập trung vốn, thị trường hoặc
các nguồn lực kinh tế khác sẽ làm thay đổi cấu trúc doanh nghiệp trên thị trường và hình
thành nên những doanh nghiệp đủ lớn để chi phối các yếu tố của thị trường. Hai là, tập
trung kinh tế làm thay đổi tương quan cạnh tranh hên thị trường. Hành vi này làm xuất
hiện một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp là tổng năng lực cạnh tranh của tất
cả các doanh nghiệp tham gia. về cơ bản, tập trung kinh tế sẽ không làm giảm vị trí cạnh
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
17
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
12
Ts. Lê Danh Vĩnh - Ths. Nguyễn Ngọc Sơn - Hoàng Xuân Bắc, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb. Tư Pháp,
2006, ừ. 426
- 427.
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
tranh của các doanh nghiệp không tham gia, song hành vi này lại làm thay đổi mối quan
hệ giữa họ với doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế so với truớc đó. Sự xuất hiện đột
ngột một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có quan hệ sở hữu với nhau đã làm cho
tương quan, mức độ và thái độ cạnh tranh trên thị trường thay đổi so với trước khi có hiện
tượng này xảy ra. Ba là, hành vi tập trung kinh tế đôi khi cũng được coi là biện pháp cơ
cấu lại thị trường. Chúng có tác dụng tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế
nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế. Mặc dù tập trung kinh tế góp phần cơ cấu
lại doanh nghiệp, làm giảm số lượng doanh nghiệp song không làm thay đổi giá trị đầu tư
trên thị trường. Thêm vào đó là sự manh mún của quy mô đầu tư nhỏ lẻ sẽ làm cho thị
trường kém phát triển. Tập trung kinh tế lúc này được xem như biện pháp cơ cấu lại quy
mô kinh doanh trên thị trường. Điều này phù họp với quy luật phát triển của nền kinh tế
thị trường, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp phải đương
đầu với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia hùng mạnh với tiềm lực tài chính và kinh nghiệm
kinh doanh lâu đời. Đó sẽ là những thách thức khá lớn đối với các doanh nghiệp ở những
nước đang phát triển. Đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt
Nam. Chính nhu cầu nâng cao khả năng cạnh tranh, gia nhập vào thị trường khu vực và
thế giới, đòi hỏi tất yếu là các doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực kinh tế hình
thành nên các tập đoàn hay liên minh có sức mạnh tài chính, kỹ thuật, công nghệ 12.
1.1.3. Các hình thức tập trung kinh tế
1.1.3.1. Dựa vào mức độ liên kết
Dựa vào mức độ liên kết, hành vi tập trung kinh tế được chia thành hai loại là tập
trung kinh tế chặt chẽ (tổ hợp) và tập trung kinh tế không chặt chẽ.
Thứ nhất, tập trung kinh tế chặt chẽ được hiểu là các doanh nghiệp có mối liên hệ
chặt chẽ, liên quan với nhau sẽ liên kết với nhau để tạo nên một thể thống nhất. Điều đó
thể hiện bằng việc các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chấm dứt sự tồn tại để
hình thành nên một doanh nghiệp thống nhất ở phương diện pháp lý lẫn quản trị doanh
nghiệp. Hình thức này thường được thực hiện bằng các biện pháp sáp nhập, hợp nhất các
doanh nghiệp.
Thứ hai, tập trung kinh tể không chặt chẽ là việc các doanh nghiệp tham gia vẫn là
những chủ thể độc lập dưới góc độ pháp luật, song chúng chịu sự chi phối bởi các doanh
nghiệp khác. Hình thức này được hiểu là việc các doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ
thông qua các hành vi như mua lại hay liên doanh. Điều đó dẫn tới việc hình thành nên
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
18
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
các doanh nghiệp liên minh hay một nhóm doanh nghiệp theo kiểu tập đoàn. Trong đó,
bằng quyền của chủ sở hữu, các doanh nghiệp có thể chi phối các doanh nghiệp khác mà
nó có phần vốn góp hoặc cổ phàn.
1.1.3.2. Dựa vào vị trí của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tể trong các
cấp độ kỉnh doanh của ngành kỉnh tế - kỹ thuật
Theo căn cứ này thì tập trung kinh tế đuợc chia thành tập trung kinh tế theo chiều
ngang, tập trung kinh tế theo chiều dọc, tập hung kinh tế dạng hỗn họp (tập đoàn).
Thứ nhất tập trung kinh tế theo chiều ngang: là sự sáp nhập, họp nhất, mua lại hoặc
liên doanh của các doanh nghiệp trong cùng một thị truờng liên quan (sản phẩm và địa
lý). Mục tiêu chính của hình thức này là: thực hiện hiệu quả theo quy mô (economies of
scale), thục hiện mục tiêu chiến luợc thị trường (khống chế thị trường hay tạo ra rào cản
thị trường)...Hình thức này có thể tạo ra những tác động tích cực và đồng thời cũng có
mang theo những tác động tiêu cực. Bởi lẽ sự gia tăng tập trung kinh tế theo chiều ngang
đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp hành động giữa
các doanh nghiệp và từ đó dẫn đến hạn chế cạnh tranh theo giá và giảm động lực sáng tạo,
gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh và tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho người tiêu
dùng, về nguyên tắc, khi số lượng các doanh nghiệp hoạt động trên cùng thị trường liên
quan càng lớn thì nguy cơ xuất hiện một thế lực hùng mạnh trên thị trường để khống chế
sự cạnh tranh là càng nhỏ. Khi tập trung kinh tế nhằm tạo ra một doanh nghiệp có quy mô
vượt qua một mức giới hạn nào đó thì việc kiểm soát tập trung kinh tế của Nhà nước là rất
quan trọng. Đe từ đó mà Nhà nước cho hay không cho phép các doanh nghiệp này tập
trung lại với nhau.
Thứ hai tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại, liên
doanh giữa các doanh nghiệp có quan hệ người mua - người bán với nhau. Mục tiêu của
hình thức này là giảm chi phí giao dịch (transaction cost economies) hoặc thực hiện
những mục tiêu chiến lược thị trường (đảm bảo nguồn cung ứng hoặc nguồn tiêu thụ,
ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hay dựng rào cản gia nhập thị trường).
Nhìn chung hình thức này có thể dẫn tới nhiều tác động tiêu cực đến môi trường cạnh
tranh. Như khi một doanh nghiệp có vị thế rất mạnh ở một khâu nào đó trong chu trình
kinh doanh thì họ có thể tận dụng quyền lực này để gây sức ép đối với các khâu có liên
quan (lẫn trước hoặc sau đó). Thông qua đó, doanh nghiệp này có thể gây khó khăn cho
những người cạnh tranh không cùng liên kết với họ. Ví dụ, một doanh nghiệp A chuyên
sản xuất ra những sản phẩm mà doanh nghiệp B sử dụng để làm nguyên liệu tạo ra sản
phẩm cho doanh nghiệp mình. Hoặc là những doanh nghiệp sản xuất theo hướng chuyên
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
19
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
13
14
Cục quản lý cạnh tranh, Báo cáo Tập trung kinh tế tại Việt Nam, Hiện trạng và dự báo, 2009, toàn văn bản tại:
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị .
Lê Viết Thái,
Chuyên đề nghiên cứu về hành vi tập trung kinh tế,
đề
tài
nghiên
cứu về thểmôn hóa, dây chuyền đã liên kết, hợp tác với nhau. Từ đó gây khó khăn cho những doanh chế cạnh
tranh
tại
Việt
Nam ừongnghiệp mà họ không liên kết hay những doanh nghiệp mới gia nhập thị truờng.
điều kiện
phát triển
tế
Thứ ba, tập trung kinh tể dạng hỗn hợp: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại, liên kinh
thị trường
tại Việt
Nam, Việndoanh giữa các doanh nghiệp không cùng hoạt động trên một thị truờng sản phẩm đồng nghiên
cứu thương
mại - Bộ
thời cũng không có mối quan hệ khách hàng với nhau. Mục tiêu của việc họp nhất này là mại,
Thương
2005.
nhằm phân tán rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ những lý do chiến lược thị
trường của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế 13. Trong thực tế việc tập trung
kinh tế theo dạng tập đoàn như vậy cũng có tác động tiêu cực đến cạnh tranh. Vói hoạt
động kinh doanh đa dạng trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực nên các tập đoàn có thể
phân tán các rủi ro trong khi đó các doanh nghiệp nhỏ chỉ kinh doanh trong một vài ngành
nghề sẽ gặp bất lợi khi có chung thị trường kinh doanh với các tập đoàn lớn như vậy. Và
việc tập trung các doanh nghiệp thành một tập đoàn lớn mạnh trên thị trường sẽ dẫn tói
nhiều khả năng triệt tiêu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. Hiện tượng
này sẽ làm vô hiệu hóa nguyên lý hiệu quả với tư cách là nguyên tắc chọn lọc của nền
kinh tế thị trường. Và một tác động không nhỏ nữa là khi các tập đoàn với tài chính hùng
mạnh đôi khi còn gây ảnh hưởng đến chính trị. về co bản, xã hội không bao giờ mong
muốn việc hình thành một thế lực quá hùng mạnh trên thị trường, đe dọa sự kiểm soát
thông qua cơ chế thị trường cũng như thông qua sự hợp tác giữa Nhà nước và các hiệp
hội. Sự tập trung dạng conglomerate này chính là mối đe dọa đó14.
Từ những phân tích như vậy, thấy rằng hậu quả có thể dẫn đến là việc quản lý hành
vi tập trung kinh tế cũng gặp những khó khăn.
1.1.3.3. Các hình thức tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh
Theo điều 16 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì: “Tập trung kinh tế là hành vi của các
doanh nghiệp bao gồm: (1) Sáp nhập doanh nghiệp; (2) Hợp nhất doanh nghiệp; (3) Mua
lại doanh nghiệp; (4) Liên doanh giữa các doanh nghiệp; và (5) Các hình thức tập trung
kinh tế khác theo quy định của pháp luật”. Cụ thể hơn, Điều 17 Luật Cạnh tranh nêu ra
khái niệm về các hình thức đó như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
20
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
15
16
PSG. TS Luật học Nguyễn Như Phát, Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế và vai trò của cơ quan quản lý
cạnh tranh,
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị Tạp chí khoa học pháp lý số 4 41)/2007, có thể truy
cập
tại
website:
Ts. Đinh Thị
Mỹ
Loan, Tập
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, trung
kinh tế theo
quy định
của
Luậtquyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng Cạnh
tranh, , có
thể truy
thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị họp nhất.
cập
tại
website:
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản
của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh
nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau
góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một
doanh nghiệp mói.
1.1.4. Nhu cầu kiểm soát tập trung kinh tế
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không
thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các nền
kinh tế thị trường nguyên thủy dựa trên co sở sản xuất và trao đổi giản đơn có thể hoạt
động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, vì nền
kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà
nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường.
Nhà nước có ba chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp, quản lý và điều hoà phúc lợi. điều
này. Sự điều tiết của Nhà nước là vô cùng quan họng và không thể thiếu trong nền kinh tế
thị trường không chỉ ở tầm vĩ mô mà ở ngay cả các hành vi kinh tế cụ thể. Tập trung kinh
tế bản thân nó là một hành vi kinh tế cho nên nó cũng cần phải có sự điều tiết của Nhà
nước.
Như đã phân tích, tập trung kinh tế làm cho số lượng của các đối thủ cạnh tranh sẽ
giảm đi, mức độ hoàn hảo trong cạnh tranh cũng bị giảm sút 15. Điều đáng nói ở đây là có
nguy cơ dẫn tới sự xuất hiện của một doanh nghiệp, một nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường. Do đó nó sẽ dẫn đến việc gây hạn chế cạnh tranh và nếu tồn tại
doanh nghiệp có vị trí độc quyền thì chắc chắn sẽ đi đến thủ tiêu cạnh tranh 16. Chính vì lẽ
đó mà Nhà nước ta cần thiết phải kiểm soát, đánh giá để từ đó Nhà nước cho hay không
/>aspx%3Fa%3Dl
0+tap+frung+kinh+tc+thco+quy+dinh+cua+luat&cd~2&hl—vi&ct~clnk&gl—vn
[truy
12-2010].
cập
/>:ctc20074&Itemid=110, [truy cập ngày 12-12-2010].
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
21
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
ngày
12-
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
cho phép các doanh nghiệp này tập trung vói nhau để đảm bảo một môi trường cạnh tranh
lành mạnh, chống gây hạn chế cạnh tranh của một hoặc một số doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước thì cũng
cần cân nhắc kỹ lưỡng tới cái được - cái mất của sự can thiệp ấy. Cách giải quyết không
phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có
thể lựa chọn nhiều phương cách để ứng xử với hiện tượng này như sau:
❖
Hoặc tin vào sự tự điều chỉnh của thị trường, tin vào sự hợp lý của
quá trình tập trung kinh tế hướng tới độc quyền mà chủ trương không can dự (quan
điểm của chủ nghĩa tự do-laissez faire)
♦♦♦ Hoặc can thiệp để tạo điều kiện cho cạnh tranh bằng cách ngăn chặn
độc quyền, chia nhỏ doanh nghiệp độc quyền, cấm thỏa thuận để tạo ra vị trí thống
lĩnh thị trường (quan điểm can thiệp để duy trí cạnh tranh-structure approach).
❖
Hoặc chấp nhận vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của một số doanh
nghiệp nhưng song song đó giám sát, ngăn ngừa sự lạm dụng vị trí đó trên thị
trường (quan điểm giám sát để điều tiết-regulation approach).
❖
Hoặc công hữu hóa doanh nghiệp có vị trí độc quyền, đặt chúng dưới
sự quản lý của các cơ quan nhà nước và định hướng hoạt động của chúng vì lợi ích
chung (quan điểm ownership approach).
Trên thực tế các nước trên thế giới đều tìm cách phối hợp các cách trên. Và Việt
Nam cũng phối hợp linh hoạt những cách đó để kiểm soát tập trung kinh tế để đạt được
hiệu quả. Trong đó, giải pháp chính vẫn là phối hợp giữa biện pháp can thiệp để duy trì
cạnh tranh và khi độc quyền đã diễn ra thì tìm cách giám sát để điều tiết, hạn chế việc lạm
dụng vị thế độc quyền.
1.2. Mô hình kiểm soát tập trung kỉnh tế trên thế giói và quá trình phát triển
pháp luật về tập trung kỉnh tế tại Việt Nam
1.2.1. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế trên thế giới
Pháp luật cạnh tranh chỉ xuất hiện trong cơ chế thị trường, nơi có hiện diện của tự do
kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập hội, vào đúng thời điểm mà hành vi cạnh tranh đi
vượt quá biên giới của quyền tự do kinh doanh. Xét về tính chất và mục tiêu, pháp luật
cạnh tranh là loại pháp luật nhằm ngăn cản, chống đối và trừng trị những hành vi cạnh
tranh trái pháp luật, đạo đức và văn hóa kinh doanh. Nội dung quan họng nhất của pháp
luật cạnh tranh là những quy định về những hành vi cạnh tranh bị cấm, bị kiểm soát. Khi
quy định những hành vi cạnh tranh, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hại của hành vi,
và theo đó là phương thức tiếp cận và trừng trị, pháp luật cạnh tranh phân chia các hành vi
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
22
SVTH: Nguyễn phước Quan Thái
17
Ts.
Phạm
Trí
Hùng,
M&A:
Kinh
nghiệm
của
thế
giói,
có
thể
truy
cập
tại
website:
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
bị cấm thành hai nhóm: nhóm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhóm các hành vi
hạn chế cạnh tranh hay còn gọi là kiểm soát độc quyền.
So với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thì tính chất, mức độ nguy hại của
các thoả thuận, dàn xếp, liên kết nhằm hạn chế cạnh tranh (độc quyền hóa) gây ra hậu quả
cho thị truờng và xã hội lớn hơn gấp nhiều lần. Pháp luật kiểm soát độc quyền thuờng đề
cập đến ba vấn đề: cấm các thỏa thuận hay dàn xếp nhằm hạn chế, thủ tiêu cạnh tranh
(Các-Ten), kiểm soát các vụ sáp nhập doanh nghiệp (tập trung kinh tế - độc quyền hóa),
giám sát sự lạm dụng của các doanh nghiệp có vị thế thống lĩnh thị truờng (lạm dụng vị
thế thống lĩnh thị truờng - độc quyền).
Trên thế giới, các hành vi nhu sáp nhập, họp nhất, mua lại đuợc xem xét, điều tiết
chủ yếu từ góc độ của pháp luật về cạnh tranh theo cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế.
Kiểm soát tập trung kinh tế đuợc thực hiện theo thủ tục hành chính, thủ tục xét xử tại toà
án hoặc áp dụng đồng thời cả hai thủ tục. Kinh nghiệm của các nuớc phát hiển cho thấy
có nhiều cách thức điều chỉnh bằng pháp luật khác nhau đối với cơ chế kiểm soát tập
trung kinh tế: bằng những luật chống độc quyền riêng biệt (nhu ở Áo, Tây Ban Nha,
Canada, Đức, Thụy Sỹ); bằng những luật chống độc quyền và những quy phạm chung
trong Luật Dân sự (nhu ở Italia, Pháp), bằng những luật chống độc quyền và bằng án lệ
(nhu ở Anh, Mỹ)17.
Nhìn chung, hên thế giới tồn tại hai mô hình chính của cơ chế kiểm soát tập trung
kinh tế là mô hình Mỹ và mô hình Châu Âu.
1.2.1.1. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế ở Mỹ
Mỹ là một nuớc mà chủ nghĩa tu bản đã có buớc phát hiển rất nhanh trong thế kỷ
XIX. Sự tích tụ tư bản dưới hình thức Tơ rơt đã làm cho một số ngành công nghiệp ở Mỹ
như thuốc lá, sắt, thép, đường,.... rơi vào tay những tập đoàn tư bản lớn. Sự lạm dụng vị
thế của những tập đoàn này hên thị trường vào cuối thế kỷ XIX đã làm cho công chúng
phẫn nộ và họ đã gây sức ép để Nhà nước phải ban hành những đạo luật chống Tơ rơt với
sự mở đầu bằng đạo luật Sherman vào năm 1890. Nhìn chung mô hình Mỹ cấm tập trung
kinh tế và độc quyền về mặt hình thức. Hiện nay, hệ thống pháp luật cạnh tranh của Mỹ
bao gồm: Đạo luật Sherman năm 1890 (nội dung chủ yểu là cấm thoả thuận hạn chế cạnh
tranh), Đạo luật Clayton năm 1914 (bổ sung Luật Sherman thêm bốn hành vi: cấm phân
biệt đối xử về giá, cấm ký kết hợp đồng mang tính độc quyền hoặc có nội dung ràng
buộc; cấm việc chiếm vốn giữa các công ty; cấm kiêm nhiệm chức vụ), Đạo luật về Uỷ
/>
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
23
SVTH: Nguyễn phước Quan Thải
18
19
Ts. Đinh Thị Mỹ Loan, Tập hung kinh tế theo quy định của Luật Canh tranh.
TS.
Nguyễn
nước
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng
Thanh Tâm, Giới thiệu pháp luật cạnh tranh các
và kiến nghị ASEAN, Tạp chí luật học số 12/2009.
ban Thương mại Liên bang - thành lập Cơ quan cạnh tranh tại Mỹ năm 1914 (Trước đây,
các vụ cạnh tranh ở Mỹ do Cục chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp thực hiện. Sau khi
thành lập Uỷ ban Thương mại Liên bang, Uỷ ban này giám sát việc thực thi luật cạnh
tranh thuộc mảng dân sự và bổ sung thêm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như
làm hàng giả, quảng cáo gian dối), Đạo luật Robinson-Patman 1936 (bổ sung Luật
Clayton về hành vi bán phá giá hàng hoá trong nước - predatory pricing (chứ không phải
là anti - dumping), Đạo luật Wheeler-Lea năm 1938 (bổ sung những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh), Đạo luật Celler-Kefauver năm 1950 (quy định việc kiểm soát sáp
nhập, mua lại), Đạo luật nâng cao chống độc quyền Hart-Scott-Rodino năm 1976 (sửa đổi
các luật chống độc quyền của Hoa kỳ, chủ yếu là luật Clayton). Mô hình kiểm soát tập
trung kinh tế Mỹ được áp dụng ở Mỹ, Canada, Arghentina và nhiều nước khác18.
1.2.1.2. Mô hình kiểm soát tập trung kinh tể ở Châu Ẩu
Ở Châu Âu những quy định của pháp luật cộng đồng về cạnh tranh được ghi nhận
trong Hiệp ước Roma 1957 và các văn bản sửa đổi, được gọi chung là Hiệp ước EC. Luật
cạnh tranh EC điều chỉnh việc thực hiện sức mạnh thị trường của các công ty lớn, Chính
phủ các nước thành viên và các thực thể kinh tế khác. Đây là công cụ quan họng để hình
thành thị trường nội khối, nghĩa là tạo thuận lợi cho sự tự do dịch chuyển hàng hóa, dịch
vụ, người lao động và tư bản trong nội bộ EU19.
Mô hình kiển soát tập trung kinh tế ở châu Âu được xây dựng dựa hên nguyên tắc
kiểm soát tập trung kinh tế và hạn chế những tác động tiêu cực của nó. Các điều khoản về
M&A trong Luật cạnh tranh ở các nước theo mô hình Châu Âu không mang tính bắt
buộc. Mô hình châu Âu kiểm soát tập trung kinh tế thông qua việc cho phép đăng ký
những dự án tập trung kinh tế không hạn chế đáng kể đến cạnh tranh. Và những quy định
về kiểm soát sáp nhập, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp được thể hiện trong
Quy chế số 139/2004/EC (Council Regulation 139/2004 EC hay Merger Regulation).
Pháp luật quy định
Nhưng luật pháp yêu cầu các doanh nghiệp muốn sáp nhập thì phải thông báo trước
cho ủy ban ở một số trường hợp. Cụ thể, các doanh nghiệp tiến hành sáp nhập mà vượt
biên giới quốc gia và với doanh thu hàng năm của doanh nghiệp vượt qua một ngưỡng cụ
thể thì phải thông báo và được kiểm tra bởi ủy ban Châu Âu. Những quy định như vậy
nhằm dự đoán các thị trường tiềm năng có liên quan sau khi sáp nhập. Theo tinh thần này
thì nếu có sự kết họp sẽ “cản trở đáng kể cạnh tranh hiệu quả”, đặc biệt là kết quả của
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
24
SVTH: Nguyễn phước Quan Thải
20
Ts.
Phạm
Trí
Hùng,
M&A:
Kinh
nghiệm
của
thế
giói,,
có
thể
truy
cập
tại
website:
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
việc tạo ra hoặc tăng cường vị thế thống lĩnh. Và việc tăng thị phần cũng có thể làm tăng
sức mạnh thị trường, tăng cường vị thế đàm phán của doanh nghiệp. Điều này là tốt cho
chính các công ty đó nhưng lại có hại cho đối thủ cạnh tranh và các đơn vị hạ nguồn khác.
Chẳng hạn như nhà phân phối hay người tiêu dùng khi có xuất hiện sự liên kết kinh tế. Và
trong trường họp này đòi hỏi phải kiểm soát độc quyền, kiểm soát các thông đồng của các
tập đoàn kinh tế. Nhìn chung đây là một trong các mô hình thành công ở tầm khu vực. Mô
hình châu Âu được áp dụng ở các nước Tây Âu, ở úc, ở New Zeland, Nam Phi.
Cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế và chống độc quyền của Vương quốc Anh là điển
hình cho mô hình châu Âu. Hoạt động cạnh tranh ở Vương quốc Anh được điều chỉnh bởi
các quy phạm pháp luật lần đầu tiên thông qua Luật về độc quyền và hoạt động hạn chế
năm 1948. Từ đó đến nay hệ thống pháp luật về cạnh tranh ở Vương quốc Anh đã được
sửa đổi, bổ sung qua các vãn bản quy phạm sau Luật Thương mại công bằng năm 1973,
Luật về Toà án hành vi thương mại hạn chế năm 1976, Luật về giá bán lại năm 1976, Luật
Hành vi thương mại hạn chế năm 1976, Luật Hành vi thương mại hạn chế năm 1977.
Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh ở Vương quốc
Anh bao gồm Luật Thương mại công bằng năm 1973, Luật Cạnh tranh năm 1980, Luật
Cạnh tranh năm 199820.
1.2.1.3. Mô hình kiểm soát tập trung kình tể ở Đức
Pháp luật của Đức về kiểm soát tập trung kinh tế được xếp vào giữa hai mô hĩnh Mỹ
và mô hình châu Âu vì bên cạnh những quy định chung cấm tập trung kinh tế và độc
quyền có một loạt những trường hợp ngoại lệ, giảm nhẹ.
Trước chiến tranh thế giới II, nước Đức là nước của các tập đoàn và cartel (Các
Ten). Sau chiến tranh, những cartel bị giải tán. Những tư tưởng của pháp luật chống độc
quyền của Mỹ đã có tác động mạnh đến việc xây dựng chính sách cạnh tranh ở Đức. Nội
dung cơ bản của Luật chống hạn chế cạnh tranh ở Đức bao gồm 3 nội dung cơ bản là: cấm
cartel, kiểm soát sự sáp nhập và giám sát việc lạm dụng vị thế. Năm 1976, Luật Cartel lại
được sửa đổi theo hướng chặt chẽ hơn đối với hành vi sáp nhập của các doanh nghiệp.
Đối tượng áp dụng của Luật Chống hạn chế cạnh tranh Đức là các doanh nghiệp. Khái
niệm "doanh nghiệp" được hiểu theo nghĩa rộng, tức là bất kỳ hoạt động nào trong lĩnh
vực sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ. Doanh nghiệp không nhất thiết phải có h ình
thức pháp lý cụ thể, hay phải hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Luật áp dụng cho cả các tổ
/>
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
25
SVTH: Nguyễn phước Quan Thải
21
Ts.
Phạm
Trí
Hùng,
M&A:
Kinh
nghiệm
của
thế
giói,,
có
thể
truy
cập
tại
website:
Các khía cạnh pháp lý về tập trung kinh tế - thực trạng và kiến nghị
cũng chịu sự điều chỉnh của Luật này trừ khi các doanh nghiệp đó thuộc sự điều chỉnh của
Luật công cộng.
Theo Luật Chống hạn chế cạnh tranh Đức, các giao dịch sau đây được coi là hợp
nhất, sáp nhập: mua phàn tài sản cơ bản của doanh nghiệp khác; mua cổ phần và quyền bỏ
phiếu của doanh nghiệp để chiếm 25% tới 50% cổ phần hoặc bảo đảm có quyền lợi chính;
một số hình thức liên doanh nhất định; thoả thuận thành lập tập đoàn; hoặc tiếp tục hoạt
động vì quyền lợi của doanh nghiệp khác; hoặc chuyển lợi nhuận cho doanh nghiệp khác;
hoặc cho thuê hay chuyển thiết bị cho doanh nghiệp khác; Ban quản trị phối hợp (các
doanh nghiệp có ít nhất nửa thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc là trùng nhau).
Việc họp nhất, sáp nhập bị kiểm soát hay không phụ thuộc chủ yếu vào mức vốn của công
ty. Vượt quá mức vốn nhất định theo qui định của Luật này, họp nhất, sáp nhập phải được
thông báo cho cơ quan có thẩm quyền trước hoặc sau khi hoàn thành việc hợp nhất. Các
mức vốn đặc biệt được áp dụng cho các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, xuất bản. Các dự
án họp nhất, sáp nhập phải được thông báo trước khi được Vãn phòng Chống độc quyền
Liên Bang cho phép. Các giao dịch vi phạm các qui định cấm là vô hiệu và có thể bị xử
phạt. Việc hợp nhất, sáp nhập bị cấm nếu tạo ra hoặc thúc đẩy một ví trí thống lĩnh trên
thị trường.21
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về tập trung kinh tế tại Việt
Nam
1.2.2.1. Giai đoạn trước khi Luật cạnh tranh được ban hành
Từ khi giành được độc lập đến năm 1986, nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế
bao cấp tập trung, nơi mà chỉ tồn tại loại hình kinh tế nhà nước, hợp tác xã. Nhà nước độc
quyền trong sản xuất kinh doanh vì thế mà pháp luật về cạnh tranh nói chung và pháp luật
về tập trung kinh tế nói riêng trong giai đoạn này chưa được hình thành.
Từ Đại hội Đảng lần VI năm 1986, nhả nước ta đã chủ trương đổi mới đưa nền kinh
tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Từ sự bất thành của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, kinh tế thị trường đã dần hình thành và phát huy vai trò của nó trong thời
kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ sự kiện họng đại đó, đã tạo điều kiện phát triển
rất nhiều mối quan hệ thương mại khi xuất hiện nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên đây
vẫn còn là những vấn đề rất mới mẻ nên nhả nước Việt Nam và pháp luật Việt Nam khi
điều chỉnh các mối quan hệ đó đã tập trung vào quá trình tạo lập các thiết chế cần thiết để
xây dựng một cơ chế thị trường mang bản chất của nền kinh tế chuyển đổi hơn là hoàn
/>
GVHD: Ths. Nguyên Mai Hân
26
SVTH: Nguyễn phước Quan Thải