Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Cách mạng giải phóng dân tộc BT lớn học kỳ 8đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.55 KB, 9 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu hàng đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
chính là việc tập hợp được tất cả các lực lượng quần chúng, đặc biệt là giai
cấp công nhân và nông dân để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng
dân tộc, đi theo con đường cách mạng vô sản.
Với việc tiếp thu những tư tưởng, lý luận sắc bén của chủ nghĩa MácLênin, Nguyễn Ái Quốc đã có những bước chuyển biến về chất trong tư tưởng
của mình. Người từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác
ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp và từ một người con yêu nước thành một
người cộng sản.
Người đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của
dân tộc để đưa ra những đường lối đúng đắn đối với cách mạng nước ta. Đồng
thời, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh vai trò của việc đoàn kết với phong trào
cách mạng quốc tế, không để chủ nghĩa tư bản có điều kiện cô lập phong trào
giành độc lập và các cuộc cách mạng tư ở từng quốc gia, từng thuộc địa.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận
1, Quan điểm của C.Mác và V.I.Lênin về vấn đề dân tộc
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh
tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc
và bộ tộc
Quan điểm của chủ nghĩa Mác : Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát
triển lâu dài của lịch sử. Mác – Ăngghen đã đặt nền tảng lí luận cho việc giải
quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học.
Lênin đã phát triển quan điểm vấn đề dân tộc thành hệ thống lí luận toàn
diện và sâu sắc.
[1]


2, Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của
các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập


dân tộc, xoá bỏ áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết,
thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc.
Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành
độc lập.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
II. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng
Hồ Chí Minh nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu khác nhau nên tính chất cuộc
đấu tranh cách mạng cũng khác nhau,nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa
phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp thì ở các nước thuộc địa trước hết phải
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu,
trên

hết,

trước

hết

của

cách

mạng

Việt


Nam

Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người cũng đã nêu rõ và khẳng
định “trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định
thành công”. Đó không những là quyết tâm mà còn là nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam bấy giờ.

[2]


III. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
1, Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản
Con đường cách mạng vô sản ở thuộc địa bao hàm nội dung sau
Làm cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền, dần dần từng
bước “đi tới xã hội chính sản”.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là đảng
cộng sản.
Lực lượng làm cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là
liên minh công-nông-trí.
Cách mạng Việt Nam là bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, phải
đoàn kết quốc tế.
2, Cách mạng giải phóng dân tộc phải do Đảng cộng sản lãnh đạo
Muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải có đảng cách
mệnh…”, “cách mệnh phải làm cho dân giác ngộ”, “phải giảng giải lý luận và
chủ nghĩa cho dân hiểu”, “sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải
có đảng cách mệnh”.
Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính đảng của phong trào cách mạng nước ta.

3, Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc là “việc chung của cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người”, phải đoàn kết toàn dân.
“Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không
thể nào thắng lợi được”.
Trong lực lượng đó “công–nông là gốc của cách mạng”, “còn học trò,
nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
[3]


“Trong khi liên lạc giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một
chút lợi ích gì của công-nông mà đi vào thoả hiệp”.
4, Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Cương lĩnh Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928) nêu: “chỉ có thể thực
hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính
quốc có mối liên hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc.
“Chủ nghĩa tư bản là con đỉa hai vòi…” phải thực hiện liên minh chiến
đấu giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã nêu: “cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước…”.
Đây là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh đóng góp vào kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
5, Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
Bạo lực cách mạng: Bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.

- Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang.
- Giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình, thương lượng, nhượng bộ
có nguyên tắc. Tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân đạo
hoà bình.
[4]


Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân
tộc:“…trường kỳ kháng chiến, địch nhất định thua, ta nhất định thắng…
Thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau”.
- Tự lực cánh sinh là phương châm chiến lược quan trọng của bạo lực
cách mạng.
IV. Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc và ý nghĩa của quan điểm đó
1, Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trò của cách mạng
thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng vô sản ở chính quốc, Nguyễn Ái
Quốc lại đưa ra những quan điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản.
Người khẳng định: “…Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là
vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với
vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của
con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa…”, và nếu khinh
thường cách mạng ở thuộc địa tức là “…muốn đánh chết rắn đẳng đuôi”
Người đã chỉ rõ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ và tìm ra được
liều thuốc vực dậy cuộc cách mạng thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn
phê bình những người cộng sản ở các nước tư bản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa
và không thực hiện đúng di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa;
ngay cả những người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ cũng đặt cách
mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, đặt sự nghiệp

giải phóng dân tộc phụ thuộc vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, coi
phong trào giải phóng dân tộc là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản ở chính
quốc.
[5]


Vận dụng công thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng
dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… Công
cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em”. Theo Người, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản, đế quốc đều lấy ở
các xứ thuộc địa. Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vòi để minh họa cho chủ
nghĩa tư bản lúc bấy giờ với hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc địa. Khi
đánh vào đầu ở chính quốc, nó sẽ tích cực hút máu ở thuộc địa làm cho sức
sống của thuộc địa cạn kiệt, sức đấu tranh không còn, con đỉa bị đánh nhanh
chóng hồi phục và quay lại chống cách mạng chính quốc, điều đó không
những gây tổn thất cho phong trào chống cách mạng chính quốc mà còn khiến
nó quen mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là tất yếu. Hồ Chí Minh đã chỉ
ra rằng nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng
giải phóng dân tộc là sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải
phóng mà không thể dựa vào sự cầu viện ở bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì
nhân dân thuộc địa sẽ là một lực lượng khổng lồ có thể làm nên sự nghiệp
cách mạng.
Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa
cùng với các dân tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách mạng triệt để.
Một mặt tấn công ở chính quốc, đồng thời cũng tấn công ở thuộc địa, khi bị
đau ở cả hai đầu, “con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay về giữ sân nhà của mình,
tạo đà cho cuộc cách mạng thuộc địa giành thắng lợi. Sau khi mất nguồn sinh
lực của mình, sức mạng của chủ nghĩa tư bản dần dần bị suy giảm, lúc ấy cách
mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng. Người khẳng định: Cách

mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách
[6]


mạng vô sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những người anh em của
mình ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Suy luận sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được Đại hội VII Quốc tế Cộng
sản nhận ra và lập tức chuyển hướng chiến lược, kêu gọi: “Vô sản ở tất cả các
nước và các dân tộc áp bức đoàn kết lại”, chủ động thực hiện cách mạng đấu
tranh giành độc lập tự do của chính mình.
2. Ý nghĩa của quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh


Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý
luận Mác – Lênin



Giá trị thực tiễn: Đây là luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp
đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.
Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời
nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một
số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là một
tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.

C. KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc mang nhiều luận

điểm sáng tạo, làm phong phú đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng góp
phần vô cùng to lớn vào giá trị thực tiễn và lý luận.
Hồ Chí Minh đã định đoạt con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng chính trị vô sản. Người đã vận dụng kết hợp khai hóa vấn đề
[7]


dân tộc với vấn đề giai cấp và gắn độc lập dân tộc với định hướng chủ nghĩa
xã hội. Vì vậy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một
hệ thống những luận điếm sáng tạo và lý luận đó luôn đúng đắn. Cũng chính
lý luận ấy đã làm phong phú them chủ nghĩa Mác-LêNin về cách mạng thuộc
địa.
Hồ Chí Minh đã từng bước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc một
cách hết sức độc đáo, sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn. Đó là phương pháp
khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Người đã vận dụng sáng tạo và
phát triển học thuyết LêNin về cách mạng thuộc địa thành hệ thống luận điểm
mới mẽ sáng tạo. Chính Hồ Chí Minh đãlàm chuyển hóa tính cách mạng từ
việc tập hợp các thanh niên yêu nước dẫn dắt họ đi theo đất nước. Chúng ta
phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trên lập trường giai cấp
công nhân, cùng nhau xây dựng mối đoàn kết toàn dân, giữa các dân tộc anh
em. Góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh dân chủ công bằng xã hội văn
minh, sánh vai được với các cường quốc trên thế giới./.

[8]


[9]




×