Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

ĐẶC điểm TIỂU THUYẾT NHẠN của tác GIẢ MORI OGAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.8 KB, 55 trang )

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN

THÁI THỊ DIỄM PHƯỢNG
B1201470

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT “NHẠN”
CỦA TÁC GIẢ MORI OGAI

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Văn Học

Cán bộ hướng dẫn: ThS. TRẦN VŨ THỊ GIANG LAM

Cần Thơ năm 2015


1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, trong nền văn học Việt Nam nói rất nhiều về tình yêu
đôi lứa, tình yêu thì không một ai có thể định nghĩa được cũng như nhà thơ
Xuân Diệu ông hoàng thơ tình có câu thơ :
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu chắc được yêu
Tình cảm là thứ thiêng liêng cao quý nhất của con người, tình yêu luôn
tồn tại trong chúng ta, đó có thể là tình yêu ta giành cho một người nào đó, hay
tình yêu giành cho gia đình, cho ba mẹ, tình yêu đơn phương âm thầm không
nói nên lời nhưng ta vẫn thấy hạnh phúc… không chỉ có trong thơ ca mới thể
hiện tình yêu, mà ngay trong câu ca dao tục ngữ, truyện ngắn hay tiểu thuyết thì
đề tài tình yêu luôn là đề tài muôn thuở. Tình cảm có thể là yêu âm thầm không
cần hồi đáp, hay chỉ vô tình một chàng trai gặp cô gái trên đường rồi đêm đêm
về thầm mong trộm nhớ, tương tư hình bóng ấy, tình cảm đó sẽ được thổ lộ hoặc


mãi mãi thầm kính không nói nên lời, có thể trong tình yêu sẽ có những dối trá
những lộc lừa, những toan tính, ích kỉ của từng cá nhân, nhưng đề tài tình yêu
mãi mãi là đề tài muôn thuở cho các nhà văn, nhà thơ.
Ở Nhật Bản đề tài về tình yêu vẫn luôn được các nhà thơ, nhà văn, tiểu
thuyết gia lấy làm đề tài chính, mỗi cậu chuyện tình trong từng tác phẩm, đều
được các tác giả gửi vào đó rất nhiều tâm sự, nhiều triết lý về cuộc sống, họ
mượn hình ảnh trong tình yêu để nói đến xã hội, nói đến những hủ tục phong
kiến hà khắc của đất nước, nói lên nỗi lòng của người dân thời bấy giờ, mỗi câu
truyện đều cho ta nhiều suy nghĩ và chăn chở về cuộc sống. Và một trong số tác
giả Nhật được nhiều người biết đến đó chính là Mori Ogai, ông nổi tiếng khi đi
du học Đức về với tiểu thuyết Vũ Nữ được ông viết vào năm 1890, và gần đây
nhất ở Việt Nam có tiểu thuyết Nhạn đây là cuốn tiểu thuyết hay được ông viết
vào cuối đời trước khi mất để nhớ về một thời tuổi trẻ của mình, được dịch giả
Hoàng Long dịch và phát hành ở Việt Nam năm 2013.
Nhưng ở Việt Nam thì ít người đọc được tác phẩm này, bởi vì nó quá
mới và còn bở ngỡ với độc giả. Khi đọc tiểu thuyết Nhạn điều làm người viết
thích tác phẩm này chính là nội dung câu truyện, tuy câu truyện chỉ xoay quanh


ba nhân vật nói đúng hơn là cuộc tình tay ba giữa Okada, Otama và Suezo,
nhưng trong câu truyện ấy chứa đựng rất nhiều ý nghĩa có giá trị, cũng như
cuộc sống hiện tại con người sống luôn có những toan tính nhỏ nhen, sự ích kỉ
và những dằn vặc trong cuộc sống, điều khiến chúng ta tò mò để đọc tác phẩm
chính là lời kể của tác giả, tác giả kể cho chúng ta một câu truyện đầy chương
hồi, và từng trương từng trương diễn ra câu truyện lôi cuốn người đọc.

2. Lịch sử nghiên cứu
Mori Ogai là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Nhật Bản
thời hiện đại, các sáng tác của ông ở nước ngoài được nhiều người biết đến,
nhưng đối với độc giả Việt Nam thì nó còn quá xa lạ. Hiện nay ở nước ta về vấn

đề dịch thuật và nghiên cứu về những đóng góp chủa ông cho văn học thì chưa
được chú trọng. Nhạn là tiểu thuyết mà ông viết vào những năm cuối đời để
nhớ về một thời tuổi trẻ của mình, nhưng ở Việt Nam chỉ mới được dịch và
phát hành sách năm 2013, vì thế mà cũng có nhiều đọc giả chưa hề biết đến tác
phẩm này, cũng như chưa nghe nói nó còn quá xa rời với độc giả, những bài viết
liên quan đến đề tài nghiên cứu, người viết nhận thấy có rất ít ý kiến và chỉ có
có một số nhà nghiên cứu sau :
Trong bài viết Mori Ogai, nhà văn và tư tưởng khai sáng của nhà
nghiên cứu Nguyễn Nam Trân in trên tạp trí Văn học và Ngôn ngữ ngày ngày
2/2/2006, đã nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Trong phần
đầu bài viết ông đã khẳng định “ Mori Ogai cùng với Natsume Soseki là cái
bóng lớn bao trùm lên văn học Nhật Bản suốt thời mở nước đến thời đại chính”
[13]. Trong sự khẳng định này cho ta thấy được tầm quan trọng của Mori Ogai
trong nền văn học Nhật Bản, tuy bài viết không đi tìm hiể kĩ về Mori Ogai,
những thông tin bài viết mang lại đã giúp ích cho người viết rất nhiều. Đối với
một bài nghiên cứu về tác giả thì việc đầu tiên ta cần tìm hiểu đó chính là cuộc
đời và sự nghiệp sáng tác, bài viết đã cung cấp đầy đủ thông tin cơ bản về nhà
văn này. Còn khi giới thiệu về sự nghiệp sáng tác thì tác phẩm nổi bậc nhất của
Mori Ogai là tiểu thuyết Nhạn, bài viết chỉ nói sơ qua chứ chưa đi sâu phân tích
về tiểu thuyết này.


Sau đó tác giả Hoàng Long cũng có nghiên cứu về Mori Ogai và có dịch
cuốn tiểu thuyết Nhạn của Mori Ogai và in xuất bản năm 2013, với tựa đề sách
là Nhạn trong “ Lời người dịch” ngoài việc giới thiệu sơ lược về Mori Ogai
ngày tháng năm sinh, và sự nghiệp, Hoàng Long còn giới thiệu sơ lược về nội
dung của tiểu thuyết Nhạn, chỉ nói sơ qua đề đọc giả hiểu không đi sâu phân
tích tác phẩm. Hoàng Long còn khẳng định “ với giọng văn chương điềm đạm
và các câu văn gãy gọn rõ ràng. Mori Ogai kể lại cho chúng ta một câu chuyện
đầy đủ chương hồi. Tác phẩm dần dần mở ra như một bộ phim quay chậm, như

chiếc đèn kéo quân. Trên đó có những toan tính, dằn vặc, mâu thuẫn gia đình,
bản chất con người dần dần hiện ra rõ rang minh bạch” [ 3, trang 9]. Chỉ cần
đọc hết phần “lời người dịch” là chúng ta đã hiểu và hình dung ra được những
mâu thẫn nhưng dằn vặc nội tầm, nhưng ước muốn khát khao của những người
tuổi trẻ trong tiểu thuyết này và bắt đầu lôi cuốn người đọc đi vào từng chương
trong tác phẩm.
Ngoài ra, bài nghiên cứu Con đường hiện đại hóa văn học của các
nước khu vực văn hóa chữ Hán bài viết nói đến các nước chịu ảnh hưởng của
văn học chữ Hán, trong đó có nhắc đến Mori Ogai nhà văn theo khuynh hướng
phản tự nhiên chủ nghĩa: “Khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa: Chủ đề
chính của đề tài này là miêu tả than phận con người thời cận đại: nhỏ bé, mất
lý tưởng, mất phương hướng. Hai tác giả đứng đầu của khuynh hướng này là
Mori Ogai (nhà văn khởi đầu từ khuynh hướng lãng mạn) với các tiều thuyết:
Chim Nhạn (Gan)…” [12]. Nổi bậc cho khuynh hướng phản tự nhiên là tiểu
thuyết Nhạn, Mori Ogai viết tiểu thuyết Nhạn để nói lên thân phận của những
con người nhỏ bé, của những kiếp người nghèo khổ trong xã hội, họ mất đi lý
tưởng của mình mất đi phương hướng, cũng như đọc tiểu thuyết Nhạn ta sẽ thấy
rỏ điều đó. Những người tuổ trẻ có nhiều lý tưởng nhiều tương lai mới nhưng
một khi mất đi lý tưởng thì không bao giờ tành công được, con người nhỏ bé
quá trước xã hội hiện đại đương thời họ trở nên bế tắc trong cuộc sống mọi nội
dung trên điều được tiểu thuyết Nhạn phản tất cả.


Còn trong bài viết Sách và Tôi- Một câu chuyện đời thường nhưng
sâu sắc trong tiểu thuyết Nhạn của tác giả Lâm Hạ, giới thiệu về tiểu thuyết
Nhạn và nội dung chính của cuốn tiều thuyết Nhạn là “Câu chuyện kể về những
nhân vật rất đời thường, Suezo là một tên có tiền của, lại chán bà vợ mập ở
nhà cùng những đứa con nheo nhéo suốt ngày, hắn muốn có một cô vợ trẻ đẹp
nhưng cũng chẳng muốn bỏ vợ con…” Từ khẳng định trên ta thấy sự ít kỉ tham
lam của của Suezo một con người nhỏ nhen, toan tính chỉ cho bản thân mình.

Còn “Otama là một cô gái xinh xắn mới 20 tuồi nhưng lại có những quãng đời
bất hạnh. Nàng bị một tên lừa đảo đòi lấy nàng làm vợ, sau đó vì cha nàng nợ
nần, cuộc sống túng quẫn mà phải gán mình cho con buôn Suezo để cha có
tiền trả nợ…”. Otama một người con hiếu thảo vì muốn cho cha bớt đi nợ nầng
nàng chấp nhận mọi đau khổ để đi làm vợ hờ một tên cho vai nặng lãi, và “vui
duy nhất của nàng là mỗi khi Okada đi ngang qua nhìn vào cửa sồ nhà nàng”.
Còn Okada “là một chàng sinh viên điển hình, đẹp trai, được mọi người quý
mến và bà chủ dãy trọ luôn miệng khen gợi, đã đem lòng yêu mến một cô gái
khi chỉ mới gặp mặt tình cờ trên con dốc Vô Duyên” [14]. Tuy không biết
Otama là ai có than phận thế nào nhưng tràng đã đem lòng yêu cô gái ấy. Bài
viết kể về mối tình tay ba trong trong tiểu thuyết này và từng nhân vật rất cụ
thể, để cho người đọc không bở ngỡ khi đọc tác phẩm. nó còn lôi cuốn người
đọc đi sâu tìm hiểu tác phẩm kỉ hơn, bài nghiên cứu này của Lâm Hạ giúp ích
cho người đọc và người nghiên cứu rất nhiều thong tin cơ bản về tiểu thuyết
Nhạn. Ngoài ra trong bài viết có câu khẳng định “Cuộc đời vẫn cứ lặng lẽ trôi,
cuộc sống của mỗi người vẫn phải tiếp diễn, vẫn còn đó những ước mong,
những luyến lưu chẳng bao giờ trở thành sự thật. và như thế chúng ta mỗi con
người trong cuộc đời này, vẫn sống với những mong mỏi của mình, đến suốt
cuộc đời” [14] đó là câu khẳng định rất hay, cuộc đời vẫn cứ trôi theo thời gian,
theo năm tháng, dù có tiếc nuối thì không thể quay lại được, cũng như chuyện
tình của Otama và Okada.
Nhìn chung các bài nghiên cứu đa phần chỉ dừng lại ở việc giới thiệu tác
giả, sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm tiêu biểu và giới thiệu sơ lược về tiểu


thuyết Nhạn, chứ không có bài nghiên cứu nào phân tích về đặc điểm nội dung
tiểu thuyết này. Tuy vậy, các nhận định trên là những đóng góp quý báo cho
việc giới thiệu nhà văn Mori Ogai đến với độc giả Việt Nam, và cũng là nền
tảng cho người viết nghiên cứu về đề tài: “ Đặc điểm tiểu thuyết Nhạn của
tác giả Mori Ogai”


3. Mục đích nghiên cứu
Khi thực hiện nghiên cứu đề tài “ Đặc điểm tiểu thuyết Nhạn của tác
giả Mori Ogai” người viết mong muốn đạt được mục đích sau :
Trước hết người viết tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác
giả Mori Ogai nhằm giúp cho người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về nhà văn
này, cũng làm cho người đọc hiểu hơn sợ lược ve nhà văn để khi tình cờ đọc
một tác phẩm nào đó của Mori Ogai người đọc không còn bở ngở và xa lạ.
Tiếp theo, người viết đi sâu vào việc tìm hiểu, nghiên cứu, lý giải về
phương diện nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nhạn nhằm góp phần giải
thích tại sao khi nói đến Mori Ogai người ta lại nhớ đến tiểu thuyết này. Ngoài
ra, người viết cũng muốn chiêm nghiệm, thấu hiểu những triết lý trong tác
phẩm, cũng như thông điệp mà tác giả gửi gấm vào đó.
Ngoài mục đích trên, khi nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để người
viết nắm vững hơn kiến thức về văn học nước ngoài cũng như văn học Nhật
Bản, để củng cố lại kiến thức lý luận văn học, để sau này khi người ta hỏi mình
kiến thức văn học nước ngoài mình có thể tự tin trả lời họ, cũng như tích lũy
thêm vốn kiến thức cho bản thân về văn học Nhật Bản.

4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi đề tài chủ yếu giới hạn trong việc nghiên cứu đặc điểm về nội
dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nhạn theo bản dịch của tác giả Hoàng Long
và được nhà xuất bản văn học phát hành năm 2013. Ngoài việc đọc cuốn tiểu
thuyết trên, người viết còn tìm một số tiểu thuyết cùng tác giả đọc trên cơ sở so
sánh và tìm ra nét riêng của tiểu thuyết Nhạn


Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, để hộ trợ cho việc làm bài người
viết còn tìm đọc và sử dụng các tài liệu có liên quan đến Mori Ogai , tiểu thuyết
Nhạn, hay các công trình nghiên cứu để làm cơ sở phân tích, dẫn chứng nhằm

tang sức thuyết phục, giúp cho đề tài được sáng tỏ và bài viết hoàn thiện hơn
hơn tốt hơn.

5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu “ Đặc điểm tiểu thuyết Nhạn của tác giả Mori
Ogai” người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
Phương pháp tiểu sử: trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm nội
dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nhạn, người viết còn kết hợp việc tìm hiểu
cuộc đời, hoàn cảnh sống, và quá trình sáng tác của tác giả để góp phần hổ trợ
cho việc làm bài và nhìn nhận vấn đề một cách khách quan hơn. Chính nhưng
yếu tố đó có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của tác giả trong tiểu
thuyết. Khi sử dụng phương pháp này người viết cũng muốn cho người đọc hiểu
đôi nét về cuộc đời tác giả, để khi giới thiệu đề tài nghiên cứu người viết có
thêm kiến thức sâu hơn về Mori Ogai.
Phương pháp loại hình: phương pháp này đã giúp cho người viết phân
loại tác phẩm, từ việc phân loại tác phẩm mà người viết có cái nhìn toàn diện
hơn về đặc trưng thể loại và giá trị của tác phẩm thông qua ý nghĩa và đặc
điểm loại hình của tác phẩm.
Phương pháp so sánh- đối chiếu: đó là một trong những phương pháp
không thể thiếu trong việc nghiên cứu đề tài. Bằng phương pháp so sánh- đối
chiếu các tác phẩm của tác giả Mori Ogai giúp ta đi sâu hơn, khám phá các khía
cạnh của tác phẩm một cách khách quan hơn và làm sáng tỏ vấn đề hơn.
Phương pháp phân tích- tổng hợp: đây là phương pháp mà người viết
sử dụng xuyên suốt trong quá trình làm bài. Người viết sử dụng phương pháp
này vào trong quá trình tổng hợp một số nhận xét, những đánh giá của các nhà
phê bình, nghiên cứu và sựu phân tích dựa trên văn bản tác phẩm mà người viết
đưa ra những nhận xét, đánh giá của mình để bài viết mang tính khoa học và
thuyết phục hơn



PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vài nét về thể loại tiểu thuyết
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại văn học xuất hiện khá lâu đời trong nền văn
học, trong đó có Việt Nam. Tuy được xuất hiện từ rất sớm nhưng cho đến nay
khái niệm về tiểu thuyết vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu,
và chưa đưa ra được được một khái niệm thống nhất chung cho tiểu thuyết.
Một số tác giả nước ngoài thì đưa ra khái niệm tiểu thuyết : “Tiểu thuyết
là hình thức tự sự lớn miêu tả đời sống riêng của con người trong những mối
quan hệ rộng lớn với xã hội” [ 2, 214]. Theo khái niệm này thì các tác giả cho
rằng tiểu thuyết là sự miệu tả đời sống con người.


Còn trong Còn trong quyển Lí luận văn học do Giáo sư Hà Minh Đức
chủ biên lại đưa ra khái niệm: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết
có khả năng riêng trong việc tái hiện với một quy mô cỡ lớn những bức tranh
hiện thực cuộc sống , trong đó có chứa đựng nhiều vấn đề sâu sắc của đời sống
xã hội, của số phận con người, của lịch sử, của đạo đức, của phong tục ….
Nghĩa là tiểu thuyết có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh
động theo hướng tiếp cận cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó.” [ 3, 184]. Theo khái
niệm này thì tác giả cho rằng tiểu thuyết phản ánh hiện thực, với khái niệm này
và khái niệm trên có điểm tương đồng gần như giống nhau. Nhưng trong khái
niệm thứ 2 thì có sự cụ thể hóa hơn, khi đưa ra khái niệm tiểu thuyết ta thấy
rằng các tác giả điều căn cứ vào mặt dung lượng, cách miêu tả nhân vật, khả
năng bao quát cuộc sống… để đưa ra được khái niệm.
Bên cạnh đó trong cuốn trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, thì lại đưa ra khái niệm tiểu
thuyết như sau : “ Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh

hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể
phản ánh nhiều số phận nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức,
xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa
dạng” [4, tr 268].
Cũng tương tự như nhận định này, thì trong cuốn Lí luận văn học của
tác giả Phương Lựu cũng đã đưa ra nhận định “ Tiểu thuyết là hình thức tự sự
cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn
rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của
nhiểu cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các
điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [5, tr387].
Ngoài những khái niệm trên từ các tác giả nức ngoài cho tời Việt Nam
điềuđưa ra những khái niệm về tiểu thuyết khác nhau. Tuy các quan niệm trên
chưa thật sự thống nhất rỏ ràng chung cho tiểu thuyết, nhưng tất cả các khái
niệm trên đều có điểm giao nhau ở một số điểm chung nhất định. Từ đó có thể
hiểu tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi tự sự, có dung lượng cỡ lớn. tiểu thuyết
phản ánh toàn diện nhiều khía cạnh của xã hội, và tái hiện lại cuộc sống con


người một cách chân thật nhất, thông qua đê tài, nhân vật và các sự kiện của
cuốn tiểu thuyết.

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết
1.1.2.1. Đặc trưng về nội dung
Nói về nội dung thì trước hết là tiểu thuyết miêu tả cuộc sống “hiện tại”
không ngừng biến đổi, sinh thành trên cơ sở kinh nghiệm của các nhân trong khi
sử thi thì thể hiện quá khứ anh hung dân tộc trên cơ sở là kí ức của cộng đồng.
Đối tượng của sử thi là những nhân vật của quá khứ được kính trọng, và tôn thờ
vì thế nó luôn tồn tại một khoảng cách không thể vượt qua giữa người kể và
nhân vật, gọi là “ Khoảng cách sử thi” [6, trang 297]. Trong khi đó đối tượng
của tiểu thuyết là con người của hiện tại, con người như là bạn bè, hàng xóm

hoặc cùng sống trong một thành phố, làng quê. Điều này giúp cho người viết
tiểu thuyết có thể lí giải nhân vật, nhìn ngắm nhân vật một cách gần gũi bằng
chính vốn sống của mình.
Nét tiêu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca,
thơ trường thiên và sử thi là chất văn xuôi: “ tức là một sự tái hiện cuộc sống
với những chi tiết giống như thật, không thi vị hóa, lãng mạn hóa” [6, trang
298]. Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống một cách chi tiết, chân thật và làm cho sự
sống hiện hiển để người đọc tự cảm thấy nó chứa đựng mọi sự ngổn ngang bề
bộn của cuộc đời, bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường, có cao cả, có bi, có
hài, có cái to lớn và cái nhỏ bé…. Chất “văn xuôi” thể hiện rất đậm nét trong
tiểu thuyết của Cervantes, Balzac, Stendhal, Flaubert, Dostoevski, Tolstoi,
Chekhov, Sholokhov, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, nam Cao, Nguyễn
Khải… chính chất văn xuôi đã làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn nào trong
nội dung phản ánh.
Thứ ba, cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với nhân vật sử thi, nhân
vật kịch, nhân vật truyện trung đại là ở chỗ nhân vật tiểu thuyết là “ con người
niếm trãi” [6, trang 299]. Trong khi các nhân vật kia thường là nhân vật hành
động, nhân vật nêu gương đạo đức. Nhân vật tiểu thuyết cũng hành động nhưng
với tư cách là đặc trưng thể loại, nhân vật ấ xuất hiện như là con người niếm trải


cảm nhận tư duy, chịu khổ đau các dằn vặt của đời. Tiểu thuyết miêu tả con
người trong hoàn cảnh, không tách nó khỏi hoàn cảnh một cách giả tạo, không
cô lặp nó, cũng như không cường điệu sức mạnh của nó. Nó miêu tả nhân vật
như một con người đang trưởng thành, biến đổi và do đời dạy bảo. Trong kịch
cũng có những “nhân vật niếm trải” nhưng không tái hiện trọn vẹn quá trình
niếm trải nhiều mặt của con người. Chính vì vậy, miêu tả miêu tả thế giới bên
trong, phân tích tâm lí là một phương diện rất đặc trưng cho tiểu thuyết, mặc dù
nói chung loại hình văn học nào cũng không thể bỏ qua được khía cạnh tâm lí.
Đặc trưng thứ tư là tiểu thuyết chứa nhiều cái “thừa” so với cốt truyện.

Trong truyện ngắn, truyện vừa thì cốt truyện đóng vai trò chủ yếu cùng với nhân
vật. Mọi yếu tố điều tập trung để phát triển cốt truyện va tính cách. Nhưng trong
tiểu thuyết thì lại chứa đựng trong nó biết bao là cái “thừa” nhưng nhửng yếu tố
thừa đó lại chính là các yếu tố chính yếu của nhân vật về thế giới, về đời người
cũng như sự phân tích cặn kẽ từ những diễn biến tình cảm, sự trình bày tường
tận các tiểu sử của nhân vật về mối quan hệ giữa người với người, và với mọi
người xung quanh. Tiểu thuyết có khả năng dựng lại một bức tranh rộng lớn về
không khí, thời đại, phong tục, lối sống. Tiểu thuyết có thể làm được điều này là
nhờ vào các yếu tố miêu tả, bình luận những câu chuyện đang xen ngoài cốt
truyện.
Đặc trưng thứ năm là tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách giữa người trần
thuật và nội dung trần thuật. Tiểu thuyết hướng về miêu tả hiện thực cùng thời
với người trần thuật. Nhờ vào việc xóa bỏ khoảng cách ấy làm cho tiểu thuyết
trở thành một thể loại dân chủ, nó cho phép người trần thuật có thể có thái độ
thân mật, gần gũi đối với nhân vật của mình. Và từ đó người viết tiểu thuyết có
thể nhìn hiện tượng từ nhiều chiều, nhiều điểm nhìn, đa chủ thể, sử dụng nhiều
giọng nói. Tiểu thuyết hấp thụ mọi loại lời nói khác nhau của đời sống, san bằng
ngăn cách lời trong văn học và ngoài văn học, tạo nên sự đối thoại giữa các
giọng khác nhau.
Cuối cùng là với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học, có
khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các loại văn học


khác. Ưu thế về dung lượng là một điều kiện tuyệt vời trong việc tổng hợp này.
Tiểu thuyết không chỉ có thể chứa đựng trong nó các khả năng nghệ thuật của
các loại văn học khác như kịch, thơ ca, sử thi, mà nó còn dung nạp phong cách
của các loại hình nghệ thuật ngoài văn học như hội họa, âm nhạc hay điêu khắc.

1.1.2.2. Đặc trưng về hình thức
Tiểu thuyết là một thể loại tự sự có dung lượng cỡ lớn và hình thức

không ngừng vận động. Tuy vẫn đang hình thành và chưa xong xuôi nhưng các
yếu tố cơ bản như nhân vật, cốt truyện, hoàn cảnh, chi tiết, kết cấu, ngôn từ ở
tiểu thuyết lại được phát triển phong phú và không ngừng thay đổi.
Về nhân vật, nhân vật trong tiểu thuyết được miêu tả một cách tinh tế và
tỉ mỉ, chi tiết ở mọi khía cạnh như con người sống thật sự. Mọi phương diện của
nhân vật từ tính cách, cá tính đến số phận, từ hành động đến tâm lý, từ các loại
quan hệ đến ngôn từ điều được các nhà tiểu thuyết quan tâm và khám phá. Các
nhân vật trong tiểu thuyết được miêu tả một cách toàn vẹn trong tổng hòa các
mối quan hệ từ ý thức đến vô thức, từ bản năng đến tư tưởng, từ mặt xã hội, đến
mặt sinh học… Điều này làm cho nhân vật tiểu thuyết có tính cách, cá tính, tính
chỉnh thể, và có quá trình phát triển. Và đây được xem là điểm nổi bậc của tiểu
thuyết.
Số lượng nhân vật trong tiểu thuyết thì không bị giới hạn. Nó có thể viết
về cả một gia tộc, một thế hệ hay nhiều thế hệ. Trong một tác phẩm có thể
chứa tới hàng trăm nhân vật, như trong Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, hay
trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của L.Tolstoi. Nhân vật trong tiểu
thuyết cũng được tiếp cận một cách đa dạng tùy theo cách miêu tả của người
viết tiểu thuyết. nghĩa là có thể tiếp cận nhân vật thông qua hành động, và tâm lí
hoặc qua hồi ức hay dòng ý thức của nhân vật đó.
Hoàn cảnh trong tiểu thuyết được được khắc họa, phân tích rất chi tiết.
Đó có thể là hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh chiến tranh, môi
trường phong tục, văn hóa, thậm chí hoàn cảnh tưởng tượng.. Chức năng của
hoàn cảnh trong tiểu thuyết rất đa dạng. Ngoài việc cung cấp không gian cho
nhân vật hoạt động, hoàn cảnh còn có tác dụng thúc đẩy nhân vật hành động,


làm phương tiện bộc lộ tính cách, phân tích tâm lí, phân tích xã hội, tạo không
khí chung của tác phẩm.
Cốt truyện của tiểu thuyết phức tạp nhất. Cốt truyện có thể đơn tuyến hay
đa tuyến, cốt truyện có thể giàu kịch tính hay có thể bị pha loãng để thể hiện

chất triết lí hay chất trữ tình. Cách trần thuật của tiểu thuyết cũng rất đa dạng: có
thể kéo theo ngôi thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Có thể sử dụng nhiều loại điểm nhìn
để khắc họa nhân vật từ nhiều góc độ.
Kết cấu trong tiểu thuyết chủ yếu là tổ chức điểm nhìn và trật tự sự kiện
để đưa người đọc đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, là xác lập quan hệ giữa
người kể truyện với nhân vật và người đọc. Nếu truyện cổ và trung đại chủ yếu
sử dụng người kể toàn tri, một giọng thì tiểu thuyết hiện đại đã sử dụng điểm
nhìn linh hoạt và đa dạng. Ngoài điểm nhìn của người trật thuật, điểm nhìn
nhân vật được sử dụng trong các tiểu thuyết bằng thư, tiểu thuyết bằng nhật kí,
bằng các hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp hoặc độc thoại nội tâm. Chính điều
này đã giúp người đọc dễ dàng tiếp cận nhân vật, và đi sâu khám phá chiều sâu
tâm lí nhân vật.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết là một hiện tượng rất phong phú. Lời trần
thuật trong tiểu thuyết mang tính chất độc thoại và có nhiều hình thức đa giọng,
đa thanh như: lời văn nhại, lời mỉa mai, lời văn nửa trực tiếp… Trong tiểu
thuyết, ngôn từ trở thành đối tượng miêu tả của nhà văn. Ngôn từ của nhân vật
thể hiện được tính cá thể của từng nhân vật, phù hợp với cá tính và đặc điểm của
nhân vật.
Tóm lại, qua các đặc điểm nói trên làm cho hình thức của tiểu thuyết đạt
được trình độ phát triển cao nhất trong loại văn tự sự. Như chúng ta đã biết tiểu
thuyết là loại hính đa dạng vận động và chưa xong xuôi nên tiểu thuyết tiếp tục
có những thay đổi lớn trong hình thức thể hiện. Nhưng tiểu thuyết đang ngày
càng khẳng định vị trí của nó so với các thể loại văn học khác. Tiểu thuyết
không chỉ đáp ứng thị hiếu ngày cáng cao của đọc giả mà nó còn là tư liệu
phong phú cho các loại hình nghệ thuật khác như sân khấu, điện ảnh.

1.2.

Tác giả Mori Ogai- tiểu sử và sự nghiệp sáng tác.



1.2.1. Tiểu sử
Mori Ogai tên thật trong khia sinh là Mori Rintaro. Ông sinh ngày 17
tháng 2 năm 1962 và mất ngày 8 tháng 7 năm 1922. Ông sinh tại sinh Tsuwano
tỉnh Lwami ( nay thuộc quận Shimane). Trong một gia đình có truyền thống làm
nghề y, gia đình ông nhiều đời đã làm thầy thuốc cho lãnh chúa Điền trang
Tsuwano. Ông là con trai trưởng nên có nhiệm vụ kế tục truyền thống gia đình,
do đó ông theo học nghề y, ông vào Đại Học Đế Quốc Tokyo học y khoa. Ông
tốt nghiệp năm 1981lúc đó ông chỉ mới 18 tuổi và là người trẻ nhất nhận được
bằng Y tại Nhật Bản cũng kể từ đó Mori Ogai đã có hứng thú với văn học và
ông đã đọc rất nhiều tiểu thuyết nổi tiếng trong giai đoạn cuối thời Edo. Ngoài
ra ông còn học về thi ca và văn học Trung Quốc.
Sau khi tốt nghiệp M.Ogai đã gia nhập Lục quân Đế quốc Nhật Bản trên
cương vị là một bác sĩ, với ước vọng là làm chuyên về quân y và vệ sinh y tế.
Năm 1882 ông được phong làm bác sĩ phó ( hàm Trung Úy).
Năm 1884- 1888, Lục quân gửi ông đến Đức học tập ( Leipzig, Dresden,
Munich, và Berlin). Trong thời gian học ở Đức lúc bấy giờ ông đã bắt đầu có
hứng thú với văn học phương Tây.
Tháng 5 năm 1885 khi trở về Nhật Bản ông được thăng cấp thành bác sĩ
hạng nhất ( hàm Đại úy). Năm 1888, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Lục
quân, ông được phong thành bác sĩ cao cấp hạng nhì(hàm Trung tá) vào tháng
10 năm 1889. Với cương vị mới là một bác sĩ quân y cao cấp, ông đã đẩy mạnh
một cuộc nghiên cứu y khoa bài bản hơn trước, thậm chí còn tự mình xuất bản
một quyển tạp chí y khoa.
Tháng 5 năm 1893 M.Ogai được thăng cấp thành bác sĩ cấp cao hạng
nhất (hàm Thượng tá).
Cuộc đời của ông cũng đã trãi qua những thăng trầm và biến cố của xã
hội Nhật Bản lúc bấy giờ, cũng vì xã hội phong kiến mà ông từ bỏ tình yêu của
mình để chọn danh vọng và cái giá phải trả đó là mang đến cho ông một cuộc
hôn nhân không chọn vẹn và dẫn đến dổ vỡ hạnh phúc hai vợ chồng ly hôn.



Về sau này thời gian đầu của cuộc chiến tranh Trung- Nhật lần thứ nhất,
những năm 1894-1895, M.Ogai được chuyển tới Mãn Châu và năm sau đó là
Đài Loan. Vào tháng 2 năm 1899 ông được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ phận
Quân Y Lục quân với chức vụ phó bác sĩ và đóng quân ở Kokura, Kyushu. Năm
1902 ông được điều đến Toko. Năm 1907 Mori Ogai được thăng cấp lên làm
bác sĩ trưởng của Lục quân ( hàm Trung Tướng), chức vụ cao nhất trong bộ
phận Quân Y Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Năm 1916, sau khi về hưu, ông được
bổ nhiệm làm giám đốc Viện Bảo tàng Đế quốc.
Về cuộc đời thì Mori Ogai trải và những thăng trầm của đất nước, những
biến cố của xã hội, ông là người du học ở Đức và tiếp nhận nền văn học phương
tây để đưa vào trong văn chương của mình, cũng như văn học Nhật phát triển và
đổi mới hơn, nhưng chính cuộc đời ông cũng có những bất lực trước cuộc sống,
ông chán chế độ phong kiến cũ, xô đẩy con người bắt phải lựa chọn, con người
không có tiếng nói riêng của mình, vì thế cuối đời Mori Ogai đã tự xác bắt cách
lấy dao gạch bụng mình, điều đó cũng cho người viết suy ngẫm nhiều về xã hội
Nhật Bản lúc bấy giờ, ông có nhiều tâm sự có nhiều điều uẫn uất không nói ra
được nên bằng cách đó ông đã tự giải thoát cho chính mình. Cũng như nhiều thế
hệ trẻ Nhật Bản khi bế tắc quá với cuộc sống đương thời, con người mất đi lý trí
không còn niềm tin vào cuộc sống họ đã tự tìm cách giải thoát cho chính mình.

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Mori Ogai không chỉ giỏi trong lĩnh vực y học mà ông còn đem lại sức
sống mới cho nền văn học Nhât Bản hiện đại qua việc xuất bản tạp chí văn học
Shigarami Soshi( 1889-1894) và tập thơ của chính mình (Omokage, 1889).
Tiểu thuyết đầu tiên của Mori Ogai được nhiều người biết đến đó là tiểu
thuyết Vũ nữ được ông viết 1890. Tuy ông hoạt động bên y học nhiều và đạt
được quân hiệu cao trong y học. Tiểu này của Mori Ogai khi rra đời rất được
nhiều người yêu mới. Tiểu thuyết Vũ nữ nói về mối tình của một chàng trai

nhật khi qua Đức du học và đã yêu một cô gái người Đức. Nhưng không thành
một phần cũng do những luật lệ hà khắc của xã hội chủ nghĩa tư bản lúc bấy
giờ. Giữa tình yêu và sự nghiệp chàng trai chỉ được quyền chọn một mà thôi.


Sau khi viết tiểu thuyết Vũ Nữ xong Mori Ogai đã gác bút một thời gian
để tiếp tục ngành quân y. Ông đã đạt được địa vị cao nhất trong nghề y là: Tổng
cục trưởng tổng quân y của lục quân. Hai năm sau đó, ông viết tiểu thuyết Nửa
ngày(hannichi, 1909), đó là tiểu thuyết được xây dựng bằng lối văn nói với chủ
đề sự xung đột giữa mẹ chồng nàng dâu, đánh dấu sự trở về với văn đàn của
mình, và từ đó ông sáng tác không ngừng.
Sau đó ông viết tiểu thuyết Tính dục (Vitas Sexualis, 1909), đó là cuốn
tiểu thuyết chống đối lại chủ nghĩa tự nhiên vốn xem tính dục như trung tâm của
cuộc sống.
Còn một số tác phẩm tiêu biểu khác như: Dường như thế ấy(Kanoyoni,
1912) và Dưới cái chùy(Tsui-ikka, 1913), ngoài ra còn một tác phẩm tiêu biểu
khác như: Gia tộc Abe (Abe Ichizoku, 1913), Thuyền giải tù (Takasebune,
1916), Cuộc đời Shibue Chusai(Shibue Chusai , 1916).
Ngoài ra ông còn một tiểu thuyết làm vang dội trong lòng bạn đọc gần
đây nhất đó chính là tiểu thuyết Nhạn. Cũng là tiểu thuyết ông viết cuối cùng
trước khi ông mất. Mori Ogai đã dùng hết tâm huyết của đời mình để viết lên và
tiểu thuyết ấy hiện nay có lưu hành ở Việt Nam vào 2013 cho đến nay.
Tiểu thuyết Vũ nữ là ông viết với thái độ câm phẫn xã hội cũ, với chế độ
hà khắc, những hủ tục cũ đã làm cho ông chịu nhiều đau thương và mất mát
trong tình cảm, bắt ông chọn lựa giữa tình yêu tự do và sự nghiệp danh vọng
tiền tài, ông câm phẫn chế độ đó, ông lên áng và phê phán nó. Nhưng về sau các
tiểu thuyết của ông dường như thờ ơ, dửng dưng với chế độ đó, giống như một
người đứng bên lề, không còn phê phán hay lên áng vấn đề gì của xã hội nữa,
ông chỉ viết về những con người trong thời hiện tại, lòng tham và những suy
toán, những ích kĩ nhỏ nhen của bản thân, qua tiểu thuyết Nhạn ta sẽ thấy rỏ

hơn điều đó.
1.3.

Đôi nét về tiểu thuyết “Nhạn” của Mori Ogai
1.3.1. Xuất xứ của tiểu thuyết “Nhạn”
Tiểu thuyết Nhạn của Mori Ogai là một tác phẩm được ưa chuộng nhất
của ông, nó được ông viết vào năm 1911- 1913 và được xuất bản đầu tiên vào


năm 1881 ở Tokyo và được chuyển thể thành phim bởi ShiroToyoda năm 1953
với tựa đề của bộ phim là The Mistress (bà chủ nhà). Ngoài tên tiểu thuyết là
Nhạn được Hoàng Long dịch và lưu hành ở Việt Nam năm 2013, thì tiểu thuyết
này còn được nhiều người biết đến với nhiều tên khác nữa như là: Gan ,Ngỗng
trời ,Ngỗng ngoan hay Chim nhạn. Tuy tác giả Mori Ogai còn quá xa lạ nhưng
khi một người thật sự yêu thích văn chương chỉ cần đọc qua tiểu thuyết của ông
là vô cùng thích thú nhất là khi đọc tiểu thuyết Nhạn.

1.3.2. Tóm tắt tiểu thuyết “Nhạn”
Nhạn là câu truyện kể về mối tình tay ba giữ mỹ nhân tên Otama và
chàng sinh viên đẹp trai là Okada và một kẻ buôn chuyên cho vai nặng lãi là
Suezo. Okada là một chàng sinh viên học giỏi và ngoan rất được mọi người kính
trọng. Một lần chàng đi dao di ngang qua con con dốc Vo Duyen và tình cờ gặp
được mỹ nhân là Otama kể từ đó hình bóng về nàng cứ lẩn quẩn trong tâm chí
chàng Okada.Otama là người phụ nữ rất đẹp vẻ đẹp của nàng không ai sánh
được, nhưng vì hoàn cảnh gia đình quá nghèo, cha nàng thì hết mực thương yêu
và cưng con gái, nhưng nàng vì bị gạt lở dở với một tên cảnh sát lừa và thế là
nàng 1 lần dang dở tình duyên. Và Suezo đã có vợ con rồi, nhưng vì càng ngày
càng giàu và trở thành thương gia thì hắn bắt đầu chán ngái vợ già xấu xí của
mình, trê vợ mình, đã cho người mai mối cưới Otama, nhưng hắn vẫn giấu
Otama là mình đã có vợ con, Suezo âm thầm mua cho Otama một căn nhà ở

ngay con dốc Vô Duyên để làm nơi riêng cho hắn khi đến với Otama, nói hắn là
một tên vai nặng lãi nhưng lại đối xử với Otama và cha nàng rất tốt, Suezo lo
cho hai người đầy đủ tiện nghi không bất cứ thứ gì. Nhưng khi vợ phát hiện thì
Suezo tìm cách nói dối vợ, và tình cảm vợ chồng ngày càng xa lánh nhau hơn và
những mâu thuẫn cãi vả dần dần và ngày càng một nhiều hơn. Suezo là một
người ích kỉ chỉ biết nghĩ cho bản thân, những thú vui thỏa mãn nhu cầu của
mình, và chỉ nghĩ cứ lo cho vợ vất chất tiện nghi đầy đủ là được, nhưng có lẻ
hắn không biết vợ và các con mình cần có gì. Còn Otama dần dần sống trong
sung sướng, nhưng khi phát hiện mình chỉ là một người vợ hờ thì nàng dần dần
thay đổi, nàng lại bắt đầu nghỉ về Okada, đó là tình cảm mà nàng dành cho


Okada càng ngày càng sâu nặng hơn, Okada cũng yêu nàng nhưng hai người
chưa thổ lộ thì đã đến lúc Okada chia tay nói lời từ biệt nàng đi du học ở Đức.
Nhạn là một tiểu thuyết hay nó như một bộ phim quay chậm từng
chương từng chương lôi cuốn người đọc. Khi đọc xong tiểu thuyết này ta sẽ
thấy rỏ nhưng toan tính, những dằn vặc, mâu thuẫn gia đình, bản chất con người
dần dần hiện ra theo từng chương của tác phẩm. “Nói chung nhân sinh từ bao
đời nay có chung có nịnh có khao khát, có đam mê, có tuyệt vọng thẩn thờ, có
những toan tính nhỏ nhen và những ước vọng phi thường” [3, tr.9]. Nhạn sẽ
mang đến cho độc giả một cảm giác thư thái, tươi mát, dịu êm và những triết lí
nhân văn về cuộc đời trong lòng độc giả của mình.

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TIỂU THUYẾT “NHẠN”
2.1.

Mâu thuẫn gia đình và sự tiếc nuối của tuổi trẻ
2.1.1. Tình thương và những mâu thuẫn trong gia đình
Gia đình chính là tế bào của xã hội nơi đó ta có đầy đủ tình yêu thương
của mọi người giành cho ta, tình thương của cha mẹ, của anh chị em trong gia

đình, nhưng trong đó chứa đựng rất nhiều kỉ niệm buồn vui khi ta còn bé cho đến
khi ta trưởng thành, không phải gia đình nào cũng có hạnh phúc, có gia đình mất
mẹ chỉ còn cha và các con, có gia đình cha mẹ không hạnh phúc cha mẹ cãi nhau
suốt, có gia đình thì chồng có vợ bé các con lại là người chịu khổ… gia đình mỗi
nhà khác nhau, khi chúng ta trãi nghệm mới hiểu hết được cũng như khi đọc một
tác phẩm ta cần suy ngẫm cho kỉ từng chi tiết mới thấy cái hay rong tác phẩm.
Khi đọc tiểu thuyết Nhạn đơn thuần ta không thấy được cái hay trong tiểu thuyết,


nhưng khi giành thời gian suy nghĩ ta sẽ thấy thích thú đọc tác phẩm và tìm ra
được cái hay trong nó.
Khi con người ta có đầy đủ tình thương từ gia đình dù khó khăn vất vả đến
đâu ta cũng có nghị lực vượt qua nhưng nều như ai từng đọc qua tiểu thuyết này
sẽ thấy tình cảm gia đình giữa cha con Otama thật sư vui vẻ hạnh phúc như ngoài
cuộc sống mà bao người mơ ước, Otama từ nhỏ mồ côi mẹ nàng sống với người
cha, hai cha con nương tựa vào nhau mà sống “Cha nàng có một cửa tiệm nhỏ
bán kẹo tò he ở khu Akiha no hara. Trong khi ấy căn nhà phía sau xảy ra biến
động cách mạng. Cái xe bán hang vốn chen vào mái nhà giờ ban đêm nay không
thấy xuất hiện nữa. Giữa căn nhà lúc nào cũng lặng lẽ với vùng xung quanh” [3,
tr. 30], tuy cuộc sống vất vả và khó khăn nhưng Otama vẫn được người cha hết
mực yêu thương, tình thương của cha làm cho cô có thêm nghị lực trong cuộc
sống, dù cuộc sống gia đình của hai cha con khó khăn nhưng Otama không hề
than trách. Nhưng cũng do sự khai hóa văn minh của xã hội biến động cách mạng
nên hoàn cảnh khó khăn của cha con Otama nay càng khó khăn hơn, họ không
biết nhiều chữ nghĩa nên bị tên cảnh sát lừa gạt lấy nàng làm vợ bé “Người cha
vốn cưng chiều đứa con gái hơn cả con ngươi trong mắt mình, lại trao nàng cho
viên cảnh sát tuần tra có gương mặt đáng sợ thì chẳng khác gì như bị Thiên Cẩu
bắt đi” [3; tr.30], người cha rất buồn và đau khổ khi bị gạt và đứa con gái mình
cưng chiều nay phải làm vợ hờ cho người ta, nhưng người cha càng cầm giận
mình hơn do không biết chữ nghĩa nên bị hắn lừa gạt.Tình thương người cha

giành cho Otama vô cùng lớn nên dù có khó khăn nàng vẫn chấp nhận mà không
hề than vãn về cuộc sống của mình.
Khi Suezo cho người mai mối đến hỏi cưới nàng làm vợ lẻ nhưng lại giấu
nàng là chưa có vợ con, Otama không muốn cho cha già chịu khổ nên dù có ra
sao nàng vẫn chấp nhận “ Còn Otama vì phải bán mình để giúp cho cha già bớt
khổ, đã quyết tâm vứt bỏ than mình, đâu quan tâm đến chuyện người mua ra sao
nên khi nhìn thấy vẻ ham muốn hiện lên trong ánh mắt hơi đen và sắc bén của
Suezo, và phục sức cao quý thanh nhã của hắn thì cảm thấy mình đã lượm lại
được cái cuộc đời đã bỏ đi và cũng thấy hài long tong thoáng chốc” [3, tr.48].


Nàng Otama cảm thấy hài long với mọi chuyện, một phần cũng vì tình thương
của nàng dành cho cha, nàng không muốn cha mình phải chịu đựng thêm những
tháng ngày vất vả khi tuổi một già yếu đi, nên nàng chấp nhận làm vợ Seuzo.
Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó, càng đi sâu vào tác phẩm ta càng thấy rỏ
hơn chuyển biến tâm trạng của Otama, lúc đầu vì tình cha nàng chấp nhận làm vợ
Suezo, nhưng đến khi nàng về làm vợ Suezo thì tình cảm giữa hai cha càng ngày
càng xa dần, nàng không dám đến thăm cha vì sợ Suezo đến thăm nàng đột xuất,
nàng nhớ cha vô cùng nhưng không qua thăm cha, người cha thì ngày đêm nhớ
thương con gái “người cha sau khi chuyển nhà về xóm Bờ Ao vốn trước đây chật
vật về sinh kế, đột nhiên lại trở nên quá nhàn nhã thoải mái nên cứ ngơ ngẩn như
bị hồ ly bắt mất hồn vía. Rồi thì nhớ nhung vô ngần những đêm tình của hai cha
con dưới chiếc đèn nhỏ nay đã không còn nữa, thật như một giấc mộng trôi qua.
Thế là chỉ mong ngóng từng ngày từng giờ con bé Otama đến thăm mình. Tuy
vậy đã nhiều ngày trôi qua mà Otama chưa một lần ghé đến” nỗi nhớ mong con
gái đếm thăm mình càng ngày càng da diết hơn, nhưng tình cảm giữa Otama va
cha nàng nay không còn như xưa, nàng nay đã có chồng dù làm bất cứ chuyện gì
nàng cũng giữ khẽ.
Đến khi Otama sai con bé Ume người ở trong nhà mua cá tươi ngoài chợ
về làm món ăn và bị bà chủ bán cá hỏi chuyện và nói rằng “về nói với chủ mày là

nhà tao không bán cá cho loại người làm vợ hờ kẻ cho vai nặng lãi” thì nghe
xong Otama “xanh xám mặt mũi và nàng im lặng hồi lâu”. Từ khi biết chuyện
Otama thấy cuộc sống như chao đảo nàng không dám đối diện hỏi thẳng người
chồng nàng chỉ biết im lặng và chấp nhận. Khi được phép phu quân cho đến thăm
cha nàng lại giấu đi cảm xúc của mình, giầu đi bí mật nàng không dám nói thẳng
cho cha nghe, nhưng người cha vốn yêu thương con ái nên tìm đủ mọi cách để
hỏi. Nếu như không biết chuyện nàng là vợ hờ của một kẻ chuyên cho vai nặng
lãi thì có lẽ cuộc gặp gỡ giữa cha con Otama sẽ vui và hạnh phúc biết bao chứ
không phải môt bầu không khí căng thẳng, nhưng vì không muốn cha buồn
Otama đã cố tỏa ra mạnh mẽ và cứng rắn để người cha yên tâm.


Nhưng tình cảm giữa Suezo và người vợ già ngày càng có sự căng thẳng
có những cuộc cãi vả, mâu thuẫn dần dần một lớn hơn, từ khi Suezo lấy Otama
làm vợ lẻ, lúc nào cũng nghĩ chỉ cần lo cho vợ còn có đầy đủ tiện nghi, cho tiền
điều đặn là sẽ không bị vợ phát hiện chuyện mình làm, gia đình là nơi ta được
yêu thương được che chở, các con phải được cha mẹ giáo dục tốt, nhưng Suezo từ
khi trở thành thương gia hắn chưa hề suy nghĩ tới vợ con chỉ biết thỏa mãn nhu
cầu của bản thân, nhưng ham uốn dục vọng của chính mình, chưa hề quan tâm
đến suy nghĩ của những người than bên cạnh mình, Suezo cứ nghỉ có tiền cho họ
thì mình muốn làm gì cũng không ai cản trở được. Đồng tiền sức mạnh của đồng
tiền làm cho Suezo thay đổi hoàn toàn, từ khi có tiền hắn bắt đầu trê người vợ già
xấu xí, mà mơ tưởng đến đóa hoa khác, xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ cũng vậy
con người có tiền thì thay đổi mọi vấn đề.
Vợ chồng Suezo và Otsune có những cãi quả, Otsune nghen chồng mình
có vợ hờ bên ngoài, Otsune khóc rung rức và nói với “ Trên đời này có ai giống
như anh không? Tiền làm ra bao nhiêu chỉ biết sắm sửa cho bản than, không
mua được cho vợ một tấm áo kimono, bỏ mặc con cái cho vợ chăm sóc mà lại
ung dung di bao gái nữa” [3; tr.82]. Otsune đau khổ và ghen tuông khi biết
chồng mình có vợ hờ, không chỉ trong tiểu thuyết mà trong cuộc sồng hiện nay

xã hội có rất nhiều gia đình có tiền vợ chồng không hạnh phúc, cãi quả suốt ngày
rồi hờ ghen gấy ra nhiều bi kịch trong đời sống. Otsune là phụ nữ là người mẹ,
người vợ cũng muốn được như bao người phụ nữ khác cũng muốn được hạnh
phúc, nhưng Suezoo lạ không làm được gì cho vợ chỉ biết đến bản thân mình. Rồi
Suezo dỗ ngọt vợ bằng những lời nói của mình “không cần phải làm gì cả,em
bản chất là người tốt nên bị kẻ khác kích động thôi”. Biết vợ ghen tuông và biết
được chuyện, nhưng Suezo van bình tĩnh xem như không hề có chuyện mà còn
dỗ dành vợ. Cũng vì có tiền nên Suezo chán vợ già, người phụ nữ ấy hết lòng vì
gia đình vì chồng con cô không hề có tội, nhưng số phận người phụ nữ trong xã
hội lúc bấy giờ không có học cao, không được giao tiếp rộng rãi như đàn ông họ
chỉ biết chăm sóc con cái nên việc ghen tuông, việc lo lắng người chồng có vợ bé
là điều khó tránh khỏi, nhưng Suezo lại hết lần này đến lần khác nói đối vợ hắn


biện đủ lí do để vợ tin mình “ Đừng nói những lời ngu ngốc đó! Anh không phải
loại đàn ông đi dan díu với phụ nữ khác khi đã có vợ con như em bên cạnh.
Trước giờ có lần nào anh nhăng nhăng với người con gái khác chưa? Mình đâu
còn trong tuồi ghen tuông bóng gió đâu em. Đừng có làm quá”. Những lời biện
minh của mình làm cho vợ không còn cách nghi ngờ mình nữa, người vợ chỉ còn
cách tin vào lời chồng nói có lẽ do Otsune quá yêu chồng, nghe chống nói cô chỉ
còn biết im lặng hạ giọng nhẹ nhàng xuống “ Nhưng em không thể không lo lắng.
Phụ nữ rất thích kiểu người như anh”. Nỗi lo lằng chồng có người phụ nữ khác
bên ngoài càng nhiều hơn, Otsune càng suy nghĩ nhiều hơn về chồng mình.
Nhưng dường như những lời nói phân bua lẩn lộn thật giả của suezo nhất thời dập
tắt được ngọn lửa ghen tuông của người vợ, nhưng đó chỉ là sự hòa hoãn nhất
thời.
Sau một thời gian Suezo cứ nghĩ vợ mình hoàn toàn tin tưởng vào những
lời biện minh nói dối của mình, đến khi Otsune tình cờ gặp Otama trên phố,
nhìn thấy Otama cầm chiếc dù trên tay y như chiếc dù mà Suezo mua cho mình,
rồi mối nghi ngờ ngày càng lớn, mâu thuẫn giữa vợ chồng Suezo và Otama ngay

càng gay gắt hơn, nhưng nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh Otsune mà suy nghĩ thì
ta thấy rằng đó là người phụ nữ đáng thương, người vợ ấ không có tiếng nói,
không làm gì được chồng, vì quá yêu chồng yêu con, nên nàng ghen tuông rồi
hết lần này đến lần khác nghe những lời biện minh của người chồng, nàng cũng
có ước mơ cho bản than nhưng ước mơ đó chỉ là nhỏ nhoi không được người
chồng thực hiện “mình cũng muốn con mình được mặc đồ kimono đẹp đẽ thế mà
lão ấy có sắm cho đâu. Đối với đứa con trai thì lão nói chỉ cần một manh áo là
được rồi chứ gì. Còn đứa con gái thì lão nói là còn nhỏ quá may kimono cho thì
nó phí đi. Có vợ con nào của người nhiều tiền lắm của giống như mẹ con mình
không chứ. Bây giờ thử nghĩ lại thì có lẽ vì người đàn bà đó mà mình với mấy
đứa con mới bị bỏ bê chăng” [3; tr.92]. Người vợ suy nghĩ cho bản thân rồi trách
cho số phận, rồi suy nghĩ lung tung và cho rằng mọi chuyện do Otama, nhưng
chúng ta cũng thấy đồng cảm và sót xa cho Otsune một người vợ cảm thấy tủi
thân khi bị người chồng phản bội. Mái ấm gia đình không hạnh phúc những xung


đột trong gia đình càng ngày càng lớn dần,tình cảm vợ chồng không còn đầm ấm,
Suezo cũng ngày càng chán vợ hơn và không muốn về gia đình, sợ đối diện ới
Otsune rồi vợ chồng cãi quả nhiều hơn. Mọi chuyện bực mình Otsune điều chút
giận lên con cái rồi la mắng chúng “không khí trong nhà Suezo càng ngày càng
nghiêng về phía trầm uất, nặng nề khó chịu. Otsune đôi khi thẫn thờ nhìn trời
mây, không đụng tay chân vào việc gì cả. Những lúc ấy, chị không thể chăm lũ
con, chúng nó vừa nói muốn cái gì là chị ngay lập tức la mắng om sòm. Khi nhận
thấy mình la mắng chúng dữ quá,chị lại xin lỗi con rồi ngồi khóc một mình” [3,
tr.101]. Otsune vì chồng càng xung dột mâu thuẫn thì cô lại bỏ mặt gia đình bỏ
mặt các con không quan tâm đến chuyện nhà cửa, các con đi học mặt quần áo
cũng không gọn gàn sạch sẽ như trước, tác giả muốn cho người đọc cảm thông
hơn với số phận của người vợ, những lúc nàng ngồi khóc sau khi la mắng các
con, đó cũng vì tình yêu cho chồng con, Otsune bế tắt không còn biết làm gì hơn
để ngăn cản chồng mình, cô cố gắng chịu đựng mọi thứ vì con cái, những giọt

nước mắt mang đầy tâm sự và long trắc ẩn của người phụ nữ, cũng bởi Suezo một
người chông không thỏa mãn nhu cầu bản thân, đã làm cho vợ con chịu khổ, đó
cũng là tầng lớp trẻ nước Nhật thời bấ giờ, dưới chế độ phong kiến cũ thì người
phụ nữ hoàn toàn bất lực, họ không có quyền định đoạt số phận và hạnh phúc của
mình. Otama va Otsune là hai người phụ nữ một người vì con cái vì chồng con
nhưng lại phải chấp nhận sang sẽ chồng biết chồng có vợ bé vẫn không làm gì
được chỉ biết hờn ghen trúc giận lên các con, còn Otama vì cha không muốn cho
cha chịu khổ trong khi tuổi già mà nàng chấp nhận làm vợ hờ cho một tên chuyên
cho vai nặng lại, đó là hai số phận đáng thương trong xã hội, tuy họ không cùng
chung số phận, nhưng họ chung nhau nỗi khổ tâm, họ bế tắt trong cuộc sống.

2.1.2. Những toan tính và sự tiếc nuối trong cuộc sống
Chúng ta sống luôn có những toan tính riêng của bản than, đó có thể là
toan tình cho tương lai, cho chính mình, cho nhu cầu thỏa mãn thú vui của chính
mình, nhưng chúng ta lại quên đi những người xung quanh mình, để rồi sau này
ta có sự tiế nối dằn vặc cho những việc ta làm hay những việc ta chưa làm được,
Mori Ogai đã thể hiện hiện điều đó trong tiểu thuyết Nhạn rất rỏ rang, đọc kỉ ta


sẽ thấy được những toan tính trong cuộc sống, những tiếc nuối ta thấy được
những gì tác giả miêu tả trong tiểu thuyết Nhạn nó rất gần gũi với cuộc sống
hiện tại của chúng ta, nói đùng hơn đó là những gì đang diễn ra đối với những
tầng lớp trẻ của nước Nhật lúc bây giờ.
Sự toan tình cho bản thân, chỉ muố thỏa mãn nhu cầu cho chính mình,
cho những ham muốn cá nhân mà Suezo không hề suy nghĩ cho vợ con chỉ biết
đến bản thân, Suezo là một người thanh niên từ lảm việc sai vặt trong trường
cho đến khi dành giụm tiền mà cho các thanh niên khác vai lại Suezo luôn toan
tình rất tỉ mỉ, cho đến việc sau này giàu có hắn lại muốn cưới Otama làm vợ lẻ,
Suezo đã suy nghỉ và toan tính rất kỉ lưỡng, việc mua nhà cho Otama để sau khi
cưới xong hằn tiện cho việc qua lại mà giấu được vợ già ở nhà, Suezo đã suy

nghĩ rất kỉ và đắn đo mới chọn được căn nhà ở ngay con dốc Vô Duyên “căn
nhà ở phía bờ ao có cái khung cảnh nhìn ra đẹp đấy nhưng về khung cảnh đẹp
căn nhà này cũng có nhiều. TIền nhà tuy rẻ nhưng hễ thuê nhà thì tốn kèm lắm.
Hơn nữa nó nằm hơi thoáng mát rộng rãi thì lại dễ chạm tay mắt người đời.
Nếu lơ đễnh mà mở cửa sổ ra mà mụ vợ dẫn lũ con đi lên phố Nakacho thấy thì
phiền lắm. CĂn nhà ở phía con dốc Vô Duyên thì có vẻ âm u nhưng ngoài bọn
sinh viên đi dạo bộ qua thì chẳng mấy khi có người lai vãng. Bây giờ bỏ tiền ra
mua thì có phiền hà đấy nhưng được cái là các đồ gỗ trong nhà còn sử dụng tốt
lắm nên nếu mua thêm bảo hiểm thì lúc nào bán lại cũng được nguyên giá nên
có thể yên tâm. Thôi, chọn ngay, chọn ngay căn nhà ở dốc Vô Duyên”[ 3,tr.37].
Chỉ việc chọn mua nhà thôi mà Suezo vẫn phải suy nghĩ đắn đo rất kỉ mới quyết
định chọn căn nhà ở ngay con dốc Vô Duyên ít người qua lại. Mọi chuyện
Suezo suy nghĩ và toan tính cũng chỉ để thỏa mãn nhu cầu bản than. Cho đến
việc cho bà mai hỏi cưới Otama rồi ra mắt ở quán Matsugen, hắn chỉ dự định
làm một bữa tiệc nhỏ để ra mắt sau đó nhanh nhanh đến bên Otama hai người
hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu dục vọng của mình.
Nhưng những toan tính dường như không như Suezo mong đợi, Suezo cứ
nghĩ chỉ có Otama đến nay có thêm cha nàng nữa mọi cho phí càng thêm tốn
kém hơn, rồi Otama chỉ có một mình cha là người than duy nhất nên khi chấp


nhận lấ Suezo cũng vì muốn cho cha được sống an nhàn tuổi già hơn “Otama vì
phải bán mình để giúp cho cha già bớt khổ, đã quyết tâm vứt bỏ than mình, đâu
quan tâm đến chuyện người mua ra sao nên khi nhìn thấy vẻ ham muốn hiện
lên trong ánh mắt hơi đen và sắc bén của Suezo, và phục sức cao quý thanh nhã
của hắn thì cảm thấy mình đã lượm lại được cái cuộc đời đã bỏ đi và cũng thấ
hài long trong thoáng chốc” [3, tr.48]. Otama cha mà nàng chấp nhận số phận
những toan tính trong người phụ nữ này chỉ là muốn cứu giúp cha già muốn cha
sống àn nhàn tuổi già chứ nàng chưa hề suy nghĩ cho bản thân mình, con Suezo
thì hoàn toàn ngược lại, ngoài bản thân ngoài thỏa mãn nhu cầu cá nhân ra

không hề suy nghĩ gì khác, nhưng hắn lại thay đổi khi gặp Otama va cha nàng,
Suezo cảm thấy không khí ấm áp hạnh phúc của gia đình, dù cho Suezo là một
tên cho vai nặng lãi chỉ toan tình cho mình, nay lại mua thêm căn nhà ở xóm Bờ
Ao để cho Otama được gần cha hơn, rồi đối xử với cha vợ rất tử tế và chu đáo,
những việc làm đó chỉ là lấy lòng người vợ Otama, nhưng tận đáy lòng Suezo
lại cảm nhận được hương vị hạnh phúc gia đình mà bấ lâu nay anh không cảm
nhận được khi ở bên vợ và các con mình “Tuy nhiên Suezo trong lúc mơ màng
cảm nhận được cái bóng hạnh phúc đang chập chờn như huyễn ảnh ở nơi này
thì cũng chẳng suy nghĩ sâu xa mà phản tỉnh rằng tại sao trong nhà mình lại
không có cái hương vị đầm ấm như thế hay cân nhắc xem thử là nếu nhà mình
chỉ cần có điều kiện đó thôi thì có đủ làm thỏa mãn mình với vợ mình hay
không?” [3, tr.49]. Trong thâm tâm Suezo cảm thấy hạnh phúc cảm nhận được
hơi ấm gia đình mà bấy lâu Suezo không có nhưng trong tim Suezo vẫn có chút
suy nghĩ về vợ mình, nhưng có lẻ vì đồng tiền khi có tiền nhiều con người ta
thay đổi thay đổi hoàn toàn. Nhưng từ bao đời nay “ anh hùng khó qua ải mỉ
nhân” nên khi gặp Otama va cha nàng Suezo đã mua nhà cho họ và chu cáp cho
họ đầ đủ tiện ghi, Suezo vốn tính toán và mưu mô tiếc tiền tiếc của, nhưng dối
với Otama thì suezo không tiếc thứ gì cả.
Nhưng khi về làm vợ Suez, Otama tối ngày chỉ thui thủi trong nhà một
mình cùng người hầu, điều làm nàng hạnh phúc nhất chình là đêm đêm phu
quân đến thăm, Otama xinh đẹp không ai sánh bằng lại còn ngoan hiền nết na,


×