Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Báo cáo về phần chung bộ luật hình sự cộng hoà liên bang đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.51 KB, 18 trang )

Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

GS.TS. NguyÔn Ngäc Hoµ *
PGS.TS. Lª ThÞ S¬n **

P

hần chung Bộ luật hình sự CHLB Đức gồm

2). Đồng thời, luật cũng quy định cách xử lí

5 chương với các quy định từ Điều 1 đến

những loại trường hợp cụ thể có thể xảy ra. Đó

Điều 79. Trong đó, các vấn đề chung về luật
hình sự, về hành vi phạm tội, về hậu quả pháp lí

là các trường hợp:
- Trường hợp luật thay đổi trong khi hành vi

của hành vi phạm tội được quy định một cách
cụ thể, chi tiết.

được thực hiện thì luật được áp dụng là luật có
hiệu lực khi hành vi kết thúc (khoản 2 Điều 2);

1. Các vấn đề chung về luật hình sự

- Trường hợp luật có hiệu lực khi hành vi


Các vấn đề chung về luật hình sự được quy
định trong Chương thứ nhất của Bộ luật hình sự

kết thúc bị thay đổi trước khi ra quyết định thì
luật được áp dụng là luật nhẹ nhất (khoản 3

(BLHS). Chương này có 12 điều quy định về

Điều 2).

hiệu lực, về các loại tội phạm và về định nghĩa
của một số khái niệm được sử dụng trong Bộ

Khi quy định hiệu lực về không gian, luật
hình sự Đức tuân thủ các nguyên tắc sau:(1)

luật.

- Nguyên tắc lãnh thổ;

Hiệu lực là vấn đề được đề cập đầu tiên
trong BLHS với các quy định rất cụ thể. Khi

- Nguyên tắc cờ phương tiện;(2)
- Nguyên tắc quốc tịch (chủ động và bị

quy định hiệu lực thời gian, nhà làm luật tuân thủ

động);(3)


triệt để nguyên tắc “Không có luật thì không có
tội”. Nguyên tắc này đã được thể hiện trong

- Nguyên tắc bảo vệ quốc gia (nguyên tắc
bảo vệ) và

điều luật riêng có tiêu đề “Không có hình phạt
khi không có luật” với nội dung: “Một hành vi

- Nguyên tắc theo luật quốc tế (nguyên tắc
toàn cầu).

chỉ có thể bị xử phạt (hình sự) nếu việc bị xử

Từ nguyên tắc trên, BLHS Đức chia hiệu

phạt đã được luật quy định trước khi hành vi
được thực hiện” (Điều 1). Như vậy, luật hình

lực không gian thành ba loại trường hợp: Hiệu
lực đối với các hành vi trong nước; hiệu lực đối

sự Đức không có hiệu lực hồi tố. Khi quy định

với hành vi xảy ra trên tàu thuỷ, tàu bay Đức và

về hiệu lực thời gian, luật hình sự Đức xuất phát
từ nguyên tắc chung là hình phạt và các hậu quả

hiệu lực đối với hành vi ở nước ngoài. Đối với

trường hợp thứ nhất và thứ hai, luật hình sự Đức

kèm theo được xác định theo luật đang có hiệu
lực tại thời gian thực hiện hành vi (khoản 1 Điều
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
21

* Trường Đại học Luật Hà Nội
** Giảng viên chính Khoa pháp luật hình sự
Trường Đại học Luật Hà Nội


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

luôn luôn có hiệu lực. Đối với trường hợp thứ
ba, luật phân biệt tiếp thành ba loại: Hiệu lực đối
với hành vi ở nước ngoài chống lại các đối
tượng được pháp luật trong nước bảo vệ (Điều
5); hiệu lực đối với hành vi ở nước ngoài chống
lại các đối tượng được pháp luật quốc tế bảo vệ
(Điều 6) và hiệu lực đối với hành vi ở nước
ngoài trong các trường hợp khác (Điều 7). Tại
cả 3 điều luật này, nhà làm luật đều liệt kê một
cách cụ thể các trường hợp mà luật hình sự Đức
có hiệu lực (có thể là điều luật cụ thể, khoản cụ
thể và điểm cụ thể). Trong đó có trường hợp
luật hình sự Đức có hiệu lực mà không cần điều
kiện kèm theo (như trường hợp Điều 80 BLHS
– Chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược hoặc
trường hợp Điều 316c BLHS – Các tấn công

giao thông hàng không hoặc hàng hải; v.v..),(4)
có trường hợp luật hình sự Đức chỉ có hiệu lực
khi thoả mãn điều kiện khác như điều kiện về
quốc tịch của người phạm tội, người bị hại; điều
kiện về tính trái pháp luật hình sự của hành vi tại
nơi hành vi xảy ra; v.v.. Ví dụ: Trường hợp Điều
218 – Phá thai phải kèm theo điều kiện người
thực hiện tội phạm tại thời gian thực hiện hành vi
phải là người Đức và có nguồn sống chính trong
phạm vi hiệu lực không gian của BLHS hoặc
trường hợp Điều 108e – Hối lộ dân biểu phải
kèm theo điều kiện người thực hiện tội phạm tại
thời gian thực hiện hành vi phải là người Đức
hoặc hành vi được thực hiện đối với ngưòi
Đức.(5) Nói chung, với 5 điều luật khác nhau (từ
Điều 3 đến Điều 7) BLHS Đức quy định vấn đề
hiệu lực về không gian rất chi tiết, cụ thể.(6)
Để có cơ sở thống nhất cho việc áp dụng
22

các quy định về hiệu lực BLHS Đức còn có hai
điều luật giải thích rõ thời gian thực hiện hành vi
(Điều 8) cũng như nơi thực hiện hành vi (Điều
9).
Các loại tội phạm được phân loại trong
Phần chung BLHS Đức là tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Theo Điều
12, tội phạm nghiêm trọng được định nghĩa là
các hành vi trái pháp luật bị đe doạ ở mức thấp
nhất với hình phạt tự do 1 năm hoặc cao hơn;

còn tội phạm ít nghiêm trọng được định nghĩa là
các hành vi trái pháp luật bị đe doạ ở mức thấp
nhất với hình phạt tự do nhẹ hơn hoặc là hình
phạt tiền.
Như vậy, trong BLHS Đức, tội phạm được
phân thành hai loại tội và việc phân loại này căn
cứ vào mức thấp nhất của khung hình phạt.(7)
Tuy nhiên, BLHS Đức không có định nghĩa
chung về tội phạm. Định nghĩa này chỉ có thể
thấy trong các sách báo pháp lí. Trong đó, tội
phạm thường được định nghĩa là hành vi thoả
mãn cấu thành tội phạm (CTTP), trái pháp luật
và có lỗi.(8) Theo các nhà nghiên cứu thì hành vi
bị coi là tội phạm có 3 dấu hiệu (đặc điểm). Đó
là:
- Dấu hiệu thoả mãn CTTP;
- Dấu hiệu trái pháp luật và
- Dấu hiệu có lỗi.
Trong định nghĩa này, dấu hiệu thứ nhất
nhằm khẳng định tội phạm phải là hành vi được
quy định trong luật hình sự; dấu hiệu thứ hai đòi
hỏi hành vi đó (hành vi đã thoả mãn dấu hiệu
thứ nhất) không phải là hành vi được thực hiện
trong tình trạng có căn cứ biện minh (căn cứ loại
trừ tính trái pháp luật của hành vi như phòng vệ

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức


khẩn cấp, tình trạng khẩn cấp...)(9)
Trong ba dấu hiệu trên đây của tội phạm có

Bên cạnh việc quy định trường hợp không
có năng lực lỗi, luật hình sự Đức còn quy định

hai dấu hiệu thuộc về dấu hiệu hình thức pháp lí.
Đó là dấu hiệu thứ nhất và dấu hiệu thứ hai. Hai

trường hợp năng lực lỗi hạn chế. Đây là trường
hợp năng lực nhận thức hoặc năng lực điều

dấu hiệu này tương đương với dấu hiệu “tính trái

khiển hành vi theo sự nhận thức chỉ bị hạn chế

pháp luật hình sự” trong định nghĩa tội phạm của
nhiều nhà khoa học Việt Nam.(10)

do các nguyên nhân như nguyên nhân của
trường hợp không có năng lực lỗi.(13) Trường

2. Các vấn đề chung về hành vi phạm

hợp này được giảm nhẹ hình phạt.

BLHS Đức không có điều luật định nghĩa

Người đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi

tuy không thuộc trường hợp không có năng lực

tội phạm nhưng có cả một chương quy định về

lỗi nhưng cũng không thể khẳng định được ngay

hành vi phạm tội. Trong đó, các quy định tập
trung vào các vấn đề sau:

là họ có năng lực lỗi. Để xác định họ có năng

tội

2.1. Vấn đề chủ thể của tội phạm
Từ nguyên tắc có lỗi, luật hình sự Đức đòi

lực lỗi hay không toà án phải xem xét mức độ
phát triển cụ thể của họ.(14)
2. 2. Vấn đề lỗi và các trường hợp sai

hỏi chủ thể của tội phạm phải là người có năng

lầm

lực lỗi. Năng lực lỗi tại thời điểm thực hiện
hành vi là điều kiện để người thực hiện có thể có

Theo BLHS Đức có hai loại lỗi là cố ý và
vô ý nhưng BLHS cũng khẳng định: “Chỉ thực


lỗi. Luật hình sự Đức không trực tiếp quy định

hiện cố ý mới bị xử phạt trừ khi Luật đe doạ

như thế nào là có năng lực lỗi mà quy định
những trường hợp không có năng lực lỗi. Đó là

việc thực hiện vô ý với hình phạt một cách
rõ ràng” (Điều 15). Theo đó, tội phạm trước

trường hợp:

hết là tội cố ý và dấu hiệu lỗi cố ý không cần

(11)

- Người chưa đủ 14 tuổi (Điều 19);
- Người không có năng lực lỗi do các rối

phải được mô tả trong CTTP. Trong các trường
hợp mà nhà làm luật thấy cần phải coi hành vi vô

loạn tâm thần (Điều 20).(12)

ý cũng là tội phạm thì dấu hiệu lỗi vô ý phải

Theo luật Đức thì người say do dùng rượu
hoặc dùng chất kích thích mạnh khác cũng được

được ghi rõ trong CTTP.

BLHS Đức không chỉ khẳng định tội phạm

coi là người không có năng lực lỗi (do rối loạn ý
thức nặng). Tuy nhiên, theo nguyên tắc có tính

phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý mà còn khẳng định

tập quán “actio libera in causa” họ vẫn phải chịu

việc chịu trách nhiệm hình sự tăng nặng về hậu
quả đặc biệt của hành vi chỉ được đặt ra khi chủ

hình phạt về hành vi thoả mãn cấu thành tội
phạm (CTTP) được thực hiện trong tình trạng

thể có lỗi đối với hậu quả đó, ít nhất là vô ý
(Điều 18).

say đó nếu họ có lỗi đối với tình trạng say của

BLHS Đức quy định hai loại lỗi như vậy

mình.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
23

nhưng không định nghĩa cụ thể từng loại lỗi và


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức


do vậy cũng không có việc xác định các hình

lầm. Đây là các điều luật xác định trường hợp

thức của lỗi cố ý và lỗi vô ý.

không có lỗi hoặc không có lỗi cố ý. Cụ thể,

Tuy nhiên, trong lí luận về luật hình sự, lỗi
cố ý có thể là:

Điều 17 quy định về trường hợp không có lỗi do
sai lầm về việc cấm: “Nếu khi thực hiện hành

- Cố ý chủ định;

vi mà thiếu ở người thực hiện sự nhận biết là

- Cố ý trực tiếp và
- Cố ý gián tiếp (cố ý có thể).

thực hiện không hợp pháp thì người đó thực
hiện không có lỗi nếu họ không thể tránh

Cố ý chủ định thực chất là dạng đặc biệt

được sự sai lầm này...”. Điều 16 quy định về

của cố ý trực tiếp, trong đó người phạm tội

không chỉ mong muốn hậu quả trực tiếp mà còn

trường hợp không có lỗi cố ý do sai lầm về các
tình tiết của hành vi: “Người nào khi thực hiện

mong muốn cả hậu quả được luật quy định dưới

hành vi mà không biết một tình tiết thuộc

dạng ý muốn. Đây là dạng cố ý ở những tội có

CTTP thì họ thực hiện không cố ý…”. Ngoài

mục đích là dấu hiệu bắt buộc.

ra, điều luật này còn quy định: “ Người nào khi

Cố ý trực tiếp là trường hợp trong đó người

thực hiện hành vi có sự sai lầm về các tình

phạm tội biết hoặc thấy trước một cách chắc
chắn hành vi của mình sẽ thoả mãn CTTP.

tiết mà các tình tiết này thoả mãn CTTP của
luật nhẹ hơn thì chỉ có thể bị xử phạt vì hành

Cố ý gián tiếp (cố ý có thể) là trường hợp
trong đó người phạm tội cho rằng hành vi của


vi cố ý theo luật nhẹ hơn đó.”
2.3. Vấn đề thực hiện qua không hành

mình có thể sẽ thoả mãn CTTP và chấp nhận

động và vấn đề thực hiện cho người khác

điều đó.
Hai hình thức của lỗi vô ý là:

Đây là hai vấn đề thuộc hành vi phạm tội
được xác định ngay trong BLHS Đức. (17) Theo

(15)

- Vô ý có ý thức và

Điều 13, việc gây hậu quả được mô tả trong

- Vô ý không có ý thức.
Vô ý có ý thức là trường hợp người phạm

một CTTP có thể được thực hiện qua không
hành động và khác với thực hiện qua hành động

tội cho rằng hành vi của mình có thể thoả mãn

người thực hiện như vậy chỉ có thể bị xử phạt

CTTP nhưng lại tin rằng hành vi đó sẽ không

thoả mãn CTTP.

theo luật hình sự khi họ có trách nhiệm pháp lí
không để cho hậu quả đó xảy ra. Tuy nhiên,

Vô ý không có ý thức là trường hợp người

điều luật này cũng quy định: Hình phạt có thể

phạm tội do không chú ý đến sự cẩn thận cần
thiết nên đã không thấy được hành vi của mình

được giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 49.
Điều 14 xác định các trường hợp thực hiện

có thể thoả mãn CTTP.(16)
Để phân biệt trường hợp có lỗi với các

cho người khác bao gồm trường hợp thực hiện
cho người khác do có quyền đại diện và trường

trường hợp không có lỗi, BLHS Đức còn có

hợp do được uỷ nhiệm. Theo đó người thực

các điều luật quy định về các trường hợp sai

hiện phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều luật

24


TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

mà trong đó quy định dấu hiệu nhân thân đặc

hiện không phải là tội phạm, chủ thể đều không

biệt của chủ thể mặc dù họ không có dấu hiệu

phải chịu trách nhiệm hình sự. Sự khác nhau

đó nếu dấu hiệu này có ở người được đại diện
hoặc người uỷ nhiệm ngay cả khi hành vi pháp lí

giữa hai trường hợp này thể hiện ở các điểm sau:
- Về phạm vi nguy hiểm hiện hữu: Nguy

xác lập quyền đại diện hoặc quan hệ uỷ nhiệm

hiểm hiện hữu trong tình trạng khẩn cấp hợp

không có hiệu lực.
2.4. Các căn cứ biện hộ (các căn cứ loại

pháp có phạm vi rộng hơn, bao gồm tính mạng,
thân thể, tự do, danh dự, tài sản hoặc đối tượng


trừ tính trái pháp luật của hành vi).(18)

được pháp luật bảo vệ khác của mình hoặc của

Các căn cứ biện hộ là các căn cứ làm cho
người thực hiện hành vi bị quy định là tội phạm

người khác; còn trong tình trạng khẩn cấp
không có lỗi, phạm vi này hẹp hơn, chỉ bao gồm

nhất định không phải chịu trách nhiệm hình sự

nguy hiểm đến tính mạng, thân thể, tự do và sự

do hành vi đó không còn trái pháp luật hoặc

nguy hiểm này chỉ giới hạn là của mình hoặc của

không có lỗi. Theo khoa học luật hình sự của

người thân thích hoặc của người khác có quan

Đức, căn cứ biện hộ có thể được luật định hoặc

hệ gần gũi với mình.

được tập quán thừa nhận. Trong BLHS Đức có
3 điều luật quy định về các căn cứ biện hộ. Đó

- Về so sánh giữa lợi ích cần bảo vệ và lợi

ích bị gây thiệt hại, giữa hành vi bảo vệ và sự

là:

nguy hiểm: Vấn đề này chỉ đặt ra trong tình trạng
khẩn cấp hợp pháp. Cụ thể: lợi ích cần bảo vệ

- Phòng vệ khẩn cấp (Điều 32);
- Tình trạng khẩn cấp hợp pháp (Điều 34) và

phải hơn hẳn lợi ích bị gây hại và hành vi bảo vệ

- Tình trạng khẩn cấp không có lỗi.
Theo Điều 32, hành vi được thực hiện do

là phương tiện tương xứng để ngăn chặn sự
nguy hiểm.(20)

(19)

yêu cầu của phòng vệ khẩn cấp là hành vi không

2.5. Phạm tội chưa đạt

trái pháp luật. Đó là trường hợp tự vệ cần thiết
để ngăn chặn sự tấn công hiện hữu trái pháp luật

Điều 22 BLHS định nghĩa: Hành vi phạm tội
là chưa đạt khi người nào bắt đầu trực tiếp làm


chống lại mình hoặc người khác.

thỏa mãn CTTP theo sự hình dung của họ về

Vượt quá giới hạn phòng vệ khẩn cấp do
hốt hoảng, sợ hãi hoặc hoảng loạn thì không bị

hành vi.
Với định nghĩa này, phạm tội chưa đạt được

xử phạt (Điều 33).

hiểu là trường hợp đã thực hiện hành vi trực tiếp

Tình trạng khẩn cấp trong BLHS Đức bao
gồm hai loại trường hợp - tình trạng khẩn cấp

làm thoả mãn CTTP (không còn là hành vi
chuẩn bị - hành vi tạo điều kiện).(21) Phạm tội

hợp pháp và tình trạng khẩn cấp không có lỗi.
Hai trường hợp này cùng có điều kiện trước hết

chưa đạt không phải chỉ được tính từ khi đã
thoả mãn được dấu hiệu của CTTP mà được

là chủ thể đang trong tình trạng nguy hiểm hiện

tính ngay từ khi đã có hành vi mà tiếp nối ngay


hữu và cùng có hệ quả cuối cùng là hành vi thực

sau đó là sự thoả mãn dấu hiệu của CTTP.

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
25


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

Về việc xử phạt trong trường hợp chưa đạt,

không cho tội phạm hoàn thành (Điều 24

BLHS quy định phạm tội chưa đạt có thể được

BLHS).

xử phạt nhẹ hơn tội phạm hoàn thành (giảm nhẹ
theo quy định tại khoản 1 Điều 49). Tuy nhiên,

Theo điều luật, có hai loại trường hợp chấm
dứt phạm tội. Đó là:

không phải trường hợp phạm tội chưa đạt nào

- Dừng lại không thực hiện tiếp;

cũng bị xử phạt. Cụ thể: Phạm tội chưa đạt luôn
bị xử phạt nếu là phạm tội chưa đạt của tội


- Dừng lại và có hành động tích cực ngăn
chặn không cho tội phạm trở thành tội phạm

phạm nghiêm trọng; còn phạm tội chưa đạt của

hoàn thành.

tội phạm ít nghiêm trọng chỉ bị xử phạt nếu
được luật quy định rõ.(22)

Chấm dứt phạm tội ở trường hợp thứ nhất
chỉ có thể xảy ra khi người phạm tội chưa thực

Ngoài quy định trên, BLHS Đức còn có

hiện hết những gì mà họ cho là đủ để tội phạm

quy định về trường hợp chưa đạt vô hiệu và

có thể hoàn thành. Như vậy, chấm dứt phạm tội

trong đó cho phép miễn hoặc giảm hình phạt

ở trường hợp này chỉ có thể xảy ra khi tội phạm

cho người phạm tội theo khoản 2 Điều 49.

(23)


còn đang là tội phạm chưa đạt chưa kết thúc.(24)

Đây là trường hợp trong đó người phạm tội do
hiểu biết quá hạn chế mà đã không thể nhận biết

Chấm dứt phạm tội ở trường hợp thứ hai
xảy ra khi người phạm tội đã thực hiện hết

được rằng hành vi đã thực hiện của mình hoàn
toàn không thể hoàn thành được do tính chất

những gì mà họ cho là đủ để tội phạm có thể
hoàn thành.

của đối tượng mà hành vi nhằm vào hoặc do

Như vậy, chấm dứt phạm tội ở trường hợp

tính chất của phương tiện được sử dụng…
Theo đó, chưa đạt vô hiệu ở đây có thể do

này xảy ra khi tội phạm đã là tội phạm chưa đạt
đã kết thúc.(25)

khách thể không phù hợp, do phương tiện

Ở cả hai trường hợp, người phạm tội đều

không phù hợp. Ngoài ra, chưa đạt vô hiệu còn
có thể do chủ thể không phù hợp. Đây là trường


phải có thái độ tự nguyện trong việc dừng lại
hoặc trong việc có hành động ngăn chặn...

hợp chưa đạt rất đặc biệt, trong đó chủ thể của

Việc dừng lại cũng như việc ngăn chặn

tội phạm có sự nhầm lẫn về đặc điểm đặc biệt
của chính mình. Vấn đề này chưa được đề cập

không đòi hỏi phải có tác dụng thực sự làm tội
phạm không hoàn thành: “Nếu tội phạm vẫn

trong luật hình sự Việt Nam. Ngay ở Đức, vấn

không thể hoàn thành cho dù không có hành

đề này cũng còn tranh luận.
Trong các quy định của BLHS Đức về

vi của người tự chấm dứt thì người tự chấm
dứt vẫn không bị xử phạt nếu họ tự nguyện

phạm tội chưa đạt cũng có quy định về trường
hợp phạm tội chưa đạt không bị xử phạt vì đã

và thực sự cố gắng ngăn chặn tội phạm
hoàn thành”.


tự chấm dứt. Đây là trường hợp đã tự nguyện

Trong trường hợp có nhiều người cùng tham

dừng việc thực hiện tiếp hành vi hoặc ngăn chặn

gia thì chỉ người nào tự nguyện ngăn chặn tội

26

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

phạm hoàn thành mới không bị xử phạt vì phạm
tội chưa đạt.

(26)

Người tự mình thực hiện hay còn được gọi
là người thực hiện tội phạm trực tiếp là người tự

Ngoài việc quy định chế định tự chấm dứt
trong Phần chung BLHS Đức còn quy định

mình thực hiện hành vi phạm tội được quy định
trong CTTP. Họ có thể là người phạm tội cố ý

trong Phần riêng chế định “hối cải tích cực” có


hoặc là người phạm tội vô ý.

nội dung mở rộng hơn so với chế định tự chấm
dứt. Trong trường hợp này, người phạm tội còn

Người thực hiện qua người khác hay còn
được gọi là người thực hiện tội phạm gián tiếp là

có thể có hành động tích cực ngăn chặn tội

người thực hiện hành vi phạm tội cố ý được quy

phạm hoàn thành ngay cả khi tội phạm đã ở thời
điểm chưa đạt đã kết thúc. Chế định này được

định trong CTTP qua hành vi của người khác.
Người khác ở đây đã bị sử dụng như “công cụ”.

quy định cho từng tội phạm cụ thể.(27)

Họ là “người trung gian” thực hiện tội phạm

2.6. Người thực hiện tội phạm và người
tòng phạm
Luật hình sự Đức không có khái niệm đồng

nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội đó vì lí do khác nhau như do không có năng
lực lỗi, do sai lầm vì bị lừa dối...(29)


phạm với ý nghĩa là hình thức phạm tội đặc biệt
như trong luật hình sự Việt Nam mà quy định

Người thực hiện tội phạm theo BLHS Đức
có thể chỉ là một người nhưng cũng có thể có

trực tiếp những hành vi và gắn với mỗi loại hành
vi là một loại người phải chịu trách nhiệm hình

nhiều người cùng là người thực hiện tội phạm
của một tội phạm nếu họ cùng nhau thực hiện tội

sự. Theo đó có những loại người phải chịu trách

phạm đó (khoản 2 Điều 25 BLHS). Khi đó,

nhiệm hình sự sau:
- Người thực hiện tội phạm;

mỗi người đều được gọi là đồng thực hiện tội
phạm và bị xử phạt như người thực hiện tội

- Người xúi giục và

phạm phạm.(30)

- Người giúp sức.(28)
Trong đó, người xúi giục và người giúp sức


Về người xúi giục Điều 26 quy định là người
nào đã cố ý thúc đẩy người khác đến hành vi

được gọi chung là người tòng phạm; người thực

trái pháp luật được thực hiện cố ý của họ.

hiện tội phạm và người tòng phạm được gọi
chung là người tham gia.

Như vậy, người xúi giục là người cố ý có
những tác động đến người khác làm họ thực

Điều 25 xác định người thực hiện tội phạm

hiện hành vi được quy định trong luật hình sự

là người nào tự mình hoặc qua người khác thực
hiện tội phạm.

một cách cố ý và do vậy làm họ trở thành người
thực hiện tội phạm. Phương thức, phương tiện

Như vậy, theo luật hình sự Đức có các
dạng người thực hiện tội phạm sau:

mà người xúi giục sử dụng để tác động có thể là
thuyết phục, khuyên răn, mua chuộc, doạ

- Người tự mình thực hiện và

- Người thực hiện qua người khác.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
27

nạt...(31)
Người xúi giục bị xử phạt như người thực


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

hiện tội phạm.

khác (Điều 29 BLHS).

Về người giúp sức, Điều 27 quy định là

BLHS Đức còn quy định cụ thể về trường

người cố ý thực hiện cho người khác việc giúp
hành vi trái pháp luật được thực hiện cố ý của

hợp chưa đạt ở người tòng phạm. Đây là điểm
khác so với BLHS Việt Nam. Trong luật hình

họ.

sự Đức, người thực hiện tội phạm và các tòng

Như vậy, người giúp sức là người cố ý giúp
về vật chất hoặc tinh thần cho người khác


phạm được xem là các dạng người phạm tội với
các hành vi phạm tội có tính độc lập tương đối

(người thực hiện tội phạm) trong việc thực hiện

với nhau. Do vậy, việc quy định chưa đạt luôn

hành vi được quy định trong luật hình sự một
cách cố ý như cung cấp công cụ, phương tiện,

gắn với từng dạng hành vi. Theo đó, BLHS Đức
có các quy định riêng về chưa đạt (Điều 30

cung cấp thông tin cần thiết... Hành vi giúp sức

BLHS) cũng như về tự chấm dứt cho các người

này tạo khả năng hoặc làm dễ dàng hơn cho

tòng phạm (Điều 31 BLHS). Cụ thể:

việc thực hiện tội phạm. Người giúp sức có thể

- Xúi giục người khác phạm tội nghiêm

giúp người thực hiện tội phạm qua không hành

trọng chưa đạt phải chịu hình phạt như trường


động của mình. Hành vi của người giúp sức có
thể được thực hiện ngay cả khi tội phạm được

hợp phạm tội chưa đạt của tội phạm nghiêm
trọng theo Điều 23 BLHS nhưng hình phạt

giúp sức đã hoàn thành nhưng chưa kết thúc. (32)
Người giúp sức không bị xử phạt như người

được giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 49. Điều này
cũng đúng cho trường hợp xúi giục một người

thực hiện tội phạm và người xúi giục mà họ

để người này xúi giục người khác phạm tội

được giảm nhẹ hình phạt theo khoản 1 Điều 49.
Về trách nhiệm hình sự của người tham gia

nghiêm trọng chưa đạt (khoản 1 Điều 30);
- Cũng bị xử phạt như xúi giục chưa đạt là

(bao gồm người thực hiện tội phạm và tòng

trường hợp đã bày tỏ sẵn sàng, đã chấp nhận đề

phạm), luật hình sự Đức còn quy định rõ:
- Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ

nghị của người khác hoặc đã cùng thoả thuận

với người khác thực hiện tội phạm nghiêm trọng

hình phạt thuộc về nhân thân chỉ áp dụng cho

hoặc xúi giục tội phạm nghiêm trọng (khoản 2

chính người có tình tiết đó (khoản 2 Điều 28
BLHS);

Điều 30);
- Không bị xử phạt về tòng phạm chưa đạt

- Nếu người tòng phạm không có dấu hiệu

theo Điều 30 nếu người tòng phạm đã tự nguyện

nhân thân đặc biệt mà những dấu hiệu đó là dấu
hiệu định tội ở người thực hiện tội phạm thì

+ Dừng việc thúc đẩy người khác thực hiện
một tội phạm nghiêm trọng và ngăn cản nguy cơ

người tòng phạm được giảm nhẹ hình phạt theo
khoản 1 Điều 49 (khoản 1 Điều 28 BLHS);

có thể có là người này thực hiện tội phạm;
+ Dừng dự định của mình sau khi đã bày tỏ

- Mỗi người tham gia phải bị xử phạt theo
lỗi của họ và không phụ thuộc vào lỗi của người

28

sẵn sàng về tội phạm nghiêm trọng hoặc
+ Ngăn chặn hành vi sau khi đã thoả thuận
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

hoặc chấp nhận đề nghị của người khác về tội

a. Về hình phạt tự do

phạm nghiêm trọng.

Hình phạt tự do có thể là hình phạt tự do

3. Các vấn đề chung về hậu quả pháp lí
3.1. Vấn đề thời hiệu truy cứu trách

suốt đời hoặc hình phạt tự do có thời hạn. Tuy
nhiên, hình phạt tự do chủ yếu được quy định là

nhiệm hình sự (TNHS)

hình phạt tự do có thời hạn; trường hợp được

Theo luật hình sự Đức, khi hết thời hiệu truy
cứu TNHS thì cũng chấm dứt việc xử phạt cũng


quy định là hình phạt tự do suốt đời chỉ có tính
cá biệt.

như việc ra lệnh các biện pháp hình sự đối với

Mức tối đa của hình phạt tự do được quy

hành vi đã thực hiện.
Luật hình sự Đức quy định không áp dụng

định là 15 năm và mức tối thiểu là 1 tháng (Điều
38).(39) Hình phạt tự do dưới 1 năm được tính

thời hiệu này đối tội giết người (Điều 211). (33)

theo đủ tuần và tháng; hình phạt nặng hơn được

Đối với các tội phạm còn lại thời hạn của thời

tính theo đủ tháng và năm (Điều 39).

hiệu như sau:

Hình phạt tự do dưới 6 tháng được coi là

- 30 năm đối với tội bị đe doạ hình phạt tự

hình phạt tự do ngắn hạn và chỉ được tuyên khi

do suốt đời;

- 20 năm đối với tội bị đe doạ mức cao

có nhiều tình tiết đặc biệt thuộc về hành vi phạm
tội hoặc thuộc về nhân thân người phạm tội. Với

nhất là hình phạt tự do trên 10 năm;
- 10 năm đối với tội bị đe doạ mức cao

những tình tiết này việc tuyên hình phạt tự do là
cần thiết để tác động đến người phạm tội hoặc

nhất là hình phạt tự do trên 5 năm đến 10 năm;

để bảo vệ trật tự pháp luật (Điều 47).

- 5 năm đối với tội bị đe doạ mức cao nhất
là hình phạt tự do trên 1 năm đến 5 năm;
- 3 năm đối với các tội còn lại.(34)

b. Về hình phạt tiền
Hình phạt tiền của Đức được tính theo đơn
vị thu nhập ngày. Mức tối thiểu là 5 và mức tối

Thời hiệu được tính từ thời điểm tội phạm
kết thúc. Nếu hậu quả là dấu hiệu của CTTP

đa trong trường hợp luật không quy định khác là
360. Toà án căn cứ vào hoàn cảnh cá nhân và

xảy ra sau thời điểm đó thì thời hiệu được tính từ


kinh tế của người phạm tội để quyết định mức

thời điểm hậu quả xảy ra.
Luật hình sự Đức cũng quy định cụ thể các

của một đơn vị thu nhập ngày. Về nguyên tắc
cần xuất phát từ thu nhập thực mà người phạm

trường hợp thời hiệu ngưng lại (thời hiệu tạm

tội có hoặc lẽ ra có trung bình mỗi ngày. Mức

dừng không được tính)(36) và các trường hợp
thời hiệu gián đoạn (thời hiệu tính lại từ đầu).(37)

thấp nhất của đơn vị thu nhập ngày được xác
định là 1 Euro và mức cao nhất là 30.000 Euro

3.2. Các hình phạt
Theo luật hình sự Đức, các hình phạt bao

(Điều 40).
Hình phạt tiền phải được chấp hành ngay

gồm hình phạt tự do, hình phạt tiền(38) và hình

một lần hoặc có thể được nới lỏng (chấp hành

phạt phụ.


một lần sau thời hạn nhất định hoặc có thể được

(35)

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
29


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

chấp hành từng phần) khi hoàn cảnh cá nhân và

nhưng không phải là hình phạt và được gọi tên

kinh tế của người bị kết án không cho phép họ

là “hậu quả kèm theo”. Hậu quả kèm theo bao

có thể nộp được ngay một lần hoặc khi việc bồi
thường thiệt hại do hành vi phạm tội đã gây ra

gồm:
- Bị mất khả năng đảm nhiệm chức trách,

của người bị kết án có thể bị ảnh hưởng đáng kể

khả năng được bầu và quyền biểu quyết

nếu không có sự nới lỏng này (Điều 42).

Hình phạt tiền có thể được áp dụng là:
- Hình phạt độc lập;

- Bị công khai bản án.
Về hậu quả kèm theo thứ nhất:
- Đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng

- Hình phạt cùng hình phạt tự do khi người
phạm tội có mục đích trục lợi (và không bị áp

và bị phạt hình phạt tự do từ 1 năm trở lên thì
hậu quả kèm theo bắt buộc là: Mất trong thời

dụng hình phạt tài sản - Điều 41)(40) và

hạn 5 năm các khả năng đảm nhiệm chức trách

- Hình phạt thay thế cho hình phạt tự do
ngắn hạn (Điều 47).

công và quyền có được từ bầu cử công. Với
việc bị mất này, người bị kết án đồng thời cũng

Trong trường hợp hình phạt tiền không

bị mất địa vị pháp lí và các quyền tương ứng

được chấp hành thì bị thay bằng hình phạt tự do
(hình phạt tự do thay thế). Một đơn vị thu nhập


đang có.
- Đối với các trường hợp phạm tội khác thì

ngày được tính bằng 1 ngày hình phạt tự do.
Khi đã được thay thế bằng hình phạt tự do thì

toà án có thể tước của người bị kết án các khả
năng nói trên trong thời hạn từ 2 đến 5 năm khi

hình phạt tiền coi như bị xoá.

luật dự liệu đặc biệt như vậy. Với việc bị mất

c. Về hình phạt phụ
Hình phạt phụ duy nhất được quy định trong

này, người bị kết án đồng thời cũng bị mất địa vị
pháp lí và các quyền tương ứng đang có khi luật

BLHS Đức là hình phạt cấm lái xe (Điều 44).

không quy định khác.

Hình phạt này có nội dung cấm người bị kết án
lái xe cơ giới trong thời gian từ 1 đến 3 tháng và

- Toà án có thể tước của người bị kết án
quyền bầu cử hoặc quyền biểu quyết trong các

được áp dụng cho người bị phạt tiền hoặc phạt


công việc công trong thời hạn từ 2 đến 5 năm

hình phạt tự do vì phạm tội trong khi hoặc liên
quan đến lái xe hoặc hoặc do vi phạm nghĩa vụ

khi luật dự liệu đặc biệt như vậy.(42)
Về hậu quả kèm theo thứ hai:

của người lái xe. Hình phạt này có tác dụng

Việc công khai bản án vừa có ý nghĩa là sự

cảnh báo, giáo dục người phạm tội ý thức tuân
thủ pháp luật giao thông.(41)

minh oan, sự đền bù cho người bị vi phạm vừa
đóng vai trò là yếu tố bổ sung cho nội dung

3.3. Hậu quả kèm theo
Ngoài việc quy định hình phạt là hậu quả

trừng phạt của hình phạt. Do vậy, hậu quả kèm
theo này được các nhà làm luật Đức cho là cần

pháp lí mà người phạm tội phải gánh chịu,

thiết đối với những trường hợp nhất định. Đó là

BLHS Đức còn quy định hậu quả pháp lí khác


các trường hợp phạm tội liên quan đến hành vi

30

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

có tính xúc phạm, vu cáo (xem các điều 103,

Trong luật hình sự Đức, chế định miễn hình

165 và 200) hoặc tội liên quan đến bản quyền.

phạt vừa được quy định chung vừa được quy

Hậu quả kèm theo này không được quy định
chung trong phần chung của BLHS mà được

định riêng cho những tội phạm nhất định. Có thể

quy định riêng cho những tội nhất định trong

theo quy định của Điều 46a, Điều 46b BLHS;

phần các tội phạm.
3.4. Các biện pháp xử lí cải thiện và bảo


miễn hình phạt theo quy định của Điều 60

đảm an toàn

trường hợp cụ thể.

Các biện pháp xử lí cải thiện và bảo đảm an
toàn theo quy định của BLHS Đức không thuộc
hệ thống hình phạt, không thuộc hậu quả kèm
theo mà thuộc hệ thống biện pháp xử lí hình sự
riêng biệt có mục đích cải thiện tình trạng của
người bị áp dụng cũng như bảo đảm an toàn
cho xã hội. Để quyết định các biện pháp xử lí
này toà án không chỉ căn cứ vào ý nghĩa của
hành vi đã được thực hiện mà còn phải căn cứ
cả vào ý nghĩa của các hành vi được dự liệu
cũng như mức độ của sự nguy hiểm từ phía
người phạm tội.
Các biện pháp xử lí cải thiện và bảo đảm an
toàn gồm:
1. Lưu trú bắt buộc trong bệnh viện tâm thần;
2. Lưu trú bắt buộc trong trại cai nghiện;
3. Lưu trú bắt buộc trong trại bảo đảm an toàn;
4. Quản chế;
5. Thu hồi cấp phép lái xe; và
6. Cấm hành nghề.

chia thành 3 loại miễn hình phạt: Miễn hình phạt

BLHS và miễn hình phạt quy định riêng cho

a. Về miễn hình phạt theo quy định của
Điều 46a và Điều 46b BLHS
Theo Điều 46a, người phạm tội bị đe doạ
phạt tự do không quá 1 năm hoặc phạt tiền
không quá 360 đơn vị thu nhập ngày được miễn
hình phạt trong hai trường hợp sau:
- Đã cố gắng để đạt được sự hoà giải với
người bị hại và đã bồi thường đầy đủ hoặc phần
lớn hoặc đã cố gắng thực sự cho việc này;
- Đã bồi thường đầy đủ hoặc phần lớn bằng
sự nỗ lực lớn của chính mình.
Theo Điều 46b, người phạm tội phải chịu
hình phạt tự do không quá 3 năm và tội đã
phạm chỉ bị quy định hình phạt tự do có thời hạn
có thể được miễn hình phạt trong hai trường hợp
sau:
- “đã góp phần cơ bản cho việc khám
phá được hành vi phạm tội theo Điều 100a
khoản 2 Luật tố tụng hình sự qua việc tự
nguyện khai báo những gì mình biết hoặc

BLHS Đức quy định rất cụ thể các điều

- đã tự nguyện khai báo kịp thời những

kiện áp dụng cũng như các vấn đề có liên quan

gì mình biết cho một cơ quan khi hành vi
phạm tội theo Điều 100a khoản 2 Luật tố


trong quá trình chấp hành các biện pháp xử lí
cải thiện và bảo đảm an toàn.(43)
3.5. Miễn hình phạt

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
31

tụng hình sự mà người đó biết kế hoạch còn
có thể bị ngăn cản”.


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

b. Về miễn hình phạt theo Điều 60 BLHS

quyết định hình phạt của họ, BLHS Đức đã quy

Theo điều luật này, người phạm tội được

định các nguyên tắc quyết định hình phạt tại

miễn hình phạt nếu bản thân tội phạm đã là hậu
quả nặng nề cho họ và do vậy có thể coi đó

Điều 46.
Theo điều luật này, khi quyết định hình phạt

cũng là hình phạt đối với họ. Việc áp dụng tiếp

toà án phải dựa trên cơ sở lỗi của người phạm


hình phạt sẽ là điều không đúng. Ví dụ: Người
phạm tội gây tai nạn giao thông mà nạn nhân lại

tội đồng thời phải cân nhắc đến ảnh hưởng của
hình phạt sẽ tuyên đối với cuộc sống sắp tới của

chính là con mình... Tuy nhiên, chỉ được miễn

họ.

hình phạt nếu hình phạt có thể tuyên chỉ từ 1
năm hình phạt tự do trở xuống.

Lỗi của người phạm tội nói ở đây, theo sự
giải thích của các nhà khoa học phải được hiểu

c. Về miễn hình phạt quy định riêng cho

theo nghĩa rộng,(44) bao gồm cả mức độ nghiêm

trường hợp cụ thể

trọng khách quan của hành vi phạm tội và mức

Đây là các trường hợp miễn hình phạt cụ thể

độ lỗi chủ quan của người phạm tội. Như vậy,

được quy định cả trong phần chung và phần các


mức độ nghiêm trọng của tội phạm (mức độ

tội phạm của BLHS. Việc quy định này là căn
cứ vào đặc điểm riêng của trường hợp phạm tội

nghiêm trọng khách quan và mức độ lỗi) là cơ
sở cho quyết định hình phạt. Tuy nhiên, quyết

hoặc tội cụ thể và xét thấy mức độ vi phạm
hoặc mức độ lỗi có sự giảm nhẹ. Ví dụ: Miễn

định hình phạt còn phải tính đến tác động của
hình phạt đối với người phạm tội. Hình phạt

hình phạt cho trường hợp phạm tội chưa đạt

không được tách rời với mục đích của nó đối

theo khoản 3 Điều 23 BLHS hoặc miễn hình
phạt cho trường hợp cụ thể của các tội được

với người phạm tội.
Cụ thể hoá nguyên tắc trên đây, Điều 46

quy định tại khoản 4 Điều 86, khoản 4 Điều

quy định tiếp: “Khi lượng hình, toà án cân

113, khoản 5 Điều 129 v.v..

3.6. Quyết định hình phạt

nhắc qua lại giữa các tình tiết có lợi và các
tình tiết không có lợi cho người thực hiện tội

a. Các nguyên tắc quyết định hình phạt

phạm. Trước hết là:

Trong luật hình sự Đức, hình phạt được quy
định cho tội phạm có tính ấn định dứt khoát chỉ

Các động cơ và mục đích của người
thực hiện tội phạm, quan điểm được phản

có tính cá biệt. Ở hầu hết các trường hợp, hình

ánh từ hành vi và ý chí dành cho hành vi,

phạt đều được quy định dưới dạng các khung
hình phạt và có thể trong đó có cả hai loại hình

mức độ vi phạm nghĩa vụ, cách thức thực
hiện hành vi và các ảnh hưởng có lỗi của

phạt là phạt tiền và hình phạt tự do với mức độ
không được xác định cụ thể. Điều này đòi hỏi

hành vi, cuộc sống trước đó của người thực
hiện tội phạm, hoàn cảnh cá nhân và kinh tế


phải có sự lựa chọn, quyết định của toà án. Để

cũng như xử sự của người đó sau khi thực

định hướng cho toà án và tạo cơ sở cho việc

hiện hành vi, đặc biệt là sự cố gắng bồi

32

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

thường thiệt hại của họ cũng như cố gắng

* Quyết định hình phạt trong trường hợp

của họ để đạt được việc hoà giải với người

“một hành vi cấu thành nhiều tội” (Điều 52

bị xâm hại”.
Với quy định này, luật mới chỉ định hướng

BLHS)
Trong trường hợp này, toà chỉ quyết định


chung cho việc quyết định hình phạt qua việc

một hình phạt (chính) trong phạm vi khung hình

đưa ra các loại tình tiết cần xem xét đánh giá.
Luật chưa cụ thể hoá những tình tiết đó theo

phạt được quy định cho một tội trong số các tội
đã phạm. Tội được chọn là tội có hình phạt

hướng tăng nặng cũng như theo hướng giảm

nặng hơn. Tội có hình phạt nặng hơn là:(49)

nhẹ. Đây là điểm khác so với luật hình sự Việt
Nam.(45)

- Tội có loại hình phạt nặng hơn (trong
trường hợp các tội có các loại hình phạt khác

Trong khi đó BLHS lại quy định tình tiết

nhau);

giảm nhẹ đặc biệt ngoài việc quy định các khung

- Tội có hình phạt với mức tối đa cao nhất

giảm nhẹ và các khung tăng nặng của tội cụ thể


(trong trường hợp các tội có cùng loại hình

trong phần các tội phạm của Bộ luật.

phạt);

(46)

Cụ thể:

- Điều 49 quy định cách giảm khung hình
phạt (giảm mức tối đa hoặc mức tối thiểu hoặc

- Tội có hình phạt phụ hoặc hình phạt phụ
nặng hơn (trong trường hợp tiêu chí trên không

thay thế loại hình phạt) khi có tình tiết giảm nhẹ
đặc biệt.(47) Tình tiết này được xác định ở các

giải quyết được);
- Tội có hình phạt với mức tối thiểu cao

trường hợp cụ thể mà không được tập hợp

nhất (trong trường hợp tiêu chí trên không giải

chung trong một điều luật.
Về việc sử dụng các tình tiết giảm nhẹ hay

quyết được).

Hình phạt đã tuyên không được phép thấp

tăng nặng, luật hình sự CHLB Đức cũng khẳng

hơn hình phạt thấp nhất cho phép của các tội

định dứt khoát quan điểm không được sử dụng
hai lần. Khoản 3 Điều 46 quy định: “ Những

khác.
Hình phạt tiền kèm theo hình phạt tự do

tình tiết đã là dấu hiệu của CTTP thì không

được tuyên theo quy định của Điều 41 BLHS.

được phép xem xét đến (khi quyết định hình
phạt)”.

Hình phạt phụ, hậu quả kèm theo được tuyên
theo quy định của một trong các tội đã phạm.

b. Quyết định hình phạt trong trường

* Quyết định hình phạt trong trường hợp

hợp phạm nhiều tội
Theo BLHS CHLB Đức cách thức quyết

“nhiều hành vi cấu thành nhiều tội” (Điều 53 và

Điều 54 BLHS)

định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
có sự khác nhau giữa trường hợp “một hành vi

Trong trường hợp này toà án quyết định
hình phạt cho từng tội, sau đó toà án sẽ tổng

cấu thành nhiều tội” và trường hợp “nhiều hành

hợp hình phạt như sau:

(48)

vi cấu thành nhiều tội”.
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
33

- Nếu một hình phạt (chính) là hình phạt tự


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

do suốt đời thì hình phạt chung là hình phạt tự
do suốt đời;
- Nếu các hình phạt (chính) được tổng hợp
cùng loại thì hình phạt chung là hình phạt nặng
nhất có cộng thêm một phần nhưng không được
lớn hơn tổng các hình phạt và không được quá
15 năm đối với hình phạt tự do và quá 720 đơn

vị thu nhập ngày đối với hình phạt tiền;
- Nếu các hình phạt (chính) là khác loại thì
hình phạt chung là hình phạt thuộc loại nặng hơn
có cộng thêm một phần nhưng không được lớn
hơn tổng các hình phạt và không được quá 15
năm hình phạt tự do (Quy đổi 1 đơn vị thu nhập
ngày bằng 1 ngày hình phạt tự do).
Việc cộng thêm như thế nào là quyền của
toà án nhưng khi cộng thêm phải cân nhắc nhân
thân người phạm tội cũng như các tội phạm cụ
thể trong tổng thể thống nhất. Khi tổng hợp hình
phạt tự do với hình phạt tiền (là hình phạt chính),
toà án có thể quyết hình phạt chung là hình phạt
tiền và tổng hợp theo trường hợp nhiều hình phạt

năm trở xuống;
- Có cơ sở để tin sự tuyên án đã có tác
dụng và người bị kết án sẽ không phạm tội mới
dù không bị thi hành án.
Khi quyết định cho dừng hình phạt, toà án
phải xem xét nhân thân người phạm tội, quá khứ
của họ, các tình tiết của tội phạm, thái độ của
người phạm tội sau khi phạm tội, hoàn cảnh
sống cũng như tác động trong tương lai nếu cho
dừng hình phạt.
Có thể cho dừng hình phạt trong trường
hợp hình phạt tự do trên 1 năm (nhưng không
quá 2 năm) nếu có nhiều tình tiết đặc biệt về
nhân thân người phạm tội cũng như về tội phạm
đã thực hiện.

Dừng hình phạt không được phép áp dụng
đối với trường hợp trật tự pháp luật (dư luận
chung của xã hội đối với trường hợp cụ thể) đòi
hỏi không cho dừng và hình phạt tự do là từ 6
tháng trở lên.
b. Thời gian thử thách
Thời gian thử thách được quy định từ 2 năm

cùng loại (phạt tiền).

đến 5 năm.

Hình phạt tiền kèm theo hình phạt tự do,
hình phạt phụ, hậu quả kèm theo được quyết
định như trường hợp tổng hợp hình phạt trong
trường hợp “một hành vi cấu thành nhiều tội”.
3.7. Dừng hình phạt (50) (các điều 56, 56a,
56b, 56c, 56d, 56e, 56f, 56g, 57, 57a, 57b, 58
BLHS)
Theo luật hình sự CHLB Đức, dừng hình
phạt là dừng thi hành hình phạt tự do để thử
thách.
a. Điều kiện cho dừng hình phạt
- Hình phạt đã tuyên là hình phạt tự do từ 1

c. Các trách nhiệm mà người được dừng
hình phạt phải thực hiện
Theo điều luật, việc giao nghĩa vụ cho người
được dừng hình phạt là cần thiết để người đó
chuộc lỗi nhưng không được giao nghĩa vụ mà

họ không thể thực hiện được. Những nghĩa vụ
có thể giao là:
“… nỗ lực bồi thường thiệt hại do hành
vi đã gây ra,
trả một khoản tiền cho một tổ chức
công ích nếu xét về hành vi và nhân thân
người thực hiện tội phạm thì việc làm này là

34

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

hợp lí, thực hiện các công việc công ích khác
hoặc trả một khoản tiền vào ngân khố quốc

thách.
e. Huỷ bỏ việc cho dừng hình phạt

gia…”.
Người được dừng hình phạt có thể đề xuất

Dừng hình phạt sẽ bị huỷ bỏ nếu trong thời
gian thử thách:

đóng góp mà mình muốn thì toà án có thể chấp

- Người bị kết án đã phạm tội và qua đó


nhận và tạm không buộc họ phải thực hiện trách
nhiệm trên đây...

thể hiện điều trông chờ vào kết quả của thử
thách đã không đạt được hoặc

d. Các lệnh mà toà án có thể đưa ra cho

- Người bị kết án đã vi phạm nghiêm trọng

người được dừng hình phạt
Theo quy định của Điều 56c BLHS, để giúp

hoặc cố tình các lệnh hoặc đã cố tình lẩn tránh
sự giám sát và chỉ dẫn của người trợ giúp và qua

người được dừng hình phạt không phạm tội lại,

đó thể hiện có khả năng họ phạm tội lại hoặc

toà án có thể ra các lệnh khác nhau như:
“… tuân thủ các lệnh liên quan đến việc

- Người phạm tội đã vi phạm nghiêm trọng
hoặc cố tình các trách nhiệm của họ.

lưu trú, đào tạo, việc làm hoặc thời gian rỗi

Nếu một trong các điều kiện trên thoả mãn


hoặc các quan hệ kinh tế của người bị kết
án, trình báo với toà án hoặc một cơ quan

nhưng toà xét thấy không cần huỷ bỏ việc cho
dừng hình phạt mà chỉ cần kéo dài thời gian thử

khác vào các thời điểm nhất định, không
được thiết lập quan hệ, không được giao

thách hoặc giao thêm trách nhiệm hoặc ra thêm
các lệnh thì có thể không huỷ bỏ việc cho dừng

tiếp, không được nhận vào làm việc, không

hình phạt. Thời gian thử thách không được tăng

được đào tạo hoặc không được cho ở cùng
đối với người đã bị xâm hại, những người

quá gấp rưỡi và có thể vượt mức 5 năm.
f. Huỷ bỏ hình phạt

nhất định khác hoặc người của các nhóm

Hết thời gian thử thách mà toà án không

nhất định mà những người này có thể tạo cơ
hội hoặc sự kích thích cho người bị kết án


phải ra quyết định huỷ cho dừng hình phạt thì
toà án ra quyết định huỷ bỏ hình phạt tự do đã

phạm tội lại, không được sở hữu, mang theo

tuyên.

hoặc bảo quản đồ vật nhất định mà nó có
thể tạo cơ hội hoặc sự kích thích cho người

Nếu sau đó người được cho dừng hình phạt
lại bị xử phạt với hình phạt tự do từ 6 tháng trở

bị kết án phạm tội lại hoặc thực hiện nghĩa

lên về tội cố ý mà họ phạm phải trong thời gian

vụ trợ cấp …”
đ. Cử người trợ giúp thử thách

thử thách thì toà án huỷ bỏ quyết định huỷ bỏ
hình phạt nói trên. Tuy nhiên, toà chỉ được phép

Nếu người được dừng hình phạt chưa đủ 27
tuổi và hình phạt tự do của họ là trên 9 tháng thì

làm như vậy trong thời hạn 1 năm kể từ khi hết
thời hạn thử thách và trong thời hạn 6 tháng kể

toà án có thể cử người làm người trợ giúp cho


từ khi bản án mới có hiệu lực pháp luật.

người được dừng hình phạt trong thời gian thử
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
35

3.7. Dừng hình phạt cho trường hợp


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

đang chấp hành án(51)

Chú thích: Trong bài viết này, các tác giả

a. Dừng hình phạt cho trường hợp đang

chưa đề cập các quy định đặc biệt đối với người

chấp hành hình phạt tự do có thời hạn
Nếu đã chấp hành được 2/3 thời gian (ít

chưa thành niên. Các quy định này được quy
định trong Luật về toà án người chưa thành niên.

nhất là 2 tháng) và cho thấy người bị kết án sẽ
không phạm tội mới dù được tự do thì toà án có
thể cho dừng phần hình phạt còn lại khi người bị
kết án chấp thuận. Khi quyết định cho dừng

phần hình phạt còn lại, toà án phải xem xét nhân
thân người phạm tội, quá khứ của họ, các tình
tiết của tội phạm, thái độ của người phạm tội
trong trại giam, hoàn cảnh sống cũng như tác
động trong tương lai nếu cho dừng hình phạt.
Trường hợp đã chấp hành được một nửa
thời gian hình phạt tự do vẫn có thể cho dừng
phần hình phạt còn lại nếu người phạm tội đã
chấp hành được từ 1 năm trở lên và có nhiều
tình tiết đặc biệt về nhân thân hoặc về hành vi
phạm tội...
Thời gian thử thách trong trường hợp này
không được ngắn hơn thời gian của phần hình
phạt còn lại.
b. Cho dừng hình phạt cho trường hợp
đang chấp hành hình phạt tự do suốt đời
Trường hợp này được cho dừng hình phạt
khi thoả mãn các điều kiện dưới đây:
- Đã chấp hành được 15 năm,
- Mức độ nặng đặc biệt của lỗi không đòi
hỏi phải buộc người bị kết án tiếp tục phải chấp
hành và
- Các điều kiện cho dừng hình phạt theo
quy định của trường hợp trên thoả mãn.
Thời gian thử thách của trường hợp này là 5
năm./.
36

(1).Xem: Johannes Wessels, Luật hình sự - Phần
chung, Heidelberg 1990. tr. 14, 15.

(2). Thực ra, nguyên tắc này vẫn thuộc nguyên tắc
lãnh thổ.
(3). Nguyên tắc quốc tịch chủ động là nguyên tắc
quốc tịch xét theo người phạm tội; nguyên tắc quốc
tịch bị động là nguyên tắc quốc tịch xét theo người bị
hại.
(4).Xem: Điều 5 số 1, Điều 6 số 3
(5).Xem: Điều 5 số 9, số 14a.
(6). Trong khi đó, BLHS Việt Nam chỉ có 2 điều quy
định về vấn đề này. Cụ thể 5 điều luật đó là:
- Điều 3 - Hiệu lực đối với các hành vi trong nước.
- Điều 4 - Hiệu lực đối với các hành vi xảy ra trên tàu
thuỷ, tàu bay Đức.
- Điều 5 - Hành vi ở nước ngoài chống lại các đối
tượng được pháp luật trong nước bảo vệ.
- Điều 6 - Hành vi ở nước ngoài chống lại các đối
tượng được pháp luật quốc tế bảo vệ.
- Điều 7 - Hiệu lực đối với hành vi ở nước ngoài trong
các trường hợp khác.
(7). So sánh với BLHS Việt Nam, cách phân loại tội
phạm trong BLHS Đức có hai điểm khác:
- BLHS Việt Nam phân thành nhiều loại tội phạm hơn
(4 loại so với 2 loại);
- BLHS Việt Nam lấy mức cao nhất của khung hình
phạt để xác định loại tội phạm còn BLHS Đức lấy mức
thấp nhất để xác định...
(8).Xem: Johannes Wessels, Luật hình s ự - Phần
chung, Heidelberg 1990, tr. 19.
(9). Ở Việt Nam, những tình tiết này được gọi là tình
tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành

vi.
(10).Xem: Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb.
CAND, 2010, tr. 39 và các trang tiếp theo.
(11). Trong BLHS, khái niệm được sử dụng là khái
niệm năng lực lỗi, trong một số tài liệu cũng sử dụng
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

khái niệm này như cuốn “Luật hình sự - Phần chung”
của Johannes Wessels, Heidelberg 1990; cũng có tài
liệu sử dụng khái niệm năng lực trách nhiệm hình sự
cùng với khái niệm năng lực lỗi như cuốn Luật hình sự
phần chung của R.Maurach & H. Zìp, Heidelberg
1992.
(12).Xem: Điều 19 quy định: Người không có năng lực
lỗi là người nào khi thực hiện hành vi mà chưa đủ 14
tuổi. Điều 20 quy định: Người nào khi thực hiện hành
vi mà không có năng lực nhận thức sự không hợp
pháp của hành vi hoặc không có năng lực thực hiện
hành vi theo nhận thức này do rối loạn cảm xúc bệnh
lí, rối loạn ý thức nặng hoặc do thiểu năng hoặc do
các bất bình thường nặng khác về cảm xúc thì họ thực
hiện không có lỗi.
(13).Xem: Điều 21 quy định về trường hợp này như
sau: Nếu khả năng nhận thức sự không hợp pháp của
hành vi hoặc khả năng thực hiện hành vi theo nhận
thức này của người phạm tội bị giảm một cách đáng kể
vì một trong những lí do được mô tả trong Điều 20 thì

hình phạt có thể được giảm nhẹ theo Điều 49 khoản 1.
(14).Xem: Điều 3 Luật về toà án người chưa thành
niên. Đây là điểm khác so với luật hình sự Việt Nam.
Theo luật hình sự Việt Nam, người chưa thành niên từ
đủ 16 tuổi được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự
(năng lực lỗi) trong mọi trường hợp; còn người chưa
đủ 16 tuổi (đã đủ 14 tuổi) được coi là có năng lực này
khi thực hiên các tội rất nghiêm trọng cố ý hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng.
(15). Về cơ bản, nội dung của lỗi cố ý trực tiếp và lỗi
cố ý gián tiếp giống nội dung của lỗi cố ý trực tiếp và
lỗi cố ý gián tiếp trong luật hình sự Việt Nam.
(16). Hai hình thức lỗi này tương tự như hình thức lỗi
vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả trong luật hình sự
Việt Nam.
(17). Trong BLHS Việt Nam không có điều luật quy
định về vấn đề này.
(18). Ở Việt Nam, các căn cứ này được gọi là các tình
tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi.
(19). Các căn cứ biện hộ khác có thể là: Tự cứu giúp
được phép; Xung đột nghĩa vụ; Quyền bắt giữ; Rủi ro
TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011
37

cho phép...
(20).Xem: Điều 34 và Điều 35 BLHS Đức.
(21). BLHS Đức không quy định chuẩn bị phạm tội là
một giai đoạn phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
(22).Xem: Điều 23 BLHS Đức.

(23).Xem: Khoản 3 Điều 23 (Luật hình sự Việt Nam
không có quy định này); Điều 49 BLHS Đức được
trình bày ở phần sau.
(24). Khái niệm chưa đạt chưa kết thúc có nội dung
như khái niệm chưa đạt chưa hoàn thành trong luật
hình sự Việt Nam.
(25). Khái niệm này có nội dung như khái niệm chưa
đạt đã hoàn thành trong luật hình sự Việt Nam.
(26).Xem: Khoản 2 Điều 24 BLHS.
(27). Ví dụ: Điều 306e - Hối cải tích cực: “… có thể
giảm nhẹ hình phạt (khoản 2 Điều 49) hoặc miễn xử
phạt … nếu người thực hiện tội phạm tự nguyện dập
tắt đám cháy trước khi xảy ra một thiệt hại đáng kể”.
(28). Ba loại người này tương ứng với người thực
hành, người xúi giục và người giúp sức trong BLHS
Việt Nam.
(29). Người thực hiện tội phạm gián tiếp trong luật
hình sự Đức tương tự như người thực hành gián tiếp
trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam.
(30). Đồng thực hiện tội phạm trong luật hình sự Đức
tương tự như người đồng thực hành trong đồng phạm
theo luật hình sự Việt Nam.
(31). Người xúi giục trong luật hình sự Đức tương tự
như người xúi giục trong đồng phạm theo luật hình sự
Việt Nam.
(32). Người giúp sức trong luật hình sự Đức tương tự
như người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình
sự Việt Nam.
(33). Theo luật hình sự CHLB Đức có hai tội danh
tương đương như tội giết người trong luật hình sự

Việt Nam. Tội giết người nói ở đây (Điều 211) là tội
giết người có tình tiết tăng nặng đặc biệt (Mord)
(tương đương với tội giết người theo khoản 1 Điều 93
BLHS Việt Nam). Tội còn lại có thể dịch là đánh chết
người (Totschlag).
(34).Xem: Điều 78 BLHS.
(35).Xem: Điều 78a BLHS.


Tìm hiểu hệ thống pháp luật Cộng hoà Liên bang Đức

(36).Xem: Điều 78b BLHS.
(37).Xem: Điều 78c BLHS.
(38). BLHS Đức còn quy định hình phạt tài sản tại
Điều 43a nhưng Điều luật này đã bị tuyên là vô hiệu
vì trái với Hiến pháp.
(39). Mức tối đa này cũng đúng cho cả trường hợp
tổng hợp hình phạt. Mức tối thiểu này không đúng
cho trường hợp hình phạt tự do được thay thế cho
hình phạt tiền (xem phần hình phạt tiền).
(40).Xem chú thích 38.
(41). Cần phân biệt hình phạt này với thu hồi cấp phép
lái xe là một biện pháp thuộc Các biện pháp xử lí cải
thiện và bảo đảm an toàn được trình bày ở phần sau.
(42).Xem: Điều 45 BLHS.
(43).Xem: Các điều từ 61 đến 72.
(44).Xem: Hans-Heinrich Jecheck & Thomas Weigend,
Giáo trình luật hình sự Phần chung, Berlin, 1996, tr.
887.
(45) Trong BLHS Việt Nam đã có sự cụ thể hoá này

thể hiện ở việc quy định các tình tiết giảm nhẹ cũng
như tăng nặng TNHS tại Điều 46 và Điều 47.
(46). Trong BLHS Việt Nam, các tình tiết giảm nhẹ đặc
biệt hoặc tăng nặng đặc biệt chỉ được quy định trong
các CTTP giảm nhẹ hoặc tăng nặng ở phần các tội
phạm của Bộ luật.
(47).Xem: Điều 49.
(48). Ví dụ: Khi quy định về trường hợp năng lực lỗi
hạn chế hay khi quy định về trách nhiệm hình sự
trong trường hợp phạm tội chưa đạt BLHS đã quy
định luôn những trường hợp này được giảm nhẹ đặc
biệt theo Điều 49...
(49).Xem: Herbert Troendle, Bình luận BLHS,
Muechen 1997, tr. 365, 366.
(50). Theo BLHS thì dừng hình phạt không phải là
hình phạt. Nhưng có tác giả Đức xếp dừng hình phạt
vào hệ thống các hình phạt, xem: Hans Welzel, Luật
hình sự Đức, Berlin, 1969, tr. 252.
(51). Đây là điểm khác so với quy định của luật hình
sự Việt Nam.

38

TẠP CHÍ LUẬT HỌC - ĐẶC SAN 9/2011



×