LUẬN VĂN:
Cơ sở khoa học để phát triển nông
nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
sinh thái và hđh nông thôn Hà Nội giai
đoạn 2006-2010
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
“Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm
lớn về văn hoá, khoa học, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước". Với vị trí quan
trọng như vậy, Hà Nội có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có nhiều thách thức trong phát
triển kinh tế, văn hoá xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng. Một trong những nhiệm vụ luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm đó là “Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành
theo hướng nông nghiệp đô thị - sinh thái, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp - nông thôn; ưu tiên phát triển nông nghiệp sạch, các nghề, làng nghề truyền
thống, làng nông nghiệp du lịch sinh thái”. Trong giai đoạn 2001 - 2005, nhiệm vụ này
đã được quán triệt trong Đại hội lần thứ 13 của Đảng bộ thành phố, và đã được cụ thể
hoá trong chương trình 12 của Thành uỷ Hà Nội. Nhiều nội dung của nhiệm vụ đã đi
vào cuộc sống. Dù sao đây cũng là vấn đề mới cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, vì điểm
xuất phát của nó từ một quốc gia đang phát triển, còn có nhiều khó khăn khi thực hiện
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề đặt ra là xác
định mục tiêu, chặng đường, bước đi, các giải pháp, làm thế nào đạt được mục tiêu
trong thời gian ngắn và hiệu quả cao. Để phục vụ cho chủ trương phát triển nông nghiệp
đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010, việc nghiên
cứu đề tài “Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại
hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010” có ý nghĩa thực tiễn. Trên cơ sở đó, giúp
cho các cơ quan hoạch định đường lối, chính sách làm luận cứ xây dựng chiến lược,
mục tiêu, phương hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông
thôn Hà Nội.
2. Mục tiêu
2.1. Đánh giá thực trạng và quá trình đổi mới nông nghiệp nông thôn Hà Nội 20
năm qua. Đặc biệt là từ năm 2001 - 2005 một cách khách quan toàn diện và khoa học, từ
đó xác định những mặt được, chưa được, làm rõ nguyên nhân và rút ra những bài học
kinh nghiệm.
2.2. Đề xuất được những định hướng, giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn
Hà Nội theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn giai đoạn
2006 - 2010.
3. Nội dung chủ yếu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 3 phần.
Phần I: Cơ sở lý luận của phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá
nông thôn
Phần II: Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại
hoá nông thôn giai đoạn 1986-2005.
Phần III. Phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và
hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 2006-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để quán triệt sự logic hóa
từ lý luận đến thực tiễn và dự báo sự phát triển trong tương lai.
- Phương pháp kế thừa: toàn bộ nghiên cứu, số liệu thông tin, tư liệu, các bài
viết chuyên đề về các lĩnh vực có liên quan đến đề tài đều được kế thừa trong quá trình
nghiên cứu của các chuyên đề và đề tài một cách có khoa học.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo để thu nhập thêm các thông tin cần
thiết từ các ngành, các cơ quan chức năng và người sản xuất.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu nhằm
đánh giá một cách khoa học vấn đề thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và xây dựng hệ
thống chỉ tiêu, tiêu chí cần thiết.
- Phương pháp dự tính, dự báo phát triển kinh tế xã hội nhằm giúp cho đề tài dự
báo các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp – nông thôn Hà Nội trong giai
đoạn 2006-2010 và các giải pháp thực hiện.
5. Những đóng góp của đề tài.
5.1. Hoàn thiện cơ sở khoa học của phát triển nông nghiệp đô thị - sinh thái và
hiện đại hoá nông thôn.
5.2. Đánh giá được hiện trạng, rút ra được ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân
của phát triển nông nghiệp đô thị - sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn
1986 - 2005
5.3. Xây dựng được phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010 có luận cứ khoa học.
Phần thứ nhất
Cơ sở lý luận của nông nghiệp đô thị sinh thái
và hiện đại hoá nông thôn
1.1. Nông nghiệp đô thị sinh thái
1.1.1. Khái niệm nông nghiệp sinh thái
- Sản xuất nông nghiệp vốn đã mang trong nó bản chất sinh thái, sản xuất nông
nghiệp muốn phát triển có hiệu quả và ổn định đương nhiên phải phù hợp với điều kiện
đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn, môi trường và quần thể sinh vật tạo nên hệ sinh thái
nông nghiệp. Chính sự phù hợp đó làm cho cây trồng vật nuôi phát huy mọi ưu thế và
tác động lẫn nhau để tồn tại và phát triển, đó là một nền nông nghiệp sinh thái. Nhiều
học giả cũng cho rằng nông nghiệp sinh thái cũng chính là nông nghiệp bền vững, một
nền nông nghiệp sinh thái, hay bền vững đều mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội. Nhưng ngược lại, một nền sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao,
chưa chắc đã là một nền nông nghiệp sinh thái và bền vững nếu như nó không có tác
động đến bảo vệ môi trường sinh thái.
“Nông nghiệp đô thị: nông nghiệp đô thị là một ngành công nghiệp mà sản xuất,
chế biến và buôn bán thực phẩm và chất đốt thực hiện trên các vùng đất và mặt nước
xen kẽ, rải rác trong các đô thị và vùng ngoại ô” (UNDP). Nông nghiệp đô thị nói một
cách đơn giản bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nằm xen kẽ trong đô thị và các vùng ven đô.
Khái niệm này có thể gói gọn trong phạm vi lãnh thổ và phi lãnh thổ của một đô thị.
Sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ
sản) diễn ra trong các quận gọi là nông nghiệp nội đô, diễn ra ở ngoại thành thì gọi là
nông nghiệp ngoại đô. Điều này dẫn đến đặc điểm sự khác biệt giữa nông nghiệp nội đô,
nông nghiệp giáp ranh, nông nghiệp ngoại đô hay ngoại thành.
Nông nghiệp đô thị sẽ được phân chia theo các vành đai khác nhau do tính chất
và đặc thù của nó. Có thể phân chia theo các khu vực dưới đây:
- Nông nghiệp nội đô
- Nông nghiệp vùng vành đai nhạy cảm
- Nông nghiệp ngoại đô (ngoại thành)
Do đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội và môi trường của mỗi vùng khác nhau,
cho nên sản xuất nông nghiệp ở mỗi vùng cũng khác nhau, chính điều đó hình thành
tính đa dạng của nông nghiệp đô thị. Kế thừa các công trình nghiên cứu của các học giả
có thể nêu khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái.
Khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái: nông nghiệp đô thị sinh thái là một
quá trình sản xuất được bố trí phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng đô thị
nhằm khai thác triệt để các tiềm năng với công nghệ sản xuất sạch tạo ra sản phẩm
chất lượng cao, an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng môi trường, cảnh quan
tạo ra hệ sinh thái bền vững.
Khái niệm này chỉ ra các nội dung chủ yếu:
- Sản xuất nông nghiệp được bố trí và sản xuất phù hợp với điều kiện của mỗi
vùng, tạo ra sự tác động hữu cơ, đảm bảo cân bằng sinh thái, đạt hiệu quả sản xuất cao.
- Quá trình sản xuất nông nghiệp trên diễn ra ở vùng xen kẽ, hay tập trung các
vùng đô thị bao gồm nội đô, giáp ranh và ngoại ô.
- Sản xuất nông nghiệp trên tạo ra mối quan hệ hữu cơ trong ngành và đảm bảo
sự cân bằng sinh thái, tính hiệu quả và bền vững. Đồng thời tác động tích cực đến cải
tạo môi trường sinh thái của vùng đô thị.
- Sản xuất nông nghiệp tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn tthực
phẩm, giữ gìn sức khoẻ và nhu cầu cho người tiêu dùng.
1.1.2. Những đặc điểm của nông nghiệp đô thị sinh thái
Phát triển nông nghiệp ven đô với mục đích đầu tiên đó là phát triển nông thôn
ven đô chứ không phải là để thoả mãn nhu cầu của đô thị. Bởi thế, cần phải hiểu đặc
trưng của nông thôn ven đô, trước khi hiểu nông nghiệp đô thị sinh thái. Nông thôn ven
đô thường có các đặc điểm sau:
1.1.2.1- Có sự gia tăng mạnh về dân số, đặc biệt là sự gia tăng cơ học. Dân số
ven đô luôn được bổ xung bởi sự di cư từ nội thành ra và từ các nơi khác đến. Kết quả là
tồn tại một xã hội nông thôn ven đô đa dạng cả về dân số và nghề nghiệp… Rất nhiều
người sống ở nông thôn ven đô bị tách biệt giữa nơi ở và nơi làm việc, các hoạt động
phi nông nghiệp cạnh tranh về lao động khá lớn với nông nghiệp và nó thu hút đặc biệt
là lực lượng lao động trẻ. Cơ sở hạ tầng nông thôn khá tốt, nhưng đôi khi không gian
nông thôn bị chia cắt, gây khó khăn cho sinh hoạt và lao động của người dân.
1.1.2.2- Tình trạng sản xuất nông nghiệp không ổn định do ngày càng có sự mở
rộng các vành đai đô thị ra bên ngoài. Tốc độ đô thị hoá, khả năng quy hoạch đô thị,
chính sách và khả năng kiểm soát sự phát triển đô thị ảnh hưởng mạnh đến tính ổn định
của nông nghiệp ven đô. Đất đai nông nghiệp có xu thế giảm mạnh. Nông nghiệp ảnh
hưởng nhiều của sự ô nhiễm đô thị. Các thành phố càng phát triển càng tồn tại nhiều các
hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ, do đất đai ngày một đắt và bị mất đất vì đô thị hoá.
1.1.2.3- Nông nghiệp ven đô có nhiều lợi thế về thị trường. Tận dụng lợi thế gần
thành phố, nông nghiệp ven đô thường phát triển sản xuất các sản phẩm tươi sống, rau,
sữa, quả… tạo ra nền nông nghiệp khác biệt với đặc điểm thông thường của nó. Đó là
nông nghiệp không (hoặc ít) mang tính mùa vụ. Tuy nhiên, sản phẩm đặc sản của một
số vùng nhỏ ven đô vẫn có thể tồn tại và phát triển nhờ thị trường tiêu thụ luôn mở rộng.
Các sản phẩm đặc biệt khác như hoa, cây cảnh cũng có cơ hội phát triển.
1.1.2.4- Nông nghiệp sinh thái làm cho năng suất thấp hơn: Ngô 10%, đậu 5%…,
so với nông nghiệp thường. Trong điều kiện thuận lợi nông nghiệp sinh thái cho năng
suất thấp hơn nông nghiệp thường; Nhưng trong điều kiện không thuận lợi nông nghiệp
sinh thái cho năng suất cao hơn. Khoảng sau 3-4 năm luân canh, nông nghiệp sinh thái
có năng suất tăng lên rõ rệt.
1.1.2.5- Nông nghiệp sinh thái dùng ít năng lượng hơn nông nghiệp nhưng vì
năng suất của nông nghiệp sinh thái thấp hơn nên thu nhập thuần giữa hai phương thức
gần như nhau.
1.1.2.6- Nhu cầu lao động trong nông nghiệp sinh thái có phần cao hơn so với
nông nghiệp thường. Nông nghiệp sinh thái đi đôi với việc giữ gìn đa dạng sinh học.ở
các cửa hàng ta thấy có các loài và giống cây trồng hiện nay đã biến mất trên thị trường
như các loại ngũ cốc: Kê, ý dĩ; các loại củ như: Từ, môn, củ mài và các loại rau, quả tự
nhiên, các loại thịt lợn rừng, gà rừng v.v…
Bởi vậy do yêu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm nông nghiệp sinh học,
nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp công nghệ cao có nhiều cơ hội phát triển.
1.1.3 Nông nghiệp sinh học, hữu cơ, sinh thái
1.1.3.1 Khái niệm: ở các nước nói tiếng pháp thường gọi là nông nghiệp sinh học,
ở các nước nói tiếng Anh thường được gọi là nông nghiệp hữu cơ và ở các nước Bắc Âu
thường được gọi là nông nghiệp sinh thái.
Nông nghiệp sinh học là một nền nông nghiệp dựa trên các nguyên tắc sau: Tôn
trọng tuyệt đối các quan hệ và cân bằng tự nhiên giữa đất (môi trường), thực vật (cây
trồng) và động vật (chăn nuôi). Cấm sử dụng các hóa chất tổng hợp. Tôn trọng sinh
trưởng và phát triển tự nhiên của động vật. Nông nghiệp sinh học là hình thức nông
nghiệp sinh thái có quy định nhất, có các tiêu chuẩn xác định một cách pháp lý về sản
xuất, chế biến, nhãn hiệu. Trong hệ thống nông nghiệp sinh học, các yếu tố sản xuất
sinh vật lý quan hệ với các yếu tố kinh tế xã hội và thể chế. Nông nghiệp sinh học là
một chuỗi từ nông trại đến bàn ăn. Các thông số sản xuất và sau sản xuất bao gồm: Đất
và nước trong hệ thống cây trồng và vật nuôi bao gồm sử dụng đất, làm đất, đồng cỏ,
nông lâm kết hợp, sử dụng nước.
Quản lý độ màu mỡ của đất bao gồm sinh lý, sinh thái, quay vòng dinh dưỡng,
luân canh, trồng xen, tạo ra và sử dụng lại chất hữu cơ. Sản xuất trồng trọt bao gồm
chọn giống, nhân giống, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại. Chăn nuôi bao gồm chiến lược
nuôi dưỡng, thú y, bảo quản. Nguồn lợi nông trại bao gồm nguồn năng lượng tái tạo
được, lao động và cơ khí. Hệ thống sau thu hoạch bao gồm cất giữ, chế biến, vận
chuyển để giảm mất mát và giữ chất lượng.
Các cơ sở kinh tế xã hội và thể chế bao gồm: Các khung điều tiết và chính sách
hỗ trợ và công cụ trả cho người sản xuất, các cơ sở tiếp thị, phát triển vùng, cung cấp
thông tin và khung pháp lý. Tiêu chuẩn và định mức chỉ đạo việc kiểm tra, cấp chứng
chỉ, nhãn hiệu và bảo đảm tín nhiệm. Chương trình nghiên cứu, bảo đảm liên hệ với các
cơ quan nghiên cứu, thúc đẩy việc tham gia của người sản xuất vào nghiên cứu tại chỗ.
Phát triển cộng đồng tổ chức nông dân với các cơ chế tự điều tiết và mạng lưới quốc
gia. Cơ cấu thị trường bao gồm đầu ra, cơ hội, lợi thế so sánh, giá cả, nhu cầu, tổ chức,
hợp tác xã và hiệp hội, các tổ chức sản xuất - tiêu dùng, mạng lưới buôn bán. Hướng
dẫn thị hiếu tiêu dùng liên quan đến quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Khả năng chi tiêu của người tiêu dùng để hỗ trợ sản xuất sinh học. Việc chuyển
đổi sang nông nghiệp sinh học đòi hỏi thay đổi thành phần của đầu vào. Để thay thế chi
phí về phân hóa học và thuốc trừ sâu bệnh cần các chi phí về các đầu vào khác như chất
hữu cơ, làm đất, máy móc … Việc thay đổi luân canh làm giảm năng suất, sản lượng và
thu nhập, ảnh hưởng an ninh thực phẩm và môi trường tự nhiên.
Các thay đổi ấy ảnh hưởng đến các thay đổi về xã hội trong cộng đồng. Các
nguyên tắc mà các nông gia sinh học cần nhớ: Độ màu mỡ của đất do chất hữu cơ và
chất dinh dưỡng phân hữu cơ cung cấp. Chăn nuôi phải gắn liền với trồng trọt, với luân
canh, với thức ăn sản xuất trong nông trại. Phải chuyển đổi tất cả đất hoang hóa thành
nơi sản xuất thức ăn để chăn nuôi. Phải bảo vệ đa dạng sinh học bằng cách chọn các loài
và giống cây trồng và vật nuôi địa phương để trồng, nuôi và tìm đầu ra cho chúng
(VS.GS Đào Thế Tuấn).
1.1.3.2 Việc phổ biến nông nghiệp sinh học trong sản xuất
Hiện nay diện tích nông nghiệp sinh học trong sản xuất nông nghiệp còn rất ít. ở
các nước cộng đồng châu Âu chỉ chiếm có 2%, ở Hoa Kỳ là 0,1%, Canada là 1,34%. ở
một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ai Cập, ấn Độ, … cũng có phát triển.
Năm 1991 và 1992 cộng đồng châu Âu có chính sách hỗ trợ nông nghiệp sinh học. Từ
năm 1991 nông nghiệp sinh học theo quy trình sản xuất trồng trọt của Cộng đồng châu
Âu số 209/91. Về chăn nuôi chưa có quy trình châu Âu nhưng có 11 quy trình quốc gia.
Trong 13 năm diện tích nông nghiệp sinh học ở cộng đồng châu Âu tăng 30 lần, từ
100.000 ha năm 1985 lên 2,8 triệu ha năm 1998.Trong 10 năm gần đây tốc độ tăng là
25% năm. Nếu cứ tiếp tục theo tốc độ 15-25% năm thì đến 2005 đạt 5-10%, năm 2020
đạt 10-30%.
Năm 1998 thị trường nông nghiệp sinh học ở Mỹ đạt 4 tỷ USD, tăng 20% hàng
năm, ở Cộng đồng châu Âu đạt 5-7 tỷ Euro. Có 113.000 doanh nghiệp và 2,8 triệu ha
hay 2,1% diện tích nông nghiệp. ở Trung và Đông Âu trong các năm 90 cũng tăng
nhanh, năm 2000 đã đạt 192.000 ha. Những cản trở của việc áp dụng nông nghiệp sinh
học là: Năng suất lao động thấp hơn, nông nghiệp thường 22-25%, mà ở các nước tiên
tiến thường dùng vốn thay lao động. Thiếu phân hữu cơ, các nông trại ngày càng có xu
hướng độc canh nên không phát triển chăn nuôi. Khó khăn trong việc phòng trừ cỏ dại,
làm cỏ bằng tay tốn công. Thị trường của nông nghiệp hữu cơ nhỏ, việc trả tiền lương
chậm, thiếu tín dụng …
Để khắc phục các khó khăn các Chính phủ thường có chính sách hỗ trợ việc
chuyển đổi từ nông nghiệp sang nông nghiệp sinh học.
1.1.3.3 Việc kiểm tra và buôn bán sản phẩm nông nghiệp sinh học
Các sản phẩm nông nghiệp sinh học có bán ở cửa hàng đặc biệt hay siêu thị
thường mang nhãn hiệu có ghi nhãn AB (nông nghiệp sinh học). Có nhiều tổ chức kiểm
tra độc lập với người sản xuất được Bộ nông nghiệp uỷ quyền. Các tổ chức này thường
xuyên đến kiểm tra các nông trại và phân tích sản phẩm trong phòng thí nghiệm. Đồng
thời các tổ chức này dán nhãn hiệu của mình trên hàng hóa.
Trên thị trường rau quả nông nghiệp sinh học xuất hiện sớm nhất. Sau đấy đến
thịt, hạt cốc, sản phẩm chế biến. Hiện nay đã có hơn 20 quy trình kỹ thuật quy định việc
sản xuất thịt, sữa, phomát, trứng, giò chả, bún bánh, bánh ngọt, rượu vang, cà phê, chè,
chứa các thức ăn chế biến. Hiện nay cũng đã có hạt giống và cây con để trồng cho nông
nghiệp sinh học.
Giá của các sản phẩm sinh học thường đắt hơn sản phẩm thường 20-50%, tuỳ loại
sản phẩm. Thường sữa, khoai tây, hạt cốc, gạo ít khi đắt hơn 20%, thịt 20-40%, quả
50% vì phải bảo quản.
1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá
- Tổng giá trị sản xuất/1ha đất nông nghiệp.
- Tổng giá trị sản xuất/1ha đất canh tác.
- Tốc độ tăng của giá trị sản xuất, thu nhập/1ha canh tác, người lao động
- Chất lượng sản phẩm, độ an toàn thực phẩm đối với con người.
- Chỉ tiêu chất lượng môi trường nước đất, không khí vùng sản xuất.
1.2. Hiện đại hoá nông thôn
1.2.1. Khái niệm
Hiện đại hoá nông thôn là quá trình ứng dụng và đổi mới các công nghệ hiện
đại và phương pháp tiên tiến vào các ngành sản xuất, cơ sở hạ tầng và văn hóa xã
hội, nhằm tạo ra năng xuất lao động và xây dựng xã hội văn minh. Các ngành kinh
tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn được thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, năng suất cao. Đặc biệt
trong nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu đến bảo quản chế biến đều tiến hành công
nghiệp để tạo ra sản phẩm sạch, an toàn thực phẩm chất lượng cao là mục tiêu phấn đấu
ở vùng nông thôn. Từ sản xuất phát triển, đi đôi với nó là cơ sở hạ tầng như hệ thống
giao thông, điện, cấp nước, thông tin cũng được hiện đai từng bước để đáp ứng yêu cầu
sản xuất và đời sống.
Khi sản xuất đã được công nghiệp, các vấn đề xã hội cũng nhất thiết phải phát
triển, có như vậy tạo nên sự cân bằng phát triển, đặc biệt là trí tuệ, trình độ, tác phong
làm việc, đầu óc tổ chức để đáp ứng được yêu cầu của quá trình hiện đại hoá. Điều đặc
biệt quan tâm là ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời
sống của con người.
Như vậy, công nghiệp hoá là cầu nối đưa một đất nước, hay một vùng kinh tế,
nông thôn v.v… đến hiện đại hoá cho nên hai phạm trù này khó tách khỏi nhau công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiểu theo bản chất của nó, là quá trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sức phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Theo cách hiểu này, chúng ta thấy rõ mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa là
nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, giữ nhịp độ tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn là một nội dung quan trọng không
thể bỏ qua trong quá trình công nghiệp hoá đối với tất cả các nước. Nếu chỉ phát triển
công nghiệp ở đô thị mà không công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, thì chính
công nghiệp hóa đô thị cũng gặp khó khăn vì thiếu nông sản hàng hóa và thiếu lao động;
nông nghiệp và nông thôn chưa công nghiệp hóa thì sẽ không đủ năng lực đáp ứng các
nhu cầu trên của đô thị vì sản lượng hàng hóa ít và năng suất lao động thấp.
Nhưng nội dung và bước đi của công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn ở các
nước và các khu vực trên thế giới không giống nhau.
ở các nước Âu, Mỹ, trong quá trình công nghiệp hóa, mô hình phổ biến là ưu tiên
phát triển công nghiệp đô thị đi trước. Khi công nghiệp đô thị đủ mạnh mới thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn và đến nay trở thành những
nước công, nông nghiệp phát triển phương Tây.
Một số nước đang phát triển ở Châu Phi và Châu á, vừa qua đã rập khuôn mô
hình của các nước Âu, Mỹ nhưng không thành công.
Những nước và lãnh thổ ở khu vực Đông Bắc á bắt đầu là Nhật Bản rồi đến Đài
Loan, Hàn Quốc, đi lên công nghiệp hóa bằng con đường khác: Phát triển mạnh công
nghiệp đô thị đi đôi với công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn với phạm vi và mức
độ thích hợp, ở từng vùng trong thời kỳ công nghiệp hóa và đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ.
Xuất phát từ những điều kiện thực tế của nước ta và vận dụng có chọn lọc kinh
nghiệm của nước ngoài, Đảng ta có chủ trương trong thời kỳ đầu đi lên công nghiệp
hóa: “đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn”, nghĩa là đồng thời
vừa công nghiệp hóa đô thị vừa công nghiệp hóa nông thôn.
Cơ sở khoa học và thực tiễn của chủ trương này là ở chỗ nước ta đi lên công
nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp với trình độ sản xuất thấp kém, sản xuất tự
cấp tự túc, khối lượng và tỷ suất nông sản hàng hóa ít, không đủ khả năng đáp ứng nhu
cầu bức thiết của công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn.
Mặt khác, nông nghiệp và nông thôn nước ta là khu vực kinh tế có tiềm năng lớn
về tài nguyên mà ta có thế mạnh về đất đai và lao động. Công nghiệp hóa tác động vào
đất đai thông qua các giải pháp ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học, hóa học, cơ
điện, sẽ tạo ra năng suất cao về cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
nước, khí hậu nhiệt đới tạo ra sản lượng cao về nông, lâm, ngư nghiệp. Công nghiệp hóa
tác động vào đội ngũ lao động đông đảo gần 30 triệu người ở nông thôn, chiếm khoản
70% lao động xã hội, thông qua các giải pháp tổ chức quản lý, cơ chế và chính sách
khoa học, công nghệ thích hợp sẽ đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, phát triển sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, mở mang các ngành nghề, nâng cao năng suất lao động nông
nghiệp. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn cuối cùng tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp và dịch vụ,
góp phần tích cực vào việc phân bổ lại lực lượng lao động nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn, cải
thiện mức sống ở nông thôn và thúc đẩy việc cải tạo và xây dựng nông thôn mới. Công
nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn tạo ra điều kiện tăng trưởng khối lượng và chất
lượng nông – lâm – thuỷ, hải sản xuất khẩu, thu ngoại tệ phục vụ nhu cầu nhập thiết bị
công nghệ cho công nghiệp hóa.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nước ta có vị
trí hết sức quan trọng vì nó tạo ra tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ qúa trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức
lao động dồi dào và nguồn đất đai rộng lớn ở nông thôn.
1.2.2. Nội dung của hiện đại hoá nông thôn
1.2. 2.1 . Hiện đại hoá các ngành kinh tế
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là kết quả của quá trình phát triển từ một nền
sản xuất thủ công trở thành một nền sản xuất với công cụ cơ khí, điện khí, áp dụng các
công nghệ tiên tiến, thể hiện sự hiện đại trong sản xuất và tạo ra năng suất cao, giá
thành hạ, chất lượng tốt. Đây là sự thay đổi từ lượng sang chất, thay đổi cơ bản của lực
lượng sản xuất. Để đạt kết quả đó, loài người trải qua nhiều cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật. Song song phát triển khoa học kỹ thuật, trình độ trí tuệ của con người cũng
phát triển, quan hệ sản xuất cũng thay đổi để phù hợp với sự tiến bộ đó.
Thực chất nội dung của CNH - HĐH là như vậy, ở đây cần làm rõ thêm trong
lĩnh vực nông thôn. Kinh tế nông thôn dù nông thôn đó ở nơi nào thì sự hoạt động kinh
tế cũng thể hiện trên ba lĩnh vực cơ bản công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ. CNH HĐH các ngành kinh tế đóng vai trò quyết định sự thành bại của sự phát triển. CNH HĐH tạo ra năng suất lao động cao, sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội, làm thay đổi
xã hội. Muốn phát triển các ngành kinh tế, công nghiệp phải là ngành có tính quyết
định, từ đó thúc đẩy ngành nông nghiệp và dịch vụ phát triển. Bởi vậy, trong khi đánh
giá mức độ CNH - HĐH thì không nhất thiết các ngành phải giống nhau, do đặc điểm
của từng ngành mà mức độ CNH - HĐH có khác nhau. ở đây đang bàn đến CNH- HĐH
nông thôn cho nên vấn đề công nghiệp hoá trong sản xuất nông nghiệp, đây là một trong
lĩnh vực công nghiệp hoá gặp nhiều khó khăn. Điểm xuất phát là do đặc thù của sản
xuất nông nghiệp, đối tượng là sinh vật, diễn ra trong môi trường lớn, rất khác nhau
v.v… cho nên công nghiệp hoá diễn ra thường chậm chạp hơn các ngành công nghiệp
và dịch vụ.
Phát triển công nghệ cao: Nhờ có phát triển của công nghiệp và các tiến hộ khoa
học, ngày nay trong lĩnh vực nông nghiệp trên thế giới đã tiến hành công nghiệp hoá
trong tất cả các ngành sản xuất nông nghiệp, từ khâu sản xuất nguyên liệu, đến khâu bảo
quản, chế biến và tiêu thụ. Nhiều nước còn ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông
nghiệp. Nhưng điều khẳng định chắn chắn CNH - HĐH nông thôn là quá trình khá dài
và đòi hỏi phải đầu tư lớn.
1.2.2.2
Hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng
Các ngành kinh tế muốn phát triển thì cơ sở hạ tầng cũng phải phát triển tương ứng,
thậm chí có cơ sở hạ tầng còn phải đi trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế
phát triển :
+ Đường giao thông
+ Hệ thống điện
+ Hệ thống bưu chính, viễn thông
+ Hệ thống nước
+ Hệ thống y tế
+ Hệ thống trường học
+ Hệ thống công trình văn hoá, phúc lợi
1.2.2.3 - Hiện đại hoá các vấn đề xã hội
+ Nâng cao trình độ dân trí của người lao động và dân cư
+ Xây dưng và tổ chức nếp sống văn hoá công nghiệp cho cộng đồng
+ Hiện đại cuộc sống văn hoá, xây dựng xã hội văn minh
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiện đại hoá
Trên thế giới không có chỉ tiêu đánh giá cho một quốc gia hiện đại, nông thôn
hiện đại, mà họ có chỉ tiêu phân chia ra các nước công nghiệp (các nước phát triển) , các
nước đang phát triển, trong các nước đang phát triển còn có một số nước chậm phát
triển.
Đây là sự đánh giá thông qua trình độ phát triển kinh tế, trong đó chỉ tiêu quan
trọng là phát triển công nghiệp, dịch vụ, họ còn gọi là các nước công nghiệp. Với logic,
khi kinh tế phát triển thì kéo theo nhiều vấn đề khác phải phát triển và ngược lại kinh tế
phát triển hỗ trợ cho các lĩnh vực khác phát triển.
Cho nên có thể sử dụng tiêu thức: GDP bình quân đầu người; tỷ lệ CN -DV trong
cơ cấu GDP; trình độ phát triển cơ sở hạ tầng.
Các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn
- Mức độ thuỷ lợi hóa.
- Mức độ sử dụng động lực máy móc nông nghiệp.
- Mức độ điện khí hóa.
- Năng suất tổng hợp ruộng đất.
- Năng suất lao động nông thôn.
- Trình độ thương phẩm hóa trong nông thôn.
- Trình độ chuyên môn hóa, xã hội hóa sản xuất.
- Tỷ trọng giá trị gia tăng nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong GDP thuộc
phạm vi nông thôn.
- Trình độ văn hóa của nông dân.
- Trình độ đô thị hóa.
- Trình độ thu nhập thuần bình quân của 1 người lao động nông thôn.
- Mức độ nâng cao về đời sống văn hóa - xã hội ở nông thôn.
1.2.4 Một số vấn đề về công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông thôn nước ta
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý, theo hướng chuyển từ lao động
thủ công là chính sang lao động có văn hóa, có kỹ năng, sử dụng các phương tiện hiện
đại và phương pháp lao động tiên tiến nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đứng trước thời cơ, vận hội lớn cho sự phát
triển mạnh mẽ, đồng thời cũng đứng trước những thách thức, nguy cơ không thể xem
thường. Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, Đảng ta đã chỉ ra nhiệm vụ trung tâm từ
nay đến năm 2020 là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mà nhiệm vụ trung tâm
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao gồm những nội
dung chủ yếu sau:
- Điện khí hóa nông thôn.
- Phát triển giao thông nông thôn.
- Thuỷ lợi hóa nông nghiệp.
- Cơ khí hóa, đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản.
- Tiến hành cuộc cách mạng sinh học thay đổi giống cây, con có năng suất, chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và thế giới.
- Phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế nông thôn.
Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, Nghị quyết Trung ương bốn đã nêu ra hệ thống giải pháp lớn, cụ thể:
1.2.4.1. Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại
lao động ở nông thôn
Nông thôn nước ta đất chật, người đông, ruộng đất vốn đã ít lại đang bị giảm
nhanh (do xây dựng phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng, đô thị hóa …), đến nay đất
canh tác bình quân một nhân khẩu nông nghiệp chỉ còn hơn 800m2, riêng miền Bắc chỉ
còn hơn 500m2, thấp hơn nhiều mức “xiềng 3 sào” của những năm 60. Hơn nữa, do hầu
hết lao động làm nông nghiệp tập trung chủ yếu vào trồng trọt, trồng cây lương thực,
nên lao động nông thôn còn dư thừa lớn (theo điều tra năm 1996, tỷ lệ thiếu việc làm ở
nông thôn là 27,6% tương ứng 2,2 tỷ ngày công chưa được sử dụng. ở một số tỉnh tỷ lệ
thiếu việc làm ở nông thôn tới 30%-32% lực lượng lao động). Trong những năm tới cần
chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, vừa nâng cao giá trị trên một
đơn vị diện tích đất canh tác, tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm ngoài lương thực (rau
màu, cây công nghiệp, chăn nuôi ... Nếu trồng lúa năng suất 10 tấn trên 1 ha một năm
thì giá trị thu được trên 1 ha một năm chỉ đạt 15 - 20 triệu đồng. Nhờ thay đổi cơ cấu
cây trồng , áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, nhiều địa phương đã tạo ra 40
- 50 triệu đồng trên 1 ha một năm), vừa phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ trong khu vực nông thôn, để đến năm 2000 sử dụng được trên 75% thời gian lao
động ở nông thôn. Để thực hiện được điều đó cần phải:
1.2.4.2 Thực hiện tốt các chủ trương về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo
đường lối của Đại hội Đảng đã vạch ra
- Trong nông nghiệp, tiếp tục thực hiện các chương trình thuỷ lợi hóa, cơ giới
hóa, điện khí hóa, ứng dụng công nghệ sinh học. Đẩy nhanh việc thực hiện chương trình
thoát lũ và ngọt hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, củng cố hệ thống đê điều cả nước.
Hướng phát triển nông nghiệp là đầu tư thâm canh, tăng vụ là chính, mở thêm diện tích
ở nơi còn có điều kiện như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, vùng Tây
Nguyên. Xác định diện tích trồng lúa bảo đảm an toàn lương thực quốc gia. Việc
chuyển đất lúa ở những nơi sản xuất lúa bấp bênh, hiệu quả thấp sang trồng cây khác,
chuyển sang sử dụng cho các mục đích phi nông nghiệp phải có quy hoạch và được xét
duyệt chặt chẽ.
Quy hoạch và phát triển các vùng chuyên canh, phát huy ưu thế của từng vùng
(vùng trọng điểm lúa đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, vùng cây công
nghiệp Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, vùng cây ăn quả …). Đẩy mạnh việc áp dụng công
nghệ sinh học, ưu tiên phát triển các cây trồng, vật nuôi có quy mô xuất khẩu lớn và thị
trường ổn định, những sản phẩm quý hiếm, đặc sản của nông nghiệp Việt Nam. Trước
mắt, tập trung sức phát triển các vùng chuyên canh lúa xuất khẩu (sản xuất những loại
gạo có giá trị xuất khẩu cao), ngô, cao su, cà phê, chè, hạt điều, mía đường, cây ăn quả,
rau đậu, chăn nuôi bò, lợn và các cây con đặc sản khác.
Hết sức chú trọng phát triển các cơ sở vật chất, công nghệ bảo quản sản phẩm
sau thu hoạch (nhà kho, phương tiện vận tải, công nghệ phơi sấy, bảo quản …) và công
nghiệp chế biến để giảm tỷ lệ hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm, tăng giá trị sản
phẩm xuất khẩu, điều hoà lưu thông, bảo vệ cho cả lợi ích của nông dân và lợi ích của
Nhà nước, lợi ích của người sản xuất và tiêu dùng.
- Trong lâm nghiệp, quản lý và sử dụng có hiệu quả tiềm năng to lớn của rừng
và đất rừng có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội, sinh thái, an ninh, quốc phòng của đất
nước, đời sống của hàng chục triệu đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi, ven biển
và hải đảo. Trước tình hình đốt rừng làm nương rẫy, chặt phá, khai thác rừng bừa bãi
hiện nay đã và đang làm suy kiệt tài nguyên rừng, suy thoái môi trường, vì lợi ích trước
mắt và lâu dài của đất nước cũng như với tư cách một quốc gia đã tham gia Hội nghị về
bảo vệ môi trường thế giới, cần phải có những biện pháp kiên quyết ngăn chặn tình
trạng này.
Trước hết, phải bảo vệ cho được diện tích rừng hiện có, đặc biệt bảo vệ nghiêm
ngặt rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, khoanh nuôi rừng tái sinh, quản lý chặt chẽ việc
khai thác vốn rừng kinh tế. Xây dựng quy hoạch cụ thể và tích cực triển khai thực hiện
dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã được Quốc hội thông qua. Bảo đảm phủ xanh 40%
diện tích cả nước.
Để ngăn chặn tình trạng du canh du cư, đốt phá rừng bừa bãi, chuyển đồng bào
miền núi sang định canh, định cư, ổn định cuộc sống, cần phải thực hiện nhất quán và
tích cực chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ gia đình làm chủ, bảo đảm lợi ích của hộ
nhận đất, nhận rừng, giúp đỡ cho các hộ có điều kiện sinh sống để trồng rừng, chăm sóc,
bảo vệ rừng, để đồng bào sống được bằng nghề rừng ngay cả khi có chủ trương đóng
cửa rừng. Cần xem xét cụ thể điều kiện sinh sống trước mắt và lâu dài của nhân dân
từng xã, từng huyện miền núi để có biện pháp phát triển kinh tế - xã hội tại chỗ, hoặc
chính sách tạo việc làm, đảm bảo đời sống cho những hộ cần chuyển cư. Hạn chế thấp
nhất tình trạng di dân tự do, cần phối hợp giữa các tỉnh, các huyện có dân đi và dân đến
để tổ chức việc di dân có tổ chức, có kế hoạch, có hiệu quả.
- Trong ngư nghiệp và phát triển kinh tế biển: Nước ta là quốc gia có biển; phát
triển kinh tế biển, đánh bắt và nuôi trồng hải sản là thế mạnh của nền kinh tế nước ta.
Trong những năm qua, ngành thuỷ sản đã tạo ra lượng hàng xuất khẩu có giá trị lớn
(năm 1996: 651 triệu USD; năm 1997:750 triệu USD, năm 2004 kế hoạch xuất khẩu 2
tỷ USD ).
Tiềm năng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản còn rất lớn. Trước mắt phải khôi
phục lại đội tàu thuyền đánh bắt và diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị thiệt hại lớn do cơn
bão số 5 gây ra. Đầu tư cho các vùng không bị thiên tai phát triển để bù lại và nâng cao
sản lượng bảo vệ nguồn lợi hải sản và khôi phục môi trường sinh thái biển vùng gần bờ,
cần hạn chế việc đánh bắt cá ven bờ, chuyển mạnh sang đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thuỷ
sản với mức thâm canh cao, công nghệ nuôi trồng bền vững. Tích cực triển khai thực
hiện chương trình của Chính phủ về vay vốn (cả cho các doanh nghiệp và các hộ gia
đình) đóng tàu thuyền đánh bắt xa bờ. áp dụng công nghệ mới vào nuôi trồng thuỷ sản
với mức độ thâm canh cao, bảo vệ môi trường. Tổ chức lại công nghiệp chế biến và
dịch vụ trên bờ phục vụ các đội tàu đánh bắt xa bờ bám biển dài ngày và bảo đảm chất
lượng, nâng cao giá trị sản phẩm. Cải tạo và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở nghề cá,
các cảng cá, hệ thống kho bãi, giao thông vận tải, các cơ sở sửa chữa tàu biển … Tạo
điều kiện và khuyến khích mọi thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các hộ và nhóm
hộ ngư dân tự đầu tư, mua sắm tàu thuyền đánh bắt, chế biến hải sản, làm dịch vụ và
tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài phát triển đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, biển còn rất nhiều tiềm năng
chưa được khai thác. Cần xây dựng quy hoạch, chiến lược khai thác tổng hợp tiềm năng
của biển, phát triển kinh tế biển. Tăng đầu tư từ nhiều nguồn (trong và ngoài nước) cho
nghiên cứu khoa học biển, nghiên cứu khí tượng thuỷ văn, đẩy mạnh tìm kiếm thăm dò
dầu khí, khoáng sản biển, nghiên cứu các nguồn năng lượng biển, nghiên cứu và bảo vệ
môi trường.
1.2.4.3 Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp
hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cao cho
nông dân nghèo.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất hàng đầu của nông nghiệp. Chính sách ruộng đất
đúng đắn, phù hợp sẽ là một động lực mạnh mẽ cho nông nghiệp phát triển. Chính sách
giao đất, giao rừng cho hộ quản lý và sử dụng lâu dài từ sau Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị (5-4-1988) đã là một trong những yếu tố cơ bản tạo ra sự phát triển của nông
nghiệp những năm đổi mới vừa qua.
Nhưng đến nay việc giao đất cho nông dân quản lý, sử dụng, chưa hoàn thành,
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho nông dân làm còn chậm, cần phải đẩy
mạnh và sớm hoàn thành. Tình trạng phân chia ruộng đất quá manh mún ảnh hưởng tới
áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất. Có khoảng 10 triệu hộ nông dân
nhận 100 triệu mảnh đất, trung bình mỗi hộ tới 10 mảnh (diện tích trung bình một hộ là
800m2, ở đồng bằng Bắc bộ là 500m2, tức là mỗi mảnh chỉ khoảng 50-80m2). Bởi vậy
cần khuyến khích và giúp đỡ các hộ nông dân đổi đất cho nhau để liền thửa, liền
khoảnh, tạo điều kiện cho thâm canh và nâng cao năng suất lao động. Hiện nay việc này
đang được các hộ nông dân ở một số tỉnh thành thực hiện tích cực.
Trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang diễn ra hiện tượng sang nhượng
ruộng đất, tích tụ, tập trung ruộng đất. Những người sang nhượng, chuyển quyền sử
dụng đất cho người khác có nhiều loại, có nhiều lý do: Người chuyển sang làm việc
khác, nghề khác, người thiếu vốn, thiếu lao động, ốm đau bệnh tật hoặc rủi ro tai hoạ,
người không có kinh nghiệm sản xuất … Điều này một mặt dẫn đến tích tụ và tập trung
ruộng đất, hình thành nên những hộ sản xuất hàng hóa lớn và tạo điều kiện thúc đẩy sự
phân công lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn. Nhưng mặt khác lại đưa tới
hàng vạn hộ nông dân (hiện nay tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long)
không còn ruộng đất phải trở thành người làm thuê, làm mướn, phân hóa giàu nghèo ở
nông thôn ngày càng mở rộng.Xử lý vấn đề này có ý kiến cho rằng việc tích tụ và tập
trung ruộng đất là tất yếu phải diễn ra trong quá trình phát triển nông nghiệp và là xu
hướng tiến bộ. Để tích tụ và tập trung ruộng đất thì nhất định có một bộ phận nông dân
không có ruộng đất, nhưng đó là điều kiện để phân công lại lao động nông nghiệp, để
chuyển một bộ phận nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đó là điều bình
thường.Cần phải có sự tích tụ và tập trung ruộng đất trong quá trình phát triển của nông
nghiệp. Nhưng vấn đề là tích tụ đến mức nào, như thế nào? Tất nhiên là phải phân công
lại lao động nông nghiệp, rút bớt lực lượng lao động khỏi nông nghiệp cùng với quá
trình phát triển kinh tế đất nước. Nhưng điều đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của
công nghiệp và dịch vụ, vào khả năng thu hút lực lượng lao động của các khu vực này.
Khi công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển mà nông dân mất đất phải đi làm thuê, làm
mướn là điều không thể chấp nhận. Vì vậy Nghị quyết trung ương bốn khóa VIII cũng
đã chỉ ra là cần quản lý chặt chẽ việc nhượng quyền sử dụng đất theo đúng pháp luật,
không để nông dân nghèo sống bằng nghề nông phải bán đất (những người chuyển đi
làm nghề khác hay di cư lập nghiệp ở nơi khác … thì có thể nhượng quyền sử dụng đất).
Đặc biệt phải ngăn chặn và xử lý các thủ đoạn chèn ép, cưỡng đoạt ruộng đất của người
nông dân nghèo. Đồng thời trong điều kiện hiện nay chưa đặt vấn đề mở ruộng mức hạn
điền đối với đất canh tác. Kiểm tra việc thực hiện chính sách hạn điền đối với đất canh
tác phù hợp với điều kiện đất đai ở các vùng khác nhau. Đối với đất vượt mức hạn điền
cần có biện pháp xử lý hợp lý với từng loại đất (đất canh tác cũ, đất khai hoang, đất
chưa sử dụng …) theo nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, đồng thời
nghiêm cấm việc mua bán đất để kiếm lời, bảo đảm công bằng xã hội
Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau (Nhà nước, tập thể, tư
nhân) đang phát triển ở những nơi có nhiều ruộng đất (trung du, miền núi) để trồng cây
dài ngày, chăn nuôi đại gia súc. Khuyến khích việc khai phá đất hoang, nhận đất đồi
rừng chưa có người sử dụng để phát triển kinh tế trang trại (hiện nay kinh tế trang trại
đang phát triển, tiêu biểu như ở tỉnh Yên Bái, Bình Dương, mỗi tỉnh có 500 - 600 trang
trại quy mô từ 3 đến 300 ha, chủ yếu là đất đồi rừng, trồng cây dài ngày).
Đối với các hộ nông dân thiếu đất hoặc không còn đất canh tác cần đánh giá,
phân loại để có chính sách, giải pháp xử lý phù hợp với từng trường hợp theo hướng
vừa không để nông dân bị bần cùng hóa, phải đi làm thuê do không có đất sản xuất, vừa
tạo điều kiện cho tích tụ và tập trung ruộng đất hợp lý theo tiến trình công nghiệp hóa
(như tạo điều kiện cho họ lập nghiệp mới, làm nghề mới, giúp họ khai thác đất chưa sử
dụng hoặc cho vay vốn để chuộc lại đất …).
Đồng thời bổ sung thể chế để ngăn ngừa tình trạng lãng phí đất đai. Quy định cụ
thể điều kiện và kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhất là
chuyển đất canh tác sang sử dụng vào mục đích khác. Chính sách đền bù cho nông dân
khi lấy đất sử dụng vào mục đích khác phải có sự phân biệt giữa lấy đất cho mục đích
kinh doanh với lấy đất cho mục đích công ích. Khi lấy đất của nông dân, ngoài chính
sách đền bù bằng tiền, cần giúp nông dân có việc làm và nguồn thu mới (như có ruộng
đất ở nơi khác để sản xuất, có nghề mới, góp vốn hay làm việc ở các doanh nghiệp xây
dựng trên đất bị thu hồi.
1.2.4.4 Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn
Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn là một
hướng quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn để lao động nông thôn dư thừa không đổ xô
vào các đô thị lớn, gây ra nhiều vấn đề kinh tế-xã hội phức tạp. Phát triển công nghiệp
nông thôn, khôi phục và phát triển các làng nghề, các nghề thủ công truyền thống, các
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn, để nông dân “ly nông bất ly hương”,
là hướng phát triển được nhiều nước đang phát triển thực hiện có kết quả tốt.
Để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, Nhà
nước cần có sự hỗ trợ xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng ở nông thôn như điện,
đường, hệ thống nước, trường, trạm, chợ … Bổ sung chính sách khuyến khích mọi
người, mọi doanh nghiệp thuộc mội thành phần kinh tế, kể cả người nước ngoài đầu tư
vào phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, như xoá bỏ các
thủ tục phiền hà trong đăng ký kinh doanh, những quy định không hợp lý về cư trú, về
quản lý hộ khẩu, phân biệt người địa phương với người nơi khác đến đầu tư và tìm việc
làm; tăng thời gian miễn, giảm thuế, ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay và bảo lãnh các
khoản tín dụng, giảm giá thuê đất hoặc miễn toàn bộ tiền thuê đất đối với những dự án
đầu tư vào vùng khó khăn, kể cả với đầu tư 100% vốn nước ngoài …
Quy hoạch và xúc tiến việc xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là các khu
quy mô nhỏ, tạo sẵn cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư vào nông thôn; xây dựng các thị
trấn, thị tứ cùng với các khu công nghiệp, hình thành các trung tâm kinh tế - xã hội văn hóa, khoa học và công nghệ ở nông thôn.
Việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn cần
được tổ chức theo theo hưóng liên kết cơ sở công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản
với đơn vị sản xuất nguyên liệu, liên kết giữa các khâu trước, trong và sau sản xuất,
giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo lợi ích của các khâu,
gắn kết quan hệ nông nghiệp với công nghiệp, công nhân với nông dân. Một số mô hình
đã hình thành ở một số địa phương như Liên hiệp mía đường Lam Sơn, nông trường
Sông Hậu cần được tổng kết, nhân rộng.
1.2.4.5 Tăng nhanh trang thiết bị kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn
Trong 5 năm qua, nông thôn đã tăng thêm 56 ngàn máy kéo nhỏ, 83 ngàn máy
xay xát nhỏ, 60 ngàn máy động lực nhỏ phục vụ bơm nước và vận chuyển, 16.500 ô tô
các loại; trong ngư nghiệp có gần 100 ngàn tàu thuyền với 70 ngàn chiếc thuyền máy có
tổng công suất 1,6 triệu mã lực, do nông dân tự mua sắm trong khi Nhà nước chưa có sự
ưu đại nàp đáng kể. Tổng lượng phương tiện này nhiều hơn số được trang bị trong 20
năm trước đó (nhà nước bao cấp).
Tuy nhiên hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp, sức máy móc cơ khí mới chiếm
khoảng 20%, còn 35% là sức người, 45% là sức súc vật. Trong lĩnh vực vận chuyển, chế
biến nông sản, tỷ lệ cơ khí hóa còn rất thấp. Lao động thủ công còn ở nhiều khâu trong
quá trình sản xuất nông nghiệp, làm cho năng suất lao động thấp, chưa giảm bớt được
sự nặng nhọc của công việc, các khâu sau thu hoạch tổn thất lớn.
Trong thời gian tới Nhà nước sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất cơ
khí trong nước phục vụ nông nghiệp, nhất là các thiết bị vừa và nhỏ (máy kéo 6 - 12 mã
lực, động cơ 4 – 6 – 9 - 12 mã lực, máy làm đất, bơm nước, máy tuốt lúa, xay xát, đánh
bóng) có sức cạnh tranh với nước ngoài. Tổ chức tốt các dịch vụ lắp đặt, hướng dẫn kỹ
thuật, bảo dưỡng, sữa chữa sau khi bán máy để tăng tính cạnh tranh và phục vụ tốt cho
sản xuất nông nghiệp.
Đối với những sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp và thuỷ sản, trong nước
sản xuất chưa đủ nhu cầu thì Nhà nước có sự ưu đãi về vốn và thuế để nhập khẩu những
mặt hàng này.
Việc nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất ở nông thôn đòi
hỏi phải có sự phát triển tương ứng của lực lượng lao động, sự phát triển tương ứng về
đào tạo nguồn nhân lực. Bởi vậy, cần đẩy mạnh việc đào tạo bồi dưỡng kỹ thuật, đồng
thời bồi dưỡng kiến thức kinh tế, hình thành đội ngũ những nhà kinh doanh giỏi ở nông
thôn, trong cả nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
1..2.4.6 Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản
Trong những năm vừa qua, nông nghiệp phát triển khá. Mặc dù nông sản hàng
hóa chưa nhiều nhưng một số sản phẩm đã thiếu thị trường, khó tiêu thụ, giá cả không
ổn định, nhiều khi xuống quá thấp nên giá trị tăng thêm của nông sản không tương ứng
với mức tăng sản lượng, nông dân bị thu thiệt, được muà nông dân không phấn khởi,
làm cho sức mua của xã hội hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển chung của nền
kinh tế. Ngoài lúa thì hạt điều, cao su, cà phê, chè, các loại hoa quả khác cũng gặp
những vấn đề khó khăn về thị trường, sự bấp bênh của giá cả.
Thị trường tiêu thụ nông sản đang trở thành vấn đề lớn, bức sức đối với sản xuất
nông nghiệp và đời sống nông dân. Nông sản xuất khẩu của Việt Nam có cơ cấu tương
tự như nhiều nước trong khu vực: gạo, cà phê, cao su, chè … Gần đây các nước như
Thái Lan, Malaixia, Indônêxia, Philippin, đồng tiền mất giá do cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ càng làm cho hàng xuất khẩu của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn,
khó khăn hơn.
Để mở rộng thị trường tiêu thụ, yếu tố quyết định là nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Đó là những vấn đề thuộc
lĩnh vực sản xuất, phải phấn đấu thực hiện. Còn trong lĩnh vực lưu thông cần phải giải
quyết một số giải pháp lớn sau:
- Thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị trường trong nước đối
với các loại vật tư và sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp nông thôn với sự tham gia
của mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ tình trạng độc quyền, chia cắt, cát cứ trong việc mua
nông sản. Nhưng phải đặc biệt coi trọng, củng cố và phát triển hệ thống thương nghiệp
nhà nước trên địa bàn nông thôn, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa thương
nghiệp nhà nước với hợp tác xã, nông dân và lực lượng thương nghiệp tư nhân nhỏ.
Khắc phục tình trạng thương nghiệp nhà nước co cụm về thành phố, thị xã, thị trấn, kinh
doanh đơn thuần chỉ để nuôi sống mình, thả nổi thị trường nông thôn, gây thiệt hại đến
lợi ích của nông dân, không phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp.
Ngăn ngừa và xử lý kịp thời những hành vi đầu cơ lũng đoạn thị trường, xử lý
kịp thời những biến động trên thị trường làm thiệt hại lợi ích của nông dân và Nhà nước.
Miễn thuế lưu thông đối với hàng tươi sống và những nông sản thực phẩm thiết yếu cho
đời sống nhân dân.
- Tạo cho được một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh trên
thị trường quốc tế
Điều đó đòi hỏi phải có sự lựa chọn đúng những sản phẩm có ưu thế của nông
nghiệp nước ta để tập trung đầu tư tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ sinh học và công nghệ chế biến để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, có
chất lượng và giá trị cao, như các sản phẩm thuỷ sản, gạo, chè, cà phê, cao su, hạt điều,
rau quả, thịt lợn, gia cầm …
Để khuyến khích và tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, cần đổi mới cơ
chế quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng quy định rõ những điều kiện để cho phép
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (khi có đủ điều kiện do pháp luật quy
định) được trực tiếp xuất khẩu hoặc tham gia hiệp hội xuất khẩu nông sản, bảo đảm vai
trò chủ đạo và chủ lực của kinh tế nhà nước đối với xuất khẩu những sản phẩm chủ yếu.
Để khuyến khích chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ xuất khẩu sản phẩm thô, giá
trị thấp sang xuất khẩu sản phẩm chế biến có giá trị cao, cần đánh thuế xuất khẩu cao
đối với hàng xuất khẩu dạng nguyên liệu thô mà trong nước đã có khả năng, đã có cơ sở
chế biến. Cho nhập khẩu miễn thuế hoặc thuế suất thấp đối với các loại nguyên liệu, vật
liệu phục vụ công nghiệp nông thôn mà trong nước chưa sản xuất được hoặc còn thiếu
và đánh thuế nhập khẩu cao những nguyên liệu trong nước đã có để khuyến khích sản
xuất và sử dụng nguyên liệu trong nước.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và
hiện đại hóa nông thôn.
1.3.1 Kinh nghiệm chung:
Trong vài chục năm qua nông nghiệp đô thị phát triển nhanh song song với quá
trình đô thị hóa. ở Hoa kỳ, từ 1980 đến 1990 nông nghiệp đô thị tăng 17%. ở Nhật Bản,
Hà Lan, Thuỵ Sĩ cũng tăng mạnh.
Trong 25 năm cuối của thế kỷ 20 trong thế giới đô thị hóa, xuất hiện một xu
hướng ngược lại với quá trình tách rời giữa quá trình xây dựng đô thị hiện đại với nông
nghiệp - công nghiệp hóa xảy ra từ thế kỷ 19. Chính sự phát triển của nông nghiệp đô
thị đã hài hoà hai quá trình đô thị hóa và phát triển nông nghiệp hiện đại.
Trong các năm 1970 nông nghiệp đô thị còn ít được chú ý. ở một số nước châu
Phi bắt đầu xây dựng các dự án nông nghiệp đô thị như ở Ghana, Zaire, Zambia với sự
giúp đỡ của Pháp FOA, UNICEF. Sang các năm 1980 nhiều tổ chức phát triển của các
nước và tổ chức quốc tế hỗ trợ nhiều dự án ở châu Phi, á, Mỹ Latin. Sang các năm 1990
thì phong trào nông nghiệp đô thị phát triển mạnh ở nhiều nước và bắt đầu phát triển cả
ở các nước đã phát triển như Mỹ, Canada, Anh, Hà Lan. Nhiều tổ chức quốc tế về nông
nghiệp đô thị ra đời, thúc đẩy việc nghiên cứu về vấn đề này. Các tổ chức phi chính phủ
tham gia vào phong trào này ngày càng đông từ thực tiễn phát triển nông nghiệp đô thị
của các nước có thể rút ra mặt tích cực của nông nghiệp đô thị: Đô thị có xu hướng phát
triển với mật độ dân số thấp hơn trước nên có nhiều đất để làm nông nghiệp. Nông
nghiệp đô thị có hiệu quả và tính cạnh tranh cao hơn nông nghiệp nông thôn, nhất là
trong những ngành rau, thuỷ sản, gia cầm, lợn. Nông nghiệp đô thị ở các nước đang
phát triển nhằm tạo an ninh thực phẩm, việc làm, môi trường còn ở các nước đang phát
triển thì nhằm vào chất lượng cao.
Theo các dự báo từ năm 1993 đến 2005, nông nghiệp đô thị tăng tỷ lệ tự túc thực
phẩm từ 15% lên 33%, phần rau, thịt, cá, sữa dùng ở đô thị tăng từ 33 lên 50%, số nông
dân ra đô thị sản xuất hàng hóa tăng từ 200 lên 400 triệu người. Công nghệ trong nông
nghiệp đô thị bắt đầu phát triển nhanh và trong thời gian tới sẽ phát triển rất nhanh.
Châu á là một vùng có nhiều châu thổ đông dân. Vấn đề phát triển của các châu thổ này
từ lâu đã là một đề tài mà nhiều ngành khoa học quan tâm. Vùng Nam và Đông Nam
châu á có hai loại châu thổ: Châu thổ đông dân (trên 300 dân một km2), có 250.000km2
với 120 triệu dân và châu thổ thưa dân có 120.000 km2 với 10 triệu dân.
Trong tương lai các châu thổ như châu thổ sông Hồng sẽ phát triển như thế nào.
Dự đoán sự phát triển này thực ra rất khó. Dự đoán của P.Gourou vào các năm 1930 là:
“Nếu người ta chấp nhận một suất dư là 15 trên 1000 thì dân số Châu thổ Bắc Kỳ sẽ là
13.000.000 khẩu vào năm 1984. Chúng tôi tin rằng số dư thực sự phải giữ mức giữa 10
và 15 trên 1.000 và nếu như không gì làm biến đổi tiến bộ của sự khai triển thì dân số
vùng châu thổ sẽ lên tới 13.000.000 người giữa năm 1984 và 2001”. Trong thực tế vào
năm 1998 dân số đã tăng lên đến 14,2 triệu người hay 947 người/km2 tức là đã tăng lên
2,2 lần. Dự báo về tăng dân số gần đúng nhưng mối lo của Gourou lại không xảy ra ở
vùng châu thổ sông Hồng không những không giải quyết được đủ ăn mà còn dư thừa
một ít để xuất khẩu.
Tương lai của châu thổ này có thể hình dung ra được nếu chúng ta so sánh với
các châu thổ còn đông dân hơn nữa của vùng Đông á như Nhật Bản, Trung Quốc. Các
châu thổ của vùng này có mật độ dân số còn cao hơn châu thổ sông Hồng nhưng đã rút
lao động ra khỏi nông nghiệp nhiều hơn. Mặc dù vậy sản lượng nông nghiệp trên một
đơn vị diện tích cao hơn ở sông Hồng 2-3 lần chủ yếu do phát triển chăn nuôi. Cơ cấu
sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh cây trồng hàng hóa và chăn nuôi. Để phục vụ cho
cơ cấu sản xuất ấy thì lương thực không đủ phải nhập thêm nhiều để phát triển chăn
nuôi.
Như vậy sự phát triển của các châu thổ này chỉ có thể thực hiện được với một sự
công nghiệp hóa và đô thị hóa rất mạnh. Tuy vậy các châu thổ của Đông Nam á sẽ
không thể theo mô hình của các nước Đông Nam á là sẽ phải nhập thực phẩm từ nước
ngoài. Phải phát triển như thế nào để vừa có tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhưng vừa
phát triển được nông nghiệp, vừa tăng được thu nhập của nông dân, vừa đảm bảo được
an ninh thực phẩm vì các nước lớn khó có thể nhập lương thực của nước ngoài.
Vì vậy việc phát triển nông nghiệp trong điều kiện đô thị hóa và công nghiệp hóa
nhanh ở các châu thổ đông dân trở thành một vấn đề quan trọng cần giải quyết để có thể
phát triển. Theo nhiều dự báo thì ở châu á trong thời gian tới quá trình đô thị hóa sẽ xảy
ra rất nhanh chóng. Nếu tỷ lệ dân số đô thị năm 1995 là 50% thì năm 2025 sẽ tăng lên
70%. Các siêu đô thị sẽ được hình thành trong thời gian tới. Siêu đô thị là một khái
niệm do J.Gotunam (1978), một nhà địa lý Pháp đề nghị năm 1950 lúc nghiên cứu vùng
Đông Bắc của nước Mỹ. Các điều kiện để có siêu đô thị là: Phải có cảng, phải giữ vai
trò của một ngã tư, phải có mật độ dày đặc về quan hệ, phải có mật độ dân số cao, phải
có một hệ thống kinh tế trong đó dịch vụ chiếm một vị trí quan trọng. Trên thế giới có 5
tổ hợp siêu đô thị: Vùng 5 hồ lớn ở Mỹ, vùng bờ biển phía
Bảng1: Các hệ thống nông nghiệp đông dân ở châu á
Nhật
Đài Loan
Đông Nam Châu thổ
Bản
Dân số/ha canh tác
TQ
sông Hồng
28,5
24,3
22,6
23,0
Nông dân/ha canh tác
1,5
4,5
16,5
18,0
Lao động/ha canh tác
0,8
1,1
8,8
9,1
Sản lượng nông nghiệp($/ha)
6730
8540
4820
3550
Sản lượng trồng trọt($/ha)
1710
3090
2510
2470
Sản lượng chăn nuôi($/ha)
1450
5450
2310
1070
Lương thực
10
7
30
43
Rau quả
13
20
14
13
2
20
8
13
75
64
48
30
Lương thực sản xuất(kg/ha)
2612
2603
6961
6928
Lương thực nhập(kg/ha)
6106
8289
2164
754
Lương thực sử dụng(kg/ha)
8717
10892
9125
7683
Lương thực sử dụng(kg/người)
305
449
403
335
Thịt sản xuất(kg/người)
732
2106
913
409
Cơ cấu sản lượng(%)
Cây công nghiệp
Chăn nuôi
Nguồn: Đào Thế Tuấn, 2001
đông của Mỹ, ở Anh, ở Nhật và ở Tây Âu. Năm 2010 thế giới sẽ có 13 siêu đô thị
trên 10 triệu dân thì 7 ở châu á. Năm 2010 châu á sẽ có 30 thành thị trên 5 triệu dân
(trong lúc Mỹ chỉ có 2 và châu âu chỉ có 6). Thượng Hải, Bombay sẽ có trên 20 triệu
dân, Bắc Kinh, Dhaka, Jakarta, Manila, Thiên Tân, Calcuta và Delhi trên 15 triệu.